Nói về tiền bạc, ta còn đụng đến một khái niệm khác
đặc trưng và xã hội hơn, đó là khái niệm tiền tệ. Ðiều này có liên quan đến cả
hệ thống tài chính tiền tệ của một quốc gia, cũng như hoàn cầu nữa. Hệ thống đó
ảnh hưởng trên mỗi thành viên trong xã hội, cũng như trên các hoạt động kinh tế
thương mại liên quan. Một trong những yếu tố quan trọng của nền tài chính tiền
tệ là thuế má và hệ thống thu chi thuế. Nó phục vụ cho các hoạt động nhà nước
nói riêng và công ích xã hội nói chung. Cả hai loại chi tiêu mang tính cách xã
hội này đều ngày càng trở nên quan trọng trong mọi hệ thống chính trị xã hội.
Ðiều này đã rõ nên thiết tưởng không cần phải lý giải, có chăng ta sẽ chỉ nói
qua khi gặp những điều liên quan, dưới đây. Thánh Kinh cũng sẽ cho ta đôi nét,
tuy rất ít, nhưng không kém quan trọng, về sự cần thiết này của hệ thống thuế
má. Có điều là, đối với Ðức Giê-su, nó phải được nhìn một cách tách biệt với
một thực tại khác cao hơn mà Ngài đến để mặc khải : Thiên Chúa và Nước của
Người.
Sau khi đã nói về giá trị của của cải vật chất, về
tính cách gây cản trở của tiền bạc, ở các bài trước, ta sẽ xem về khiá cạnh
công cụ tính của tiền bạc trong hệ thống tài chính và thuế má.
Liên quan đến chủ đề nộp thuế, ta thấy có hai trình thuật
trong các sách Tin Mừng : việc nộp thuế của hai thầy trò Ðức Giê-su và
Phê-rô (Mt 17,24-27) và việc người ta chất vấn Ðức Giê-su về vấn đề
nộp thuế cho Hoàng đế Rô-ma (Mt 22,15-22 ; Mc 12,13-17 ; Lc
20,20-26). Chúng sẽ cho chúng ta một cái nhìn khác nữa trong giáo huấn của Ðức
Giê-su về vấn đề tiền bạc.
Chỉ có một mình thánh Mát-thêu ghi lại câu chuyện
nộp thuế của hai thầy trò Ðức Giê-su (Mt 17,24-27). Trong đó, Ðức Giê-su đã sai
Phê-rô đi ra biển câu cá và lấy ra từ trong miệng con cá đầu tiên câu được một
đồng tiền bốn quan để đem nộp phần thuế của hai thầy trò. Một đồng
tiền bốn quan ? Tại sao chỉ có hai thầy trò, mà không có những môn đệ khác ?
Thuế nào ?
Về câu hỏi thứ nhất. Ðồng tiền bốn quan
trong tiếng hy lạp : stathr
(stater). Một đồng stater, trong Tân Ước, trị giá bằng 2
đồng drachmas của Alexandria hoặc 1 shekel bạc của Do thái. Ðó là
số tiền tương ứng để nộp 2 xuất thuế thân, thứ thuế nộp cho Ðền thờ mà mỗi nam
nhân Do Thái phải nộp hàng năm (x. Xh 30,11-16). Ta đã có dịp nói tới thứ thuế
này trong một bài trước đây, bài số 15 (nên xin không nhắc lại tính cần thiết
của nó). Thật vậy, thứ thuế này phải nộp bằng tiền chứ không phải bằng hiện vật
như các loại của lễ dâng cúng vào mùa gặt, cũng không phải chiên dê : mỗi
người nửa sê-ken bạc.
Có nhất thiết phải đóng thuế ?
Về câu hỏi thứ hai, chỉ nộp thuế cho hai thầy trò
mà thôi, không nói đến các vị khác. Người ta có thể giải thích rằng : Tin
Mừng chỉ cần kể thêm tên Phê-rô vào với Ðức Giê-su để làm đại diện cho tất cả
các môn đệ kia, như trong nhiều trường hợp khác. Nhưng, có lẽ phải đọc trình
thuật này trong bối cảnh xã hội cụ thể của nó. Theo các nhà chuyên môn, vào
thời Ðức Giê-su, thứ thuế thân này được miễn trừ đối với các bậc thầy (rabbi)
và các vị lãnh đạo tôn giáo trong Dân. Vì vậy, ta có thể hiểu rõ hơn câu hỏi
của Ðức Giê-su đặt ra cho Phê-rô : Anh Si-môn, anh nghĩ
sao ? Vua chúa trần gian bắt ai đóng sưu nộp thuế ? Con cái mình hay
người ngoài ? , và sau lời đáp của Phê-rô, Ngài đã khẳng định : Vậy
thì con cái được miễn. . Lời khẳng định đó phản ánh thực trạng xã hội
thời đó về các bậc làm thầy và các nhà lãnh đạo tôn giáo trong Dân, như vừa
nói. Do đó, câu chất vấn của những người thu thuế Ðền thờ ở Ca-phác-na-um hỏi
Phê-rô : Thầy các ông không nộp thuế sao ? cho
thấy rằng họ không nhìn nhận Ðức Giê-su như một bậc thầy.
