Một góc nhìn khác đối với của cải
Sau những gương mặt đáng kính của ba vị đại Tổ phụ,
mà nơi các ngài, chúng ta đã có thể học được những điều bổ ích liên quan đến
chủ đề sử dụng của cải vật chất. Trong Thánh Kinh, của cải vật chất vốn không
phải là một chủ đề cấm kỵ, như ta đã thấy, nhưng bên cạnh đó cũng cần lưu ý đến
sự cảnh giác rất quan trọng về các mối nguy do chúng có thể mang lại. Thiết
tưởng, đã tới lúc phải nói về những nguy hiểm này.
Một mặt, để tránh dừng lại quá lâu nơi quyển sách
thứ nhất của bộ Thánh Kinh và với ý muốn tiến xa hơn trong cuộc hành
trình của chúng ta dọc theo bộ sách Mạc Khải này, vì còn không ít điều
cần phải nói, người viết xin được để qua một bên một nhân vật thú vị khác, ông
Giu-se, con trai áp út của Tổ phụ Gia-cóp. Lý do không phải vì độ dài của những
trang viết, mà là do tính cách phức tạp của vấn đề liên quan đến nhân vật này.
Vì, thật vậy, nó có thể đưa đến những tranh luận, điều này không phải là không
bổ ích, nhưng đó không phải là mục đích của chuổi suy tư này, có lẽ sẽ có dịp
bàn đến ở một nơi khác.
Vậy, trong bài này, ta sẽ bước vào sách Xuất Hành,
quyển sách thứ hai của bộ Thánh Kinh, và cũng là quyển thứ hai trong bộ Luật
Mô-sê (tiếng do thái gọi là Tora, bộ sách quan trọng nhất của Do Thái
giáo : sách Sáng thế, sách Xuất hành, sách Lê-vi, sách Dân số và sách Ðệ
nhị luật).
Xuất Hành, sự kiện nền tảng
Sự kiện Xuất Hành khỏi Ai-cập là
một mắt xích vô cùng quan trọng trong lịch sử Dân Ít-ra-en (xin xem Xh 12,14.27.41-42).
Nó được Mô-sê - hoặc những nhà làm luật khác nhân danh ông - sử dụng như là một
điểm qui chiếu nền tảng cho luật lệ Do Thái giáo (Xh 20,1 ; 23,15 ;
34,18 ; Ðnl 5,6 ; v.v.) ; và các ngôn sứ cũng nhắc lại nhiều lần
để khiển trách hoặc nhắc nhỡ Dân ăn năn hối cải quay về với Thiên Chúa (xin xem
Hs 11,1 ; 12,10 ; Am 2,10 ; 3,1 ; Mk 6,4 ; v.v.).
Cuộc Xuất Hành này được kể trong toàn bộ quyển sách
thứ hai, gồm 40 chương. Sách bắt đầu với sự phát triển của Dân bên đất Ai-cập,
rồi việc họ trở thành nô lệ cho người Ai-cập, kế đến là cuộc giải thoát diệu kỳ
và vĩ đại của Thiên Chúa, sau đó là cuộc hành trình 40 năm dài của họ trong sa
mạc, và sách kết thúc với việc hoàn tất công trình Lều Tạm để thờ kính Gia-vê,
theo lệnh của Người. Nói cách khác, Xuất Hành là một sự kiện thuần tôn giáo,
mạc khải về kỳ công siêu việt của Ðức Chúa đã làm cho Dân Ít-ra-en, theo niềm
tin của họ.
Tuy nhiên, ngay trong chính sự kiện quan trọng đó,
ta cũng tìm thấy một chi tiết dù rất nhỏ nhưng có lẽ không ít quan trọng, liên
quan đến một trọng tội chống lại Thiên Chúa có dính líu tới vàng bạc : chuyện
con bê bằng vàng .
Ðể thấy được hết cái hay của vấn đề, và đọc được
mối liên hệ của trọng tội này với việc sử dụng của cải vật chất, ta cần phải
theo dõi câu chuyện cho đến tận ngọn ngành của nó. Vâng, phải bắt đầu từ đất
Ai-cập.
