Ta phải phân biệt đọc một bản văn và nghiên cứu
bản văn ấy.
Đọc một bản văn là bắt nó phải cho ta một ý nghĩa
cho ngày hôm nay. Đây là điều chúng ta quen làm. Ta thường nói "đó là
điều bản văn muốn nói với tôi... điều đánh động tôi trong bản văn nầy
là...". Đọc như vậy thì rất dễ. Nhưng cũng có nguy hiểm bởi vì làm sao
ta có thể bắt bản văn nói lên bất cứ điều gì ? Vì thế mà cần phải nghiên cứu.
Nghiên cứu tức là làm việc trên bản văn bằng những
phương pháp phân tích, nhằm mục đích giúp ta thấy rằng có một khoảng cách giữa
chúng ta với bản văn khiến ta không thể bước vào bản văn một cách trọn vẹn. Vì
thế không nên liều lĩnh giải thích nó theo cảm quan và tâm lý của ta. Nghiên cứu
cũng buộc ta phải đọc bản văn thật sát. Có những bản văn ta biết rõ (hoặc tưởng
là biết rõ), chẳng hạn những bản văn Tin mừng, đến nỗi chúng ta không phải
"đọc", mà chỉ nhìn lướt qua chúng, rồi lặp lại ý nghĩa mà ta thường
nghe nói về chúng (một thí dụ : khi đọc Lc 2,1-20 người ta thường nói "đó
là chuyện các mục tử đến thờ lạy Chúa". Nhưng bạn hãy đọc kỹ bản văn
ấy xem, bạn sẽ thấy rằng các mục tử đến không phải để thờ lạy mà chỉ là để
"giảng" cho Đức Maria nghe !).
Hai phương pháp phân tích :
Trước một bản văn chúng ta thường sử dụng hai loại phương pháp
nghiên cứu. Xin lấy một thí dụ đơn sơ :
Bà cô của bạn viết thư cho bạn. Khi đọc thư bạn thấy được bà qua ý
tưởng của bà, và bạn giải nghĩa bức thư theo những gì bạn đã biết về bà. Giả sử
có đoạn bà than phiền, nếu như bạn biết bà có tính hay than phiền luôn thì bạn
chẳng quan tâm, bạn chỉ nói : "bà ấy vốn là như vậy mà" ; trái
lại nếu bạn biết bà là người rất nghiêm khắc với bản thân thì bạn sẽ nói : "bà
mà than phiền thì chắc chắn là bà đang buồn khổ lắm". Hoặc hơn nữa,
nếu trong thư có một câu công kích đám trẻ hay một nhóm xã hội bạn sẽ nói : "bà
ta thuộc thế hệ xưa rồi nên không thể thông cảm với ngày nay". Tức là
bạn đã đi ra khỏi bức thư để hình dung bà cô của bạn, và từ cái hình dung ấy
bạn tìm hiểu xem bà cô muốn nói gì.
Cũng thế, bạn đang đọc một bản văn và gặp một đoạn khó hiểu. Bạn
ngừng đọc một lúc để tìm hiểu ý nghĩa, bạn phân tích ngữ pháp. "Động từ
ở đâu? Chủ từ ở đâu? Túc từ ở đâu...?", sau đó bạn đọc lại bản văn để
tìm cho nó một ý nghĩa. Cũng có thể xảy ra là bạn thấy bức thư bắt đầu với
giọng bi quan nhưng kết thúc cách lạc quan. Bạn đọc lại bức thư để xem cái gì
đã khiến giọng điệu thay đổi như thế. Trong trường hợp này, bạn không ra khỏi
bản văn nhưng bạn tìm hiểu trong chính bản văn.
Đó là hai cách nghiên cứu một bản văn, các chuyên viên đã sử dụng
chúng và hoàn chỉnh chúng. Dưới đây ta sẽ xem họ đã sử dụng chúng như thế nào.
I. PHÂN TÍCH LỊCH SỬ :
Khi đọc bức thư của bà cô, bạn đặt câu hỏi "bà muốn nói
điều gì đây ?", và để trả lời, bạn đặt bức thư vào đời sống hiện tại
hoặc quá khứ của bà.