Việc Ðức Giê-su đề nghị Phê-rô đi câu cá lấy tiền
nộp thuế, như kể trên kia, khiến ta có thể nghĩ đến hai điều : thứ nhất, Ðể
khỏi làm gai mắt họ , đúng hơn là để tránh cho họ khỏi cớ vấp phạm.
Ðức Giê-su không muốn tranh cãi với họ về căn tính của Ngài, bởi vì họ không
chịu tin và không muốn tin. Ngài đã chấp nhận nộp thuế như mọi người dân Do
thái. Thứ hai, liên quan chặt chẽ đến điều thứ nhất, Ngài thực sự muốn tự
đồng hoá mình với Dân Ngài, trở nên một người con Dân ở dưới quyền của Lề luật
(Dt 2,17-18) theo như tinh thần tự hạ mình được thánh Phao-lô
nói đến trong lá thư ngài gởi các tín hữu thành Phi-líp-phê (Pl 2,6-11 ;
xin xem thêm Dt 8,4).
Còn về thánh Phê-rô, có lẽ, thánh Mát-thêu có ẩn ý
về một sự kiện rằng : được coi là vị thủ lãnh của cộng đồng ki-tô hữu (vì
các Tin Mừng được soạn thảo trong bối cảnh như vậy) nên thánh Phê-rô cũng có
thể được hưởng quyền miễn trừ. Nhưng, theo tinh thần đồng hoá của
Thầy, vị thủ lãnh của Dân Mới, Phê-rô, cũng cần phải ở trong và ở đồng hàng
với Dân, với tư cách là một thần dân của Nước Trời như mọi thành viên khác.
Vậy nên, cho dù là người lãnh đạo Dân Mới, xét về khía cạnh là Dân Chúa, Phê-rô
cũng chỉ là một thành viên và do đó phải chấp hành luật này như mọi người.
Thiết tưởng, đó là một lý do tại sao chỉ có thánh Phê-rô được kể ở đây.
2.Thuế má
Như đã xác định trên kia, trình thuật cuộc gài bẫy
về việc có nên nộp thuế cho Xê-da hay không, mà ta bàn đến ở đây, được thuật
lại bởi cả ba tác giả Tin Mừng nhất lãm (Mt 22,15-22 ; Mc 12,13-17 ;
Lc 20,20-26). Ta sẽ không bàn đến việc người ta muốn gài bẫy Ðức Giê-su, nhưng
sẽ xem xét cách thức Ngài dùng loại đồng tiền sử dụng thời đó để đối đáp lại
với họ, qua đó ta sẽ hiểu thêm một đặc tính khác của đồng tiền trong giáo huấn
của Ngài.
Theo trình thuật, Ðức Giê-su đã đề nghị họ cho Ngài
xem đồng tiền ra sao (xin bỏ qua việc xem xét hình dạng các đồng tiền thời đó).
Rồi từ hình dạng của đồng tiền, Ngài đã nói rõ lập trường của mình. Nếu so sánh
với trình thuật nộp thuế nói trên kia, ta sẽ thấy có một khác biệt về việc dùng
từ ngữ chỉ tiền bạc : nếu trong trình thuật trên kia nó là một đồng tiền trị
giá bốn quan, thì ở đây từ ngữ được dùng là một đồng tiền cách chung : một
đồng denier, một loại tiền đang lưu hành trong Ðế chế Rô-ma thời đó, trị
giá một ngày công lao động. Nó gợi ý về tiền tệ nói chung.