Dân lâm cảnh khổ, Chúa phái Mô-sê
Sách Xuất hành, ở những dòng đầu, kể cho ta
rằng : Con cái Ít-ra-en sinh sôi nảy nở, nên đông đúc và ngày
càng hùng mạnh : họ lan tràn khắp xứ (Xh 1,7). Ðiều này đã làm
cho một vị tân hoàng đế Ai-cập thời đó e ngại và đó là một lý do khiến ông ta
ra lệnh biến dân này làm nô lệ cho người Ai-cập để xây dựng những công trình và
thành quách cho Pha-ra-ô (Xh 1,8-14). Tiếp đến là một lệnh truyền giết tất cả
các nam nhi sơ sinh của người Híp-ri ngay từ lúc vừa lọt lòng mẹ (Xh 1,15-22),
tính cách lịch sử của lệnh truyền này rất yếu vì dường như chỉ có Thánh Kinh
ghi lại mà thôi.
Trong bối cảnh đó, Mô-sê khóc chào đời, đã được một
vị Công chúa Ai-cập nhận làm con nuôi , được nuôi dưỡng và dạy dỗ trong triều
đình Ai-cập ; sau vài năm được chính bà mẹ ruột chăm sóc như một người vú nuôi
(xin xem Xh 2,1-10). Chính ông sẽ là người được Thiên Chúa chọn để thực hiện
công cuộc giải thoát Dân và dẫn dắt họ trong suốt 40 năm trời trong sa mạc theo
lệnh của Thiên Chúa (về câu chuyện rất dài này, xin xem Xh 3tt).
Trong trình thuật về cuộc giải thoát Dân khỏi ách
nộ lệ cho người Ai-cập, đã có một cuộc tỉ thí giữa quyền năng của
Thiên Chúa, thực hiện bởi ông Mô-sê, và các thầy phù thủy Ai-cập về các dấu lạ
như gậy biến thành rắn và nuớc biến thành máu (Xh 7,8-25) ; sau đó là các
đại nạn như ếch nhái lan tràn, muỗi mòng, ruồi nhặng, ôn dịch, ung nhọt, mưa đá
và cảnh tối tăm (Xh 7,26 - 10,29) ; sau cùng, là một tai ương khủng khiếp
giáng xuống dân Ai-cập : các con đầu lòng của họ phải chết (xin xem Xh
11,1-10 ; 12,29-34). Với 10 tai ương đó, Pha-ra-ô đã phải để cho Dân
Ít-ra-en ra đi.
Không ra đi tay trắng
Trong câu chuyện dài này, một chi tiết thú vị đối
với chủ đề của chúng ta : Ðức Chúa phán bảo ông Mô-sê rằng hãy
nói cho dân nghe : Ðàn ông thì hỏi anh hàng xóm, đàn bà thì hỏi chị láng
giềng, lấy những đồ bạc và đồ vàng (Xh 11,2) và rồi Con cái
Ít-ra-en đã làm theo lời ông Mô-sê ; họ đã xin người Ai-cập những đồ bạc,
đồ vàng và áo xống. Ðức Chúa cho dân được cảm tình của người Ai-cập, họ làm như
lời dân Ít-ra-en xin, và dân đã tước đoạt của người Ai-cập (Xh
12,35-36). Thật đáng ngạc nhiên, và ta sẽ phải tự hỏi rằng tại sao một chi tiết
như thế lại được nhắc đến trong trình thuật này. Một mạc khải quan trọng về
niềm tin vào Thiên Chúa Quyền Năng Tuyệt Ðối lại được các soạn giả Sách Thánh
chen vào một mệnh lệnh rất tầm thường như vậy trong chính miệng
Thiên Chúa, phải hiểu làm sao đây ?
Ta có thể hiểu theo ba lý do sau đây. Trước hết, sự
giàu có vật chất luôn được gắn chặt với chúc lành của Thiên Chúa : đó như
là một dấu chỉ rằng Thiên Chúa đồng hành với những ai người muốn chúc lành, như
ta đã có dịp thấy nơi các bài trước. Thứ đến, dường như của cải vật chật là một
chủ đề gắn chặt với cuộc sống cụ thể và hàng ngày của con người, đến nỗi các
soạn giả Sách Thánh, vô tình hay hữu ý, không thể bỏ quên nó cho dù là trong
một trình thuật thánh như cuộc Xuất Hành. Và lý do sau cùng sẽ cho thấy một
điều lý thú, khi ta nhận ra chi tiết này, được đặt ở đây, có liên hệ đáng kể
với chủ đề của bài này : chuyện con bê bằng vàng , một tội phạm
chống lại Thiên Chúa.