Đó cũng là câu hỏi chúng ta đặt cho một bản văn Thánh kinh : "Luca
muốn nói gì? Tác giả sách Sáng thế muốn nói gì?".
Nhưng sự việc hơi phức tạp hơn. Phần bạn thì đã hiểu rõ bà cô của
bạn. Nhưng chúng tôi thì không hiểu bà ; nếu tôi đọc bức thư ấy, tôi sẽ dựa vào
chữ viết, vào những câu ám chỉ và tâm trạng bà biểu lộ để đoán bà bao nhiêu
tuổi, môi trường sống như thế nào, muốn nói những gì v.v... nghĩa là từ hình
dung mà tôi tạo ra về một con người, tôi sẽ giải thích bức thư của người ấy.
Tôi phải biết rằng làm cách đó thì có phần mạo hiểm : vì tôi tạo ra một con
người từ một bản văn, thế rồi sau đó tôi giải nghĩa bản văn từ hình dung về con
người ấy.
Cũng tương tự như vậy, chúng ta chỉ biết Luca và tác giả sách Sáng
thế qua những bản văn của họ. Do đó phải tiến hành cách thận trọng và không
ngừng kiểm tra điều ta xác định.
1) Làm thế nào để đặt tác giả vào môi trường của ông ?
Việc nầy rất dễ đối với trường hợp bà cô vì bà thuộc thời đại của
chúng ta. Dù vậy trong thư bà có nói tới trận đại chiến 14-18 thì tôi phải liên
hệ với những gì tôi đã biết về cuộc chiến ấy. Đối với các sách trong Thánh kinh
thì lại càng khó hơn nữa vì chúng được viết cách nay hai ba nghìn năm. Để đặt
chúng vào môi trường, ta cần lưu ý những điểm sau:
- Tìm hiểu lịch sử dựa vào những gì được viết trong
Thánh kinh, nhưng cũng phải dựa vào những tư liệu của các dân khác.
- Tìm hiểu văn chương thời đó : những người Do thái
thời lưu đày bên Babylone đã dựa vào những huyền thoại vùng Lưỡng Hà Địa để
trình bày tư tưởng của họ ; những người Do thái thời Đức Giêsu có những cách
thức riêng để diễn giải một đoạn sách thánh...
- Tìm hiểu khoa Khảo cổ : thành Giêricô đã điêu tàn
khi Giôsuê chiếm nó ; đã tìm thấy ở Giêrusalem một ao nước có 5 cửa mà Tin mừng
có nói tới...
Dĩ nhiên những việc trên dành cho các chuyên viên. Nhưng cũng may
là họ đã tốt bụng cho chúng ta được biết những kết quả vững chắc nhất mà họ đã
tìm ra. Bạn có thể đọc chúng trong rất nhiều tác phẩm nổi danh, nhất là trong những
bài dẫn nhập và những ghi chú trong ấn bản Thánh kinh (nhất là
TOB và BJ).
2) Làm thế nào để đặt một bài tường thuật vào môi trường
của nó ?
Chúng ta hay tưởng rằng tác giả của một bài tường thuật cũng giống
như một chiếc máy ghi âm. Khi mở máy ra ta sẽ nghe lại chính xác những sự việc
và những lời nói đã xảy ra. Sự thật không phải vậy : tác giả vừa thuật sự việc,
vừa phản ánh sinh hoạt của ông và của thời đại ông. Hãy lấy vài thí dụ:
Luther đã sống vào thế kỷ XVI. Ta hãy đọc hai quyển sách đều của
người Công giáo viết về ông. Một quyển viết khoảng năm 1900 và một quyển mới
viết. Quyển thứ nhất viết đại khái như sau : Luther là một thầy tu hồi tục, đi
quyến rũ một nữ tu, và do tính kiêu căng, ông đã đưa Âu châu và Giáo hội vào
vòng máu lửa... Còn quyển thứ hai thì viết đại khái : Luther cũng có những yếu
đuối như bất cứ ai trong chúng ta, nhưng ông là một tu sĩ rất say mê Thiên
Chúa, luôn nghĩ đến việc cứu độ các linh hồn ; ông thấy rằng Giáo hội cần phải
canh tân và trở về nguồn Thánh kinh ; tiếc thay ông đã bị loại ra khỏi Giáo
hội... Trong hai quyển sách ấy, chúng ta được biết nhiều điều về Luther, nhưng
nhất là ta thấy được tinh thần đại kết của những người Công giáo vào năm 1900
và vào thời đại bây giờ khác xa nhau đến chừng nào !
