Nếu trong bộ Cựu Ước, cụ thể là tập các Sách Khôn
ngoan, đã bắt đầu thấy nói về tính phù vân của của cải bạc tiền, thì Tân Ước sẽ
khẳng định lại điều đó bằng cách làm cho chúng mất hết mọi giá trị khi đặt
chúng đối diện với các giá trị Nước Trời. Trong khi đó, cũng giáo huấn Tân Ước
sẽ không quên nhấn đến một công dụng khác quan trọng hơn của của cải vật chất
khi nhìn chúng trong khung cảnh của cộng đồng những người tin vào Danh Ðức
Ki-tô, đó là chúng có thể trở nên dấu chỉ của tình bác ái huynh đệ và của mối
hiệp thông giữa con người với nhau, và cụ thể là giữa các tín hữu. Ðó là hai
khía cạnh chính của loạt bài tiếp theo đây.
Trong
bộ Tân Ước, trong số bốn sách Tin Mừng, liên quan đến chủ đề tiền của, chúng ta
sẽ thấy rằng thánh Gio-an gần như không có chỉ dẫn nào ; còn trong số ba
tác giả Tin Mừng Nhất Lãm chỉ có thánh Lu-ca ghi lại nhiều giáo huấn có liên
quan của Ðức Giê-su, về phần hai thánh Mát-thêu và Mác-cô, ta sẽ chỉ thấy có
một vài đóng góp mà thôi, tuy nhiên chúng không hề kém quan trọng. Ðó là nói về
các văn đoạn mang tính cách giáo huấn và thiên về lý thuyết nhiều hơn, tuy
nhiên chúng luôn được khởi đi từ những quan sát và những kinh nghiệm. Tiếp đến,
ta sẽ có một số trình thuật về những thực hành cụ thể hơn trong sách Công Vụ
Tông Ðồ và các thư của các tác giả Tân Ước, đặc biệt là các thư của thánh
Phao-lô và thánh Gia-cô-bê.
Ðể giúp
thấy được vấn đề và gợi một đôi ý tưởng ban đầu cho việc đọc các giáo huấn Tân
Ước về đề tài tiền bạc trong các bài sau, đồng thời nhằm trả lời cho một số
thắc và phản ứng không nhìn nhận ý tưởng rằng Tân Ước có những chỉ dẫn về tính
tích cực của tiền bạc và sự giàu có, người viết xin dành bài dẫn nhập này cho
những phân tích diện đối diện với một vài bản văn thường được coi là minh chứng
cho điều ngược lại. Ðiều này nhằm cung cấp một vài khởi điểm cho những suy tư
sau này. Ít ra, ta có thể nói về ba điểm sau.
1.Ðể đạt đến Tình Yêu, phải loại trừ tính ích kỷ và lòng
tham lam
Trước hết, với tư cách là mặc khải
về Tình Yêu Thiên Chúa và về Nưới Trời, các giáo huấn Tân Ước chắc chắn nhằm
một mục đích hàng đầu là kêu gọi lòng hoán cải của con người quay về với Thiên
Chúa và chọn sống trong sự quan phòng của Người, và vì vậy ta sẽ được nghe đến
nhiều sứ điệp kêu gọi con người hãy tự giải gỡ cho khỏi mọi ràng buộc trần thế
hầu đạt đến chính Thiên Chúa, Kho Tàng Ðích Thật. Như ta nghe lời sau đây của
chính đức Giê-su dạy dân chúng trong bối cảnh những huấn dụ của bài giảng trên
núi, theo Tin Mừng theo thánh Mát-thêu rằng : "Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tng dưới
đất, nơi mối mọt lm hư nt, nơi kẻ trộm khot vch v lấy đi. Nhưng hy tích trữ cho
mình những kho tng trn trời, nơi mối mọt khơng lm hư nt, nơi trộm cắp khơng đo
ngạch v lấy đi được. Vì kho tng của anh ở đu, thì lịng anh ở đĩ." (Mt 6,19-21). Nhưng điều đó không
có nghĩa là của cải vật chất và các nhu cầu hàng ngày không còn cần thiết nữa
hoặc chúng chỉ là rơm rác . Vì cũng chính Ðức
Giê-su, ngay liền trước đó, khi nói về ba chủ đề bố thí, cầu nguyện và ăn chay,
trong kinh Lạy Cha, Ngài đã dạy các môn đệ phải cầu nguyện như thế nào : . Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày . (Mt 6,11). Vâng, nhu cầu vật chất vẫn luôn có chỗ của nó trong giáo
huấn của Ngài. Ðiều quan trọng, đối với Ngài, là đừng chỉ có lo lắng cho mỗi
việc thu tích cho bản thân mình những của cải rồi sẽ tàn lụi đó.