Vai trò của tiền tệ
Câu trả lời danh tiếng của Ðức Giê-su : Thế
thì, của Xê-da, trả về Xê-da ; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa , vốn
mang tính cách chính trị nhiều hơn là kinh tế : nó nói về hai hệ thống
quyền bính. Nhưng, ở đây, ta chỉ muốn tìm hiểu về vai trò của tiền tệ nói
chung. Tiền tệ được đúc ra bởi chính quyền nhằm phục vụ cho việc lưu chuyển đời
sống trong xã hội, mỗi loại tiền có giá trị trong một xã hội nhất định, nơi nó
được công nhận. Nó là một công cụ cần thiết giúp cho chính quyền điều hành nền
kinh tế thương mại quốc gia. Vì, xét về mặt kinh tế xã hội thì nó giữ một vai
trò quan trọng trong các hoạt động kinh tế của xã hội và là thước đo cần thiết
cho mọi hoạt động trao đổi trong xã hội. Nhưng, đặc biệt hơn, trong hệ thống
tài chính quốc gia, tiền tệ giữ vai trò công cụ giúp chính quyền điều tiết nền
kinh tế tài chính, nó bảo đảm cho tính độc lập của một quốc gia về mặt kinh tế
và chính trị đối với các lân bang ; hơn nữa, nó còn là một công cụ thu
thuế. Thuế, một phương thế chủ yếu trong toàn bộ thu nhập ngân sách quốc gia để
chi dụng cho các hoạt động của chính quyền và các dịch vụ công ích xã hội. Tắt
một lời, tiền tệ là một công cụ kinh tế của chính quyền một nước hoặc một vương
triều để phục vụ cho việc điều hành, sự tồn tại và phát triển về mọi mặt của xứ
sở đó.
Có lẽ, Ðức Giê-su hiểu rõ tầm quan trọng này của
tiền tệ nói chung, và hệ thống thuế má nói riêng, nên Ngài đã không ngần ngại
trả lời rằng hãy trả về cho Hoàng đế điều thuộc về Hoàng đế. Tuy nhiên, Ngài
không quên phân biệt điều đó với những gì là thiêng thánh, là thuộc về Thiên
Chúa, thuộc về Nước Trời, cần phải được trả về cho chính Thiên Chúa.
Nộp thuế ?
Việc nộp thuế, xét về khiá cạnh chính trị và xã
hội, có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm cho hoạt động của guồng máy chính
quyền, cả đời lẫn đạo, hầu duy trì một sự thống nhất trong công việc điều hành
xã hội. Tuy nhiên có người sẽ có thể lên tiếng rằng : Tôi không cần
đến một nền quản lý như vậy, tôi muốn tự do chứ không chịu ở dưới một sự điều
hành chung nào cả, vì đôi khi nó quá áp đặt hoặc quá độc đoán trên bản thân
tôi . Bởi vì, trong lịch sử đã có rất nhiều vấn đề liên quan đến hệ thống
nhà nước. Ðối với những người này, xét như vậy, việc nộp thuế là điều khó chấp
nhận. Nhưng, nếu xét suy cho kỹ, hệ thống quản lý chính trị tập trung như thế
vốn là một bước phát triển quan trọng và cần thiết trong lịch sử xã hội loài
người, một bước tiến lịch sử, cho dù đã có nhiều lập luận ngược lại. . Và, do
đó, việc nộp thuế đã xuất hiện như một hình thức phát triển tất yếu phục vụ cho
việc đóng góp của mỗi thành viên trong xã hội cho nền quản lý đó. Các đóng góp
loại này chính là những viên đá mỗi người góp vào để xây dựng xã hội.
Việc lạm dụng sự đóng góp
Tuy nhiên, cũng có không ít các lạm dụng nơi một số
người cầm quyền không thật sự quan tâm đến người dân như các vua chúa ngày xưa.
Trong quá khứ đã có một số chế độ chính trị xã hội chỉ lo cho việc vun đắp cho
sự giàu sang thịnh vượng của một số thành phần nào đó trong xã hội mà thôi. Như
dưới chế độ phong kiến, mọi đóng góp mang tính cách thuế má nhằm, trước tiên,
cung phụng cho các vua chúa và quan quyền, còn các chi phí cho các hoạt động xã
hội được trích từ đó thì không đáng kể và chỉ được coi là một ơn huệ vua chúa
ban cho dân đen. Vì thế ta hiểu tại sao, trong Thánh Kinh, cũng đã có những
phản kháng mạnh mẽ chống lại việc tập trung quyền lực vào tay một người lãnh
đạo duy nhất là nhà vua, và muốn tiếp tục duy trì chế độ liên bộ tộc (1Sm
8,10-18).
Ðâu là tiếng nói cuối cùng ?
Nhưng xét cho cùng, các bộ tộc cũng có những vị cầm
đầu và họ cũng được nhiều ưu đãi hơn người khác. Sự bình đẳng vẫn không có chỗ.