Cũng như cặp vợ chồng già kia thuật lại cuộc hôn nhân của họ vào
buổi chiều ngày lễ vàng hôn phối. Muốn hiểu, tôi phải đặt lại cuộc hôn nhân này
vào bối cảnh năm 1940, nhưng cũng phải đặt nó vào bối cảnh năm 1990 nữa. Bởi vì
họ thuật chuyện theo ánh sáng của cả năm 1940 lẫn của năm 1990.
Cũng thế tác giả Thánh kinh thuật chuyện Abraham, nếu ông viết
trong thời thịnh vượng của Đavít thì ông sẽ viết không giống như nếu ông viết
500 năm sau đó lúc đang bị lưu đày bên Babylone. Những lời nói của Đức Giêsu
phải được hiểu theo ánh sáng lịch sử của những năm 30, nhưng cũng phải theo ánh
sáng của sinh hoạt các giáo đoàn vào những năm 80 hoặc 90 là những giáo đoàn đã
viết ra chúng.
Tóm lại : khái quát lộ trình của phương pháp phân tích lịch sử là :
đặt một bản văn trở lại vào lịch sử của nó để có thể thấy được tác giả muốn nói
gì (người ta cũng gọi phương pháp này là "lịch sử/phê bình" nghĩa là
có phần phê bình riêng trong khi đặt bản văn trở lại vào lịch sử).
3) Phân tích duy vật :
"Đấy là một cách phản ứng của môi trường" chúng ta nghĩ
thế khi đọc một câu trong bức thư của bà cô. Nghĩa là khi chúng ta nói, chúng
ta tưởng là chúng ta đang nói, nhưng thực ra là chính môi trường và nền giáo
dục của chúng ta nói qua chúng ta.
Phương pháp phân tích duy vật đặt bản văn trở lại vào lịch sử của nó
vì cho rằng bản văn là sản phẩm của những điều kiện xã hội, kinh tế và
chính trị của thời đó.
II. PHÂN TÍCH CƠ CẤU :
Ta dùng lại thí dụ bức thư của bà cô. Trước một câu khó hiểu, ta
dừng lại một lúc để sắp xếp những yếu tố của câu ấy (chủ từ, động từ, túc từ
v.v...) nhờ đó ta sẽ hiểu được ý nghĩa của câu.
Từ đầu thế kỷ XX, một khoa mới đã sinh ra, đó là khoa Dấu chỉ
học (sémiothique: từ chữ Hy Lạp sémeion nghĩa là "dấu chỉ"),
nhằm nghiên cứu ý nghĩa những dấu chỉ trong các yếu tố của ngôn ngữ. Các chuyên
viên khoa nầy cho biết rằng ngoài ngữ pháp của câu, còn có ngữ pháp của bản văn
nữa. Khi viết một câu ta phải để ý tới những quy tắc ngữ pháp, và khi viết cả
một bài, ta cũng phải để ý tới những quy tắc ngữ pháp ấy (về thể loại thư tín,
tường thuật v.v...).
Một trong những nét đặc thù của phương pháp nầy là : với phương
pháp phân tích lịch sử, ta ra khỏi bản văn để giải nghĩa nó theo ánh sáng của
điều tác giả muốn nói ; còn với phương pháp phân tích cơ cấu này, ta không ra
khỏi bản văn, nhưng nghiên cứu trong chính bản văn và không cần quan tâm tới
những ý hướng của tác giả ("tác giả đã chết !"). Ta mổ xẻ bản
văn đủ mọi khía cạnh, nhưng đồng thời phải quên đi những gì ta đã biết trước về
bản văn, phải gạt sang một bên điều mà ta muốn tìm, để chỉ tập chú vào một mình
bản văn. Vì thế phương pháp nầy rất khách quan.
