Bài 19 :
Ðể tiếp tục nói về việc người
giàu có thể vào được Nước Trời, với ơn trợ giúp của Thiên Chúa, ta sẽ tạm để
qua một bên các dụ ngôn nhằm cảnh tỉnh những sai lạc trong việc sử dụng của
cải, và dành hai bài tiếp theo đây để tìm hiểu về vài nhân vật khác của Tân
Ước, họ vừa giàu lại cũng vừa biết cách vào Nước Trời, đó là Ông Da-Kêu và người
phụ nữ đã dám dùng cả một bình dầu thơm đắt tiền để xức cho Ðức Giê-su. Ðó là
hai sự kiện đã được các sách Tin Mừng ghi lại cho chúng ta.
1. Con chiên lạc được tìm thấy
Về câu chuyện ông Da-kêu, chỉ
có một mình thánh Lu-ca ghi lại sự kiện này (Lc 19, 1-10) và ngài đã trình
thuật nó một cách rất thú vị.
Ông Da-kêu, một người thấp bé,
một tay trùm thu thuế nổi tiếng là giàu có. Mặc dù không nói đến lý do tại sao
ông ta giàu, nhưng việc xác định ông là trùm thu thuế đã cho ta biết rằng sự
giàu có của ông ta đến từ nghề thu thuế của ông, một công việc không mấy
"trong sạch", đặc biệt là dưới cái nhìn của người Do thái. Ðiều thú vị cho chủ đề của chúng ta là cuộc đối thoại giữa Ðức Giê-su với
ông.
Sau khi Ðức Giê-su đã vào nhà ông, kèm với rất nhiều lời
bàn tán xì xào của đám đông, và trước mặt họ, ông đã mạnh dạn đứng lên tuyên bố
với vị Thầy mà ông ngưỡng mộ rằng : "Thưa Ngài, này đây phân nửa tài
sản của tôi, tôi cho người nghèo ; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi
xin đền gấp bốn." Nhưng ta cần lưu ý là ông đã làm như thế không hề vì
sợ sệt bất cứ ai, mà là một hành động tự nguyện. Ðó cũng là một sự đáp lời cho
chính thái độ thân thiện của Ðức Giê-su khi Ngài tuyên bố sẽ đến nhà ông ngày
hôm đó, điều mà ông không bao giờ ngờ tới, cũng chẵng dám nghĩ tới. Chính tiếp
sau lời tuyên bố tự nguyện đó, ông và gia đình ông đã được một cơ may vô cùng
quí giá là được nghe lời phán quyết từ chính miệng Ðức Giê-su : "Hôm
nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này", điều mà chỉ do lòng nhân từ của
Thiên Chúa đã thương ban cho ông và, ta có thể khẳng định thêm rằng, thực ra,
nó đã được ban cho ông cả ngay trước đó rồi.
Nếu ta để ý và nhớ lại những điều đã được bàn đến trong
những bài trước về việc phải đánh đổi tất cả để được Nước Trời hay để được vào
Nước Trời (như nơi dụ ngôn người truy tìm ngọc quý; câu chuyện người thanh niên
giàu có, v.v.) thì hành động của ông Da-kêu chỉ đạt đến một phần nào của đòi
hỏi đó. Quả vậy, vì cho dù ông không tự nguyện đánh đổi tất cả những gì ông có
hầu đón nhận được Nước Trời, nhưng theo lòng thương xót vô bờ bến của Thiên
Chúa, ta thấy rằng ơn cứu độ cho ông và gia đình ông đã được hứa ban. Phần ông,
ông chỉ tuyên bố sẵn lòng chia sẻ phân nửa tài sản của mình cho người nghèo và
đền bù gấp bốn cho những ai ông đã cưỡng đoạt.
Qua đó ta có một chỉ dẫn rõ nét rằng chính Thiên Chúa đã
đi bước trước để đến với ông và Người đã tuyên bố cho ông được cứu độ ; phần
ông, ông chỉ tỏ chút lòng thành đáp lại tấm lòng thương xót của Người.
Ông không có ý đi tìm, nhưng cuối cùng ra, chính Thiên
Chúa Làm Người đã đến tìm ông như một mục tử đi tìm một con chiên lạc của Ngài,
bởi vì cũng chính Ðức Giê-su đã nói liền ngay sau đó : "Con Người đến
để tìm và cứu những gì đã mất."
Vậy, liệu ông Da-kêu có đóng góp gì để đáng được ơn cao
trọng này chăng ? Thưa có, và điều đó cũng thật đáng kể. Bởi vì, chỉ với một
lần viếng thăm của Thầy Giê-su, người mà ông đã từng nghe tiếng và rất ngưỡng
mộ, ông đã có một quyết định đến bất ngờ như ta vừa nói trên kia. Một đề nghị
tự nguyện như thế không phải là điều hiển nhiên mà ai trong chúng ta cũng có
thể làm được. Bởi vì, như ta đã tìm hiểu, những người giàu thường thích tìm
cách tích luỹ thêm, trong khi ông đã vui lòng mở hầu bao của mình một cách rộng
rải. Ðiều này quan trọng vì nó nhằm thực hiện hai điều rất cơ bản và thiết yếu
mà Thánh Kinh đã khẳng định nhiều lần : chia sẻ cho người nghèo và thực thi
công bằng xã hội.