Hơn nữa, phía sau lời căn dặn được
trích dẫn ở trên, ta có thể đọc thấy một ẩn ý quan trọng về những căn nguyên
tội cần phải tránh, đó là tính ích kỷ và lòng tham lam. Thật vậy, vì tính ích
kỷ mà người ta sẽ chỉ lo ôm trọn mọi thứ cho riêng chính mình, với ảo tưởng
rằng những thứ đó sẽ đem lại cho mình sự bảo đảm tuyệt đối. Và như thế, người
ta sẽ dễ dàng quên mất Thiên Chúa và đồng loại. Trong khi đó, thực ra, những
thứ đó vốn chỉ là những cái không thể tồn tại lâu bền được, nhất là khi so sánh
với kho tàng đích thực trên trời .
Cũng vậy, vì lòng tham lam, mà người ta sẽ dễ đi xa đến mức chẳng từ nan bất cứ
cách thế nào, nhằm có thể vơ vét và gom hết về cho bản thân mình mọi thứ được coi là quí giá dưới mắt con người (như vàng, bạc và nhiều thứ của
cải khác) ; và, còn hơn thế nữa, vì muốn chiếm hữu hết mọi thứ đó, nhiều khi và
thường khi, người ta sẽ quên mất cả sự an toàn cho chính bản thân, trong khi
đang lo chạy theo của cải, để rồi, đến một lúc nào không biết, sẽ bị rơi tỏm xuống vực và có khi phải đến mất mạng. Ðúng
như một câu rất chí lý trong tiếng Việt rằng : Tham thì thâm . Và một khi lòng dạ người ta chỉ còn quan tâm đến những
chuyện như thế thì sẽ không còn có chỗ cho Thiên Chúa và Lời của Người cũng như
cho bất cứ điều gì tốt đẹp khác (chẳng hạn như các chỉ dẫn và giáo huấn của các
nền khôn ngoan nhân loại), và dĩ nhiên, cũng không có chỗ cho người anh em đồng
loại. Vâng, lối thu tích của cải như thế vốn là sai lầm. Thiết tưởng, đó là
điều Ðức Giê-su muốn nhắc nhở ở đây.
Vậy, một trong những điều đầu tiên
cần ghi nhận, trước khi bắt đầu tìm hiểu các giáo huấn của Tân Ước liên quan
đến chủ đề này, là : hãy lo tìm kiếm Nước Trời trước tiên và, đồng thời, cũng
cần quan tâm đến những nhu cầu hàng ngày trong khi đừng quên rằng còn có anh em
đồng loại bên cạnh mình, và hai điều tuyệt đối phải tránh, đó là tính ích kỷ và
lòng tham lam. Thiết tưởng đó là kim chỉ nam giúp ta đọc các giáo huấn của Ðức
Giê-su.
2.Tiền và thần tiền
Một
chất vấn khác sẽ được đặt ra tức thì, đó là làm sao hiểu được điều mà chính Ðức
Giê-su đã dạy về tính cách ngẫu tượng (Ma-mông, thần tiền ) của
tiền bạc. Quả thật, Ðức Giê-su đã dạy các môn đệ rằng : Anh em
không thể vừa làm tôi Thiên Chúa , vừa làm tôi Tiền Của (Ma-mông) được
(Mt 6,24 ; Lc 16,13b). Về lời kết luận này và về dụ ngôn đã dẫn đến lời
này ta sẽ có dịp nói đến sau này. Ở đây và bây giờ, trong phần dẫn nhập này,
chỉ xin nói một chút về nguồn gốc của từ Ma-mông. Từ này chỉ được sử
dụng có hai lần mà thôi. Ðây là một từ hy-lạp, mamwnas (ma-mô-nas), có nguồn gốc từ tiếng a-ram hoặc
tiếng sy-ri, hàm những nghĩa sau : đồng tiền, kho tàng, sự giàu có (được
hiểu như là một thứ thần đối nghịch với Thiên Chúa) ; nó còn gợi đến
tên của thần Phutus, vị thần tài, một vị thần của những người giàu có.
Ngoài
ra, theo như lịch sử tiền tệ, ta còn có thể có một chỉ dẫn khác : vào thời
kỳ cộng hoà Rô-ma, dưới sự kiểm soát của ba vị quan coi về việc chu chuyển và
đúc tiền đồng, tiền bạc và tiền vàng, các đồng tiền hợp pháp phải được đóng tên
và dấu ấn của họ trên đó, đồng thời với những ký hiệu mang tính cách lịch sử,
tôn giáo hoặc biểu tượng khác nhau và, đôi khi, cả hình của các vị tổng trấn và
các vương tước. Vào thời của hai vị Hoàng đế Sylla và Xê-da, hình của
hai vị hoàng đế độc tài này đã được khắc trên những đồng tiền vàng (thực ra,
thực hành này đã xuất hiện trong vòng 3 thế kỷ của đế chế Hy-lạp trước đó rồi).