Một nhóm người đi dạo trong rừng. Có người thích nấm nên chỉ thấy
nấm, đối với anh, rừng chỉ toàn là nấm ! Thế nhưng bạn của anh không thích nấm
nên chẳng thấy nấm gì cả mà còn đạp nát chúng. Đối với anh nầy, rừng là chim,
là cây, là đá, là hoa v.v... Cũng thế, khi chúng ta đọc một bản văn, thì một
cách vô thức ta đã có sẵn một ý tưởng : chẳng hạn ta muốn tìm trong bản văn một
lời khuyên, một trợ lực. Rồi ta mải mê tìm điều đó và chỉ thấy mỗi điều đó.
Chính vì thế mà rất nhiều khi chúng ta không hiểu nhau. Giả sử như nhóm bạn kia
khởi sự tham quan tổng quát toàn khu rừng và mở mắt quan sát tất cả nào nấm,
nào chim, nào cây, nào hoa, nào đá... Sau đó, nếu ai thích thì làm một đợt tham
quan thứ hai, người xem nấm, kẻ xem chim v.v... thì họ sẽ không nói rằng : "rừng
chỉ toàn là nấm" hay "rừng chỉ toàn là chim".
Ích lợi của phương pháp phân tích cơ cấu, dù chỉ được sử dụng một
cách rất thô sơ, là buộc chúng ta phải khảo sát bản văn dưới càng nhiều khía
cạnh càng tốt, đồng thời quên đi quan điểm riêng có trước của chúng ta, để tập
chú vào một mình bản văn. Sau đó ta có thể trở lại xem xét một khía cạnh nào
đó, nhưng vẫn biết rằng còn có những khía cạnh khác nữa.
III. MỘT DỤ NGÔN :
Bây giờ ta hãy dùng một dụ ngôn để tóm lược những điều vừa nói
trên. Tôi và một người bạn nghe một đĩa nhạc giao hưởng của Mozart. Mỗi người
trong chúng tôi nghe khác nhau : tôi thấy bản nhạc ấy vui, còn bạn tôi lại thấy
nó buồn. Đó là vì mỗi người nghe theo tâm trạng của mình lúc đó và phải tâm trạng mình vào bản nhạc : "người buồn cảnh có
vui đâu bao giờ".
Vì cách giải thích của chúng tôi quá khác biệt, cho nên để đi đến
nhất trí thì chúng tôi phải nghiên cứu. Chúng tôi lấy một đoạn nhạc và nghiên
cứu những nhịp, những lúc nhạc cụ này, nhạc cụ nọ nhập cuộc... Sau đó chúng tôi
mở một quyển sách viết về Mozart để tìm hiểu xem ông muốn thể hiện gì qua bản
giao hưởng ấy. Với hai phương pháp ấy, chúng tôi khám phá rất nhiều điều, loại
trừ đi rất nhiều giải thích cá nhân chủ quan. Thật là hay. Tuy nhiên một bản
giao hưởng được viết ra không phải để được nghiên cứu, mà để được nghe !
Vì thế chúng tôi mở máy ra nghe lại lần nữa. Việc nghiên cứu trước
sẽ giúp chúng tôi nghe hay hơn, nhưng bây giờ chúng tôi tạm quên đi những gì đã
nghiên cứu mà chỉ thả hồn lắng nghe thưởng thức bản nhạc. Chúng tôi tìm được
một cảm hứng mới cho cuộc đời. Đây mới là điều chủ yếu.
Trong dụ ngôn trên, bạn thay chữ "nghe" bằng chữ
"đọc", thay "bản nhạc" bằng "quyển sách" thì bạn
sẽ có được điểm cốt yếu mà chúng tôi muốn nói với bạn trong bài nầy.