Ðiều thứ nhất, chia sẻ cho người nghèo vốn luôn là điều ăn
khớp với tinh thần tương trợ trong Thánh Kinh liên quan đến việc sử dụng của
cải vật chất, điều mà ngay từ những ngày đầu vào sống định cư nơi Ðất Hứa, Dân
Chúa đã được nhắc nhở phải thi hành (x. Ðnl 15,7-8), hầu cho ở giữa họ không có
người nghèo (x. Ðnl 15,4), điều này xuất hiện bàng bạc trong Sách Thánh, đặc
biệt nơi sách Tô-bi-a mà ta đã có dịp bàn kỹ (xin xem bài 10) và Tân Ước coi đó
là một điểm nhấn quan trọng trong việc xây dựng cộng đồng tín hữu mà ta sẽ bàn
đến sau này khi nói về giáo huấn của sách Công Vụ Tông Ðồ.
Ðiều thứ hai, đền bù cho người bị thiệt hại, một điều luật
về công bằng được các bộ luật do thái quan tâm rất nhiều (x. Xh 21 - 22 và song
song trong Ðnl), đặc biệt hơn nữa là việc thi hành này góp phần vào công cuộc
tái lập lại nền công bằng trong xã hội Dân Chúa. Theo luật, người ta chỉ buộc
phải đền bù gấp đôi những gì mình đã làm hại cho người khác, nhưng ông Da-kêu
đã chẳng ngần ngại tuyên bố đền gấp bốn. Ở trên đời, nếu có ai đó đã làm điều
gì sai trái, cụ thể là về đức công bằng, mà đã biết nhận ra đó là điều không
phải, rồi quyết tâm chừa lỗi thì đã là tốt rồi (tuy nhiên, việc đền bồi cũng
cần phải được tinh đến), đàng này ta còn thấy ông Da-kêu đã chọn thực hành một
hành vi nhằm tái lập sự công bằng mà ông đã vi phạm.
Chính hai điều trên đã làm cho thái độ và hành động của
ông Da-kêu mang một sắc thái rất Tin Mừng, và thánh Lu-ca đã không quên tường
thuật lại cho chúng ta.
Một điều khác cần lưu ý, là nhờ việc đến thăm của Ðức
Giê-su mà ông Da-kêu đã vượt qua được rào cản của quan niệm đạo đức Do thái :
coi những người cộng tác với Ðế quốc Rô-ma là những kẻ đáng bị loại ra khỏi
cộng đồng. Ý thức này của ông được chứng tỏ qua lời tuyên bố mà ta vừa nghe ông
nói trên kia. Vâng, chính Ðức Giê-su đã vực ông dậy và đưa ông thoát ra khỏi
những rào cản đó và trả lại cho ông tư cách làm công dân của Nước Trời, một
Vương quốc vượt trội lên trên và cao hơn hẵn cái xã hội Do thái thời đó, một xã
hội xây trên nhiều rào cản mang tính xã hội và tôn giáo của nó. Chính điều này
làm cho nhân phẩm của ông được phục hồi không chỉ về mặt xã hội mà cả về mặt
thiêng liêng nữa, vì ông và gia đình ông đã nhận được ơn cứu độ vào ngay ngày
hôm đó.
Ðó là một Tin Mừng cho tất cả những ai đã và đang ở trong
cùng một tình trạng như ông Da-kêu.
Một điểm khác nữa, đó là với câu tuyên bố như trên, ông đã
khẳng định cho chúng ta hai điều : một là, ông quyết tâm thực hiện nhiều hơn cả
đòi hỏi của luật lệ do thái qua việc hứa trả gấp bốn cho những ai mà ông đã làm
thiệt hại (như ta đã nói rồi) ; hai là, ta không hề nghe nói rằng ông tự tuyên
bố sẽ bỏ nghề nhưng, một cách gián tiếp, dường như ông muốn tuyên bố sẽ tiếp
tục thi hành nghề nghiệp thu thuế của mình, có điều là theo một cung cách khác,
nghĩa là, ít ra, sẽ không còn tình trạng rằng ông sẽ cậy vào quyền làm trùm thu
thuế của mình mà gây thiệt hại cách này hay cách khác cho bất cứ ai, bởi vì
theo như lời hứa của ông thì ông sẽ phải đền gấp bốn cho họ nếu ông lại vi
phạm. Tức là, không hề có lợi ích gì cho ông, xét về mặt vật chất, khi làm điều
sai trái và bất công cho bất cứ ai giống như vậy nữa. Nói một cách khác, việc
chấp nhận đi theo đường lối giáo huấn của Ðức Giê-su không hề khiến ông cần
thiết phải bỏ nghề nghiệp của mình, chỉ có điều là kể từ nay ông sẽ hành nghề
theo một cung cách hợp đạo đức, với một bận tâm kèm theo là đem chia sẻ những
gì ông sẽ thu nhập được cho những ai cần đến, nhất là những người nghèo ; và
không còn ức hiếp ai nữa.
Thiết tưởng, đó chính là một cách thế thi hành nghề nghiệp
theo tin thần Tin Mừng, điều mà mỗi người có thể học lấy cho mình như một bài
học quí giá.
Thực thi bác ái và công bằng, điều được nhắc lại thường
xuyên trong Thánh Kinh, là một điểm tới của việc sử dụng cách đúng đắn của cải
vật chất. Nó phù hợp với tinh thần Tin Mừng và hơn nữa còn là một hệ quả của
việc gặp gỡ Ðức Giê-su Ki-tô.
Là ki-tô hữu, chúng ta có thực sự biết áp dụng những đòi
hỏi này của Tin Mừng hay chưa, hoặc nói cách khác, chúng ta có thực sự gặp gỡ
Ðức Giê-su Ki-tô trong cuộc sống của mình chưa? Nếu chưa, ông Da-kêu, theo
trình thuật của thánh Lu-ca, sẽ là một mời gọi chúng ta hãy xét lại chính mình,
hầu cho việc sử dụng của cải vật chất của riêng mình, cũng như việc thi hành
nghề nghiệp của mình, sẽ mang một chiều kích "mới", chiều kích Tin
Mừng.
22/12/2002
An Thụ