Nhưng việc khắc hình hoàng đế trên tiền chỉ thực sự hợp hiến từ những năm 44
TCN. Ta cũng nhớ lại rằng vào thời các Ki-tô hữu đầu tiên đã có lệnh bắt buộc
tôn thờ Hoàng đế Rô-ma như một vị Thần. Và, có lẽ, đó là một trong những chìa
khoá giúp ta hiểu lời quả quyết này của Ðức Giê-su : Tiền Bạc là một đối
cực với chính Thiên Chúa. Quả quyết này đòi con người, nhất là những người muốn
đón nhận giáo huấn của Ngài, phải có một chọn lựa dứt khoát. Thiết tưởng, phải
nên hiểu tính cách đối cực này của tiền bạc trong khung cảnh đó, chứ không phải
đơn thuần là trong một cái nhìn coi tiền bạc như điều đáng ghê tởm.
3.Không phải tiền bạc, mà là sứ vụ
Một
điểm khác nữa tưởng cũng cần phải làm rõ ngay. Ðó là lời này của Ðức Giê-su : Con
chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu
(Mt 8,19-20 ; Lc 9,57-58). Ðã hơn một lần tôi được chất vấn rằng : Có
phải chăng, qua câu nói đó, Ðức Giê-su đã đòi hỏi một cuộc sống nghèo đến mức
tuyệt đối, theo chính gương mẫu giải trừ hoàn toàn việc sở hữu của cải vật chất
của Ngài ? Nếu đúng như vậy, làm sao ta có thể nói về việc Ngài coi của
cải vật chất cũng có một giá trị đáng kể ? - Câu trả lời là : câu nói
này đã được trích dẫn không đúng hoàn cảnh. Thiết tưởng, phải đọc câu này trong
bối cảnh Ðức Giê-su nói về điều kiện đủ để đi theo làm môn
đệ Ngài ; nó không thể được trưng dẫn như một biện minh rằng Ðức Giê-su là
một người nghèo đến mức không có gì cả. Thật vậy, câu này được nói trong bối
cảnh của một giáo huấn về sự đòi hỏi dứt khoát của chọn lựa đi theo Ðức Giê-su.
Chỉ có
hai trong số ba tác giả Tin Mừng Nhất Lãm, thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca đã ghi
lại trình thuật này. Thánh Mát-thêu đặt nó trong khung cảnh một đối thoại ngắn
giữa Ðức Giê-su và một vị kinh sư, ông này đã đề nghị xin đi theo Ngài làm môn
đệ ; nó chính là câu trả lời của Ngài cho ông kinh sư nọ (xin xem Mt
8,18-20). Cùng với nó ta còn có một câu trả lời khác cho một môn đệ xin được,
trước hết, trở về chôn cất cha rồi sẽ trở lại theo Ngài rằng : Anh
hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết (Mt 8,22 ; và tiếp theo).
Còn thánh Lu-ca thì đặt nó làm một trong ba cuộc đối thoại ngắn giữa Ðức Giê-su
với ba người nào đó Ngài gặp trên đường, họ muốn xin theo Ngài (xin xem Lc
9,57-62). Ngoài hai cuộc đối thoại tương tự như ta vừa nghe, ta còn nghe một
người thứ ba ngỏ ý muốn trở về chia tay với gia đình trước khi dấn bước theo
Ngài, và câu trả lời là : Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại
đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa (Lc 9,62).
Vấn đề
sở hữu, rõ ràng, không phải là chủ đích của các đối thoại trên. Vì chúng muốn
nói về vấn đề chọn lựa dấn thân và sứ vụ. Thật vậy, trở lại câu trả lời đầu
tiên, nếu lưu ý kỹ, ta sẽ tự hỏi tại sao Ðức Giê-su lại mượn hình ảnh hang chồn
và tổ chim để diễn đạt đòi hỏi của Ngài. Có phải chăng chúng nhằm nhấn mạnh đến
tính cách bị trói buộc và lệ thuộc, đến mức không thể tách rời, với hang và tổ
của loài chồn và loài chim. Ý tưởng, có lẽ, đã rõ : ngay cả những con chồn
giỏi lùng sục mọi ngách trong chốn núi rừng và cả những cánh chim không mỏi
ngang dọc lưng trời cũng không thể rứt ra được khỏi sự ràng buộc có tính cách
tự nhiên của hang và tổ của chúng. Vì, cho dù có đi xa đến đâu, những chú chồn
cũng phải lo quay về hang và, dù có bay xa đến đâu, các cánh chim vẫn cần quay
về tổ vào lúc chiều tà. Ở đây, có lẽ, vì muốn nhấn mạnh đến tính cách dứt khoát
của việc chọn đi theo Ngài, một chọn lựa sứ vụ làm người loan báo Tin
Mừng , Ðức Giê-su đã dùng những hình ảnh này để làm một phản diện
cho đòi hỏi của Ngài. Ðòi hỏi đó thực sự đáng kể : phải dứt khoát bứt ra
khỏi cả những thói quen tự nhiên cũng như nhân bản chính đáng nữa.