I. TIẾP XÚC SƠ KHỞI :
Hãy đọc bản văn. Ghi ra những phản ứng tự nhiên bộc phát: điều gì
đánh động bạn, điều gì làm bạn thích, điều gì làm bạn ngạc nhiên, điều gì làm
bạn thắc mắc...
II. NGHIÊN CỨU BẢN VĂN :
1) Chính bản văn :
Hãy đọc lại bản văn, nhưng đừng để ý tới những ghi chú của quyển
Thánh kinh. Nếu bản văn không dài quá thì hãy chép ra. Hãy tìm (nếu cần thì
dùng những bút chì màu gạch dưới):
- Những từ hoặc nhóm từ lặp đi lặp lại
tương ứng nhau, đối nghịch nhau...
- Những vai (nhân vật hoặc sự vật) : chúng làm gì ?
nói gì ? điều gì xảy ra cho chúng ?
- Những nơi, những sự di chuyển : một
số nơi có liên hệ đặc biệt với một nhân vật hay một ý tưởng nào đó không ?
- Những thì của các động từ, những chỉ dẫn khác...
Dựa trên những chi tiết vừa khám phá, bạn hãy tìm xem điều gì
đang diễn ra trong bản văn : ai (hoặc cái gì) làm hoặc tìm ai (hoặc cái
gì) giúp cho việc làm hoặc cuộc tìm kiếm đó ? Ai (hoặc cái gì) cản trở việc ấy
? để ý xem có biến chuyển nào không từ đầu cho tới cuối bản văn :
biến chuyển của ai (của cái gì) ? biến chuyển thế nào ? biến chuyển qua mấy
giai đoạn ? biến chuyển nhờ ai (hoặc nhờ gì) ?
2) Đặt bản văn vào văn mạch :
Bản văn này thuộc về một chương, một phần, một quyển sách ? chỗ
đứng của nó trong văn mạch ra sao ? nó mang lại điều gì cho văn mạch ?
3) Đặt bản văn vào thời của nó :
Bây giờ bạn dùng những bài dẫn nhập và những ghi chú của quyển
Thánh kinh để trả lời những câu hỏi sau đây :
- Bản văn này được viết vào thời nào ? hoàn cảnh của
dân tộc hoặc của tác giả lúc ấy ra sao ?
- Một số từ hoặc nhóm từ có mang một ý nghĩa đặc biệt
nào không vào thời đó ?
- Bản văn này thuộc văn thể nào ?
- Thời đó có những bản văn nào tương tự không trong
Thánh kinh hoặc ngoài Thánh kinh : bản văn Cựu ước này có nói lại những chủ đề
Thánh kinh không ? Hãy nói lại những chủ đề quen thuộc của văn chương Ai cập
hoặc Lưỡng Hà Địa ? những điểm nào giống nhau và khác nhau ? bản văn này của
Tân ước có nói lại những chủ đề Do thái của thời Đức Giêsu không ? hay của
những bản văn Cựu ước ? trong trường hợp này nó được soi sáng nhờ những bản văn
ấy thế nào ?
- Nếu trong Thánh kinh có những bản văn tương tự, nhất là đối với
các sách Tin mừng (bạn hãy xem những quy chiếu in bên lề trang sách Thánh
kinh), bạn hãy so sánh chúng : những điểm nào giống nhau và khác nhau ? những
điểm ấy có giúp bạn hiểu bản văn rõ hơn không ?
- Bản văn này được viết bởi một giáo đoàn và cho một giáo đoàn. Vậy
ai nói với ai ? nhằm trả lời cho câu hỏi nào ?
4) Kiểm tra :
Xem lại những câu hỏi ban đầu: bạn có thể trả lời chúng không ?
III. ĐỌC BẢN VĂN :
Bây giờ bạn bỏ sang một bên những gì đã nghiên cứu được, và cả cái
"hộp đồ nghề" nữa. Bạn đọc bản văn : nó nói gì với bạn ? nó giúp gì
cho cuộc sống bạn ?