Cho nên, cuối cùng, xu hướng phát triển thành một nền chính trị tập trung quyền
lực, hầu có được một sức mạnh quân sự và chính trị hùng mạnh hơn, đã thắng thế,
bất kể mọi lý do chống lại nó (1Sm 8,19-22). Nhưng cũng phải kể đến tham vọng
quyền lực càng ngày càng hơn của những con người, những nhà lãnh đạo trong quá
khứ, mà đã đẩy tiến trình đó đạt đến hiện thực tính của nó (Thánh Kinh cũng có
nói đến việc này, nhưng xin không bàn ở đây).
Ngày nay, sau nhiều giai đoạn phát triển của nền
chính trị xã hội, các chế độ chính trị ngày càng mang nhiều tính dân chủ, hoặc
ít ra là tính xã hội, hơn : các đóng góp thuộc dạng thuế má được ban hành
và áp dụng đều có sự góp ý tích cực của toàn dân, đại diện bởi Quốc hội. Cũng
tương tự, đối với việc chi tiêu ngân sách quốc gia. Và, ngày càng rõ ràng, thuế
má và việc nộp thuế trở thành một điều tự nhiên và quan trọng cho
hoạt động và sự phát triển của xã hội, của dân tộc, của quốc gia. Nó trở nên
không thể thiếu được đối với một quốc gia. Tuy nhiên cần phải có những chính
sách và chương trình thu chi cho hợp lý và hợp đạo đức nữa.
Tính cách chính đáng của thuế má
Tiền tệ, một phương thế cụ thể để thực hiệc chính
sách thuế, nhất là ngày nay, có vai trò cụ thể của nó. Vậy, liên quan đến việc
nộp thuế, từ xa xưa, Ðức Giê-su đã nhận ra tầm quan trọng của nó và Ngài đã
không ngần ngại, cách gián tiếp, khẳng định điều đó qua việc chọn nộp thuế chứ
không dùng quyền miễn trừ, với tư cách là một bậc thầy trong dân (Mt 17,27).
Vậy qua việc công nhận tính cách hợp pháp và chính
đáng của quyền bính thế trần, qua việc nhìn nhận sự hợp lý của việc nộp thuế
cho Hoàng đế, Ðức Giê-su đã gián tiếp chuẩn nhận sự cần thiết của hệ thống tài
chính quốc gia, được thực hiện nơi việc thu thuế bằng hiện kim,
như một điều kiện xã hội tự nhiên phục vụ cho các hoạt động chính
trị xã hội. Về sau, thánh Phê-rô cũng viết cho các tín hữu điều tương tự (1Pr
2,13-17) để chỉ rõ rằng không có sự mâu thuẫn giữa việc sống đạo và việc thi
hành nhiệm vụ người dân trong một quốc gia dưới bất kỳ một chế độ chính trị
nào. Thánh Phao-lô cũng dạy cùng một thể cách như vậy cho các tín hữu của ngài
(Rm 13,1.5-7 ; Tt 3,1). Bởi vì, việc nộp thuế, mà tiền tệ gián tiếp giữ
vai trò công cụ, vốn là một trong những công cụ quan trọng cho việc điều hành
và vận hành của một xã hội chính trị, theo như sự phát triển xã hội loài
người ; nhất là ngày nay, điều này càng hiển nhiên và không thể thiếu
được.
Kết Luận : công cụ tính của tiền tệ
Các giáo huấn của Ðức Giê-su đã không bị lỗi thời
qua dòng thời gian. Ngài đã nhìn nhận việc nộp thuế như một thực tại có thực và
cần thiết nhưng đồng thời, như gợi ý trên kia, Ngài cũng nói rõ sự phân biệt
giữa nó với một bình diện khác trong đời sống con người, với tư cách là một
nhân linh có nhu cầu tôn giáo : cuộc sống trần thế này, với những điều
kiện cần thiết của nó, không đủ cho con người ; còn có một bình diện khác
quan trọng hơn, đó là sống trong tương quan với Thiên Chúa. Tính cách cần
thiết của điều thứ hai này được đặt một cách loại suy với sự cần thiết phải
đóng góp cho hoạt động chung của xã hội qua việc nộp thuế. Do đó, phải trả về
cho Thiên Chúa điều gì thuộc về Người.
Chính việc đặt song song hai bình diện như vậy cho
thấy rõ rằng Ngài nhìn nhận tầm quan trọng của việc đóng góp xã hội, trong
đó tiền bạc giữ một vai trò dụng cụ thực hiện. Và điều này phải được áp dụng
cho mọi thành phần trong xã hội.
Nói cách khác, tiền bạc ở đây được nhìn dưới góc độ
một công cụ giúp thực hiện các hoạt động chính trị xã hội của chính quyền, đại
diện cho toàn dân .
An Thụ
08/10/2002