Tuy
nhiên, cũng cần lưu ý rằng, trong cuộc sống tại thế, Ðức Giê-su cũng đã có lúc
quay về xứ sở của Ngài, miền Na-da-rét, và Ngài cũng đã có không thiếu những
nơi trú ngụ để ăn uống và nghỉ ngơi. Có điều là, trong khi dấn bước trên đường
sứ vụ, Ngài sẳn sàng dừng lại ở bất cứ nơi đâu người ta tiếp đón Ngài, chứ
không nhất thiết phải quay trở lại đúng một vài chỗ nhất định nào đó (như thói quen
bẩm sinh thấy nơi chồn và chim). Vì đối với Ngài sứ vụ loan báo Tin Mừng đòi
phải dấn bước : một sự dấn bước không do dự và không hối tiếc. Với xác
quyết đó, Ngài cũng đã đòi hỏi cách không khoan nhượng những ai
muốn đi theo Ngài : phải bỏ lại sau lưng, ngay cả, một người cha vừa mới
qua đời, một khi đã đến lúc phải lên đường ; và chỉ có hướng về phía trước
mà tiến bước một khi đã tra tay vào sứ vụ, không được có chút do dự ngoái
lại đàng sau . Khó thật !
Tuy
nhiên, đòi hỏi đó về việc chọn lựa và dấn thân cho sứ vụ cũng có chút liên quan
cách gián tiếp đến chủ đề giải trừ sở hữu tài sản vật chất. Nhưng nó không thể
được dùng như một lập luận để bàn về vấn đề tiền bạc, như một số người thường
trích dẫn nó để minh chứng về việc sống nghèo.
Bởi vì
các trích đoạn về sứ vụ này không liên quan trực tiếp đến chủ đề của chúng ta,
nên xin được không bàn sâu thêm nữa.
Trong
quá trình tìm hiểu, ta sẽ thấy rằng Tân Ước không nhìn tiền bạc như một điều
xấu tự thân, mà như một công cụ mang giá trị hai mặt. Tùy vào cách thế nó được
sử dụng mà nó sẽ đem lại hậu quả tốt hay xấu. Do đó, những khiển trách và những
căn dặn ta sẽ thấy trong giáo huấn của Tân Ước thường nhằm vào những người chủ
sở hữu, vốn là những người phải chịu toàn bộ trách nhiệm về việc sử dụng của
cải của mình. Thật vậy, với một vài điển hình nêu trên ta có thể rút ra một
nhận định rằng : Thánh Kinh Tân Ước, đặc biệt là những chỉ dẫn về chủ đề
của cải tiền bạc, phải được đọc trong khung cảnh của chúng và trong toàn bộ bộ
Thánh Kinh, phải tìm hiểu tường tận đến mức có thể, trong khi không được lơi là
việc chiêm niệm các Lời đó. Ðiều này thật khó và rất tinh tế. Cần phải kiên
nhẫn và thận trọng hầu có thể tìm hiểu được cách tường tận đến mức có thể, và
hầu có được một cái nhìn chính xác hơn và quân bình hơn theo tinh thần của các
giáo huấn này.
Ðể
tiện theo dõi các giáo huấn của Tân Ước về chủ đề chúng ta quan tâm, cách có hệ
thống, xin đề nghị tìm hiểu lần lượt : trước hết, Ðức Giêsu với các giáo
huấn của Ngài, bằng các dụ ngôn và các chỉ dẫn trực tiếp, khởi đi từ những kinh
nghiệm cụ thể của Ngài có được trong cuộc sống xã hội thời Ngài (qua những quan
sát, những chất vấn người ta đặt ra cho Ngài và cả những khinh nghiệm sống
thiêng liêng của Ngài nữa) ; và tiếp đến là những khuyến dụ của các Tông
đồ và các vị có trách nhiệm giảng dạy Dân Mới của Thiên Chúa, khởi đi từ những
thực hành trong đời sống cộng đoàn với những vấn đề của nó.
Vậy
trước hết ta sẽ tìm hiểu về các trình thuật nói về các hành động và phản ứng
của Ðức Giê-su khi Ngài quan sát những thực hành liên quan đến tôn giáo của
những người đồng thời với Ngài. Trình thuật đầu tiên mà ta quan tâm sẽ là việc
Ngài xua đuổi những người đang buôn bán trong Ðền thờ.
03/07/2002