Vâng, với vụ tước đoạt của cải người
Ai-cập đó, Dân đã chiếm hữu một số lượng vàng bạc đáng kể. Chỉ với một đôi con
số theo bảng kết toán công trình xây dựng Lều Tạm, vào cuối sách Xuất
hành, ta có thể hình dung ra sự giàu có của họ : vàng : 870 Kg
và 220 lượng ; bạc : 3000 Kg và 530 lượng ( Xh 38,21-31).
Trở lại thời điểm xuất hành khỏi Ai-cập, ngay sau
biến cố các con đầu lòng của người Ai-cập bị chết, ta còn nghe Sách Thánh kể
rằng : Ðang đêm nhà vua triệu ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến và
bảo : Cả các ngươi lẫn con cái Ít-ra-en, đứng lên, đi ra, không được ở
giữa dân ta nữa ! Ði mà thờ phượng ÐỨC CHÚA như các ngươi đã nói ! Cả
chiên cừu, bò bê của các ngươi, cũng hãy đem đi như các ngươi đã nói. Ði đi và
cầu phúc cho ta nữa (Xh 12,31-32 ; để hiểu rõ tại sao Pha-ra-ô lại nói
như vậy, xin xem thêm Xh 10,24-26).
Quả vậy, con cái Ít-ra-en rời khỏi Ai-cập với sự
giàu có về vàng bạc và gia súc. Nhưng đó không phải là một cuộc cướp bóc
của người Ai-cập ; trái lại, có lẽ nên hiểu rằng đó chính là công lao của
hàng trăm năm làm nô lệ cho người Ai-cập, đó là phần công sức của họ đáng được
hưởng. Ỏ đây, có một sự tương đồng nào đó với trường hợp giữa Gia-cóp và La-ban
mà ta đã nói trong bài trước. Vì, thật vậy, có lẽ không phải vô tình ( và chắc
là còn nhiều ý nghĩa khác nữa) mà sách Xuất hành, trong khi kể về cuộc nhổ trại
lên đường của Dân khi được lệnh rời đất Ai-cập, đã thêm một chi tiết nhỏ: Thời
gian con cái Ít-ra-en ở Ai-cập là bốn trăm ba mươi năm (Xh 12,40).
Giữa sa mạc, nhưng không thiếu của ăn
Với cuộc hành trình dài 40 năm trong vùng sa mạc,
số lương thực thực phẩm họ mang theo được sẽ chẳng đáng là bao, và cũng chẳng
bao lâu sẽ cạn kiệt. Và, một ngày kia, họ đã chẳng còn gì để có thể làm nguôi
cơn đói, cho dù trong tay họ có khá nhiều vàng bạc. Họ đã kêu trách ông Mô-sê,
kêu trách Thiên Chúa (xin xem Xh 16,2-3). Rồi Thiên Chúa đã ban cho
họ lương thực : man-na, có lẽ là một thứ tiết chất của các loài côn
trùng nơi các bụi cây mà dân du mục trong vùng đã biết dùng làm thực phẩm (mùa
của nó khoảng tháng 5 - 6 hàng năm, trong vùng sa mạc Xi-nai) ; và chim
cút, có lẽ là các con kiệt sức nơi các loài chim di trú rơi xuống khi ngang qua
vùng hoang mạc này (xin xem Xh 16, 4-34).
Chương thứ 16 của sách kết thúc : Con
cái Ít-ra-en đã ăn man-na suốt bốn mươi năm, cho đến khi họ tới đất định
cư ; họ đã ăn man-na cho đến khi tới ranh giới đất Ca-na-an (Xh
16,35). Ta có thể nói, họ đã có được một sự bảo đảm về lương thực, họ không còn
phải lo lắng về việc này, trong chuổi ngày hành trình trong sa mạc. Và, vì thế,
dường như họ đã nghĩ rằng họ giàu có với của cải vàng bạc họ có
trong tay. Ðó, có lẽ, là một trong những lý do khiến họ phạm lỗi lầm nghiêm
trọng qua vụ con bê bằng vàng .
Vàng dư bạc thừa, lại dùng không phải
Khi họ đến núi Xi-nai, một mình ông Mô-sê đã leo
lên ngọn núi rực lửa, theo lệnh của Thiên Chúa, để nhận lãnh hai tấm Bia Ðá có
khắc ghi Lề Luật, Mười điều răn (Xh 24,12-18 ; 31,18). Về phần
Dân, vì đợi lâu quá mà không thấy ông Mô-sê trở xuống, và nghĩ rằng ông đã bị
chết thiêu trên đó, nên họ đã đề nghị với ông A-ha-ron : Xin ông
đứng lên, làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng tôi, vì chúng tôi
không biết chuyện gì đã xảy ra cho cái ông Mô-sê này, là người đã đưa chúng tôi
lên từ đất Ai-cập (Xh 32,1). Với vàng bạc họ tự nguyện đóng góp, ông
A-ha-ron đã đúc thành một con bê bằng vàng cho họ (xin xem Xh 32,2-4a). Rồi họ
đã thờ lạy và dâng lễ kính Gia-vê qua ngẫu tượng con bê đó. Họ tự nói
rằng : Hỡi Ít-ra-en, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ
đất Ai-cập (Xh 32,4b ; xin xem 32,5-6).
Vâng, họ cần có một vị thần để tôn thờ, một vị thần
có hình hài rõ ràng theo như tưởng tượng của họ, hình một con
bê - vốn là một trong những biểu tượng thần thiêng của các dân tộc sống định cư
ở Ðông Phương (xin xem thêm 1V 12,28) -, và là một con bê bằng vàng -
vàng, một kim loại quí, theo cách nhìn của người đời, có giá trị cao và là biểu
tượng của sự giàu có vật chất, ai sở hữu nhiều vàng sẽ dễ dàng có nhiều quyền
lực trong tay. Việc đúc tuợng thờ như vậy là điều mà Thiên Chúa đã cấm họ (xin
xem Xh 20,1-6). Vì Người là Thiên Chúa vô hình và đầy quyền năng, là ÐỨC CHÚA -
GIA-VÊ -, tên của Người gắn liền với việc Người thực hiện qua công trình cứu
độ.
Chính vì vậy mà ông Mô-sê đã nỗi giận đến mức đập
vỡ hai tấm Bia Lề Luật do chính Thiên Chúa ban cho, khi ông từ trên núi xuống
và nhìn thấy điều sai trái họ đang làm (xin xem Xh 32,15-19). Ông đã lấy con bê
vàng họ đúc ra đốt đi, tán nhuyễn ra, rắc lên mặt nước, rồi bắt con
cái Ít-ra-en uống (Xh 32,20). Thái độ giận dữ và cách làm này của ông
Mô-sê, theo một số nhà chuyên môn, muốn nói rằng : hành động thờ con bê bằng
vàng của họ sẽ là sự kết án gắn chặt với xương thịt của họ. Qua sự lạm dụng và
sử dụng của cải sai mục đích như vậy, họ không chỉ đã bị mất vàng bạc cho một
điều chẳng ích lợi chút nào, vì nó chẳng thể cứu được họ ; mà hơn nữa, một
khi họ đã phải uống thứ nước có chứa bột vàng đó, thì chẳng mấy chốc, nó chỉ có
thể trở thành một thứ chất thải của cơ thể họ mà thôi. Giá trị của vàng bạc và
hình tượng con bê mà họ muốn tôn thờ, thay vào chỗ của Thiên Chúa, hoá ra chỉ
đáng có thế. Nó hoàn toàn mất hết giá trị khi đối diện với Thiên Chúa Quyền
Năng, Thiên Chúa của họ, Ðấng đã giải thoát và đưa họ lên từ Ai-cập.
Bài học về dùng của sai lầm
Dân Ít-ra-en đã bị sa vào cạm bẩy của sự giàu có
vật chất, thay vì sử dụng nó để xây dựng công trình thờ phượng Thiên Chúa (như
họ sẽ dùng số vàng bạc góp được để đóng góp vào công trình Lều Tạm ít lâu sau
,như ta đã nhắc tới trên kia), thay vì dùng nó để làm nhiều điều hữu ích khác
cho đồng loại cũng như cho bản thân ( như ta đã thấy nơi các vị tổ phụ), họ đã
dùng vàng bạc họ có mà làm chính điều Thiên Chúa tuyệt đối cấm : đúc ngẫu tượng
để tôn thờ, bắt chước các dân khác. Ðó là cấm kỵ đầu tiên của Mười Ðiều
Răn (xin xem Xh 20,1-6 ; 34,17 ; Ðnl 5,6-8). Họ đã phạm tội
chống lại Thiên Chúa.
Cách này hay cách khác, lỗi lầm thuộc loại này
không phải hoàn toàn xa lạ đối với mỗi chúng ta, những con người đầy yếu đuối.
Vậy, thiết tưởng, kinh nghiệm vấp ngã này của Dân sẽ là một nhắc nhỡ hữu ích
cho mỗi người trong việc sử dụng sự giàu có của mình.
An Thụ
18/03/2002