MỘT DÂN TỘC
ĐƯỢC ĐÁNH DẤU BỞI NÃO TRẠNG TRUNG ĐÔNG
Trong suốt dòng lịch sử của mình, Israel luôn tiếp xúc với những
dân láng giềng và học biết nhiều kiệt tác văn chương của họ. Chúng ta sẽ có dịp
đọc vài trích đoạn. Còn bây giờ ta hãy nói qua về những nền văn minh ấy.
I. NÃO TRẠNG AI CẬP :
Người Ai cập sống trong vùng đất đầy ánh sáng ; nếu như họ cảm thấy
lo âu khi thấy Mặt trời biến mất buổi chiều, thì kinh nghiệm đã cho họ biết
rằng Mặt trời sẽ lại xuất hiện mỗi buổi sáng sau khi đã chiến thắng các thế lực
của đêm tối. Do đó Mặt trời được họ coi là Thần đệ nhất trên các thần, và được
họ đặt cho nhiều tên. Chính Mặt trời sinh ra các thần khác và con người. Trong
khung dưới đây ta có thể đọc vài câu trong bài thánh thi tán dương Thần Mặt
trời, được Pharaon Akkhénaton soạn khoảng năm 1350 ; tác giả Thánh vịnh 104
chắc đã lấy ý từ bài thánh thi ấy.
Sông Nil có những đợt thuỷ triều vào những ngày
nhất định, mang phù sa và nước uống cho cuộc sống.
Do sống trong một thiên nhiên ưu đãi như vậy nên người Ai cập tự
nhiên có tính lạc quan ; các thần của họ đều tốt, chăm sóc loài người. Sau cái
chết là một cuộc sống mới huy hoàng sẵn chờ người tín hữu.
THÁNH THI TÁN DƯƠNG THẦN MẶT TRỜI ATON
Đây là một bài thơ tôn giáo của Ai cập, do Pharaon Akhénaton soạn.
Sau đây là trích một vài câu:
Ngài hiện lên hùng vĩ ở chân trời
Như dĩa lửa, nguồn phát sinh sự sống
Ở trời đông, lúc Ngài xuất hiện,
Ánh hào quang lan toả khắp nơi nơi.
Bên trời tây khi Ngài lặn xuống
Màn đen tối bao phủ địa cầu...
Và đây là trích vài câu của Tv 104, để bạn so sánh :
Ôi lạy Chúa muôn trùng cao cả
Áo Ngài mặc, toàn oai phong lẫm liệt
Cẩm bào Ngài : muôn vạn ánh hào quang...
Chúa đặt vầng trăng để đo thời tiết
Dạy mặt trời lặn xuống đúng thời gian
Đêm trở lại khi Chúa buông màn tối...
II. NÃO TRẠNG LƯỠNG HÀ ĐỊA
Xét chung, ngược với não trạng Ai cập, não trạng Lưỡng hà địa mang
tính bi quan. Cư dân vùng này thường gặp những đợt thuỷ
triều thất thường, đôi khi gây lụt lội. Hơn nữa, thường có những
đợt xâm lăng của các sắc dân du mục từ sa mạc Arabia hoặc từ những cao nguyên
Iran. Vì thế các thần của họ cách chung có tính khí thất thường, luôn đánh nhau
; con người là một sinh vật khả tử luôn sợ hãi tìm cách khỏi bị các thần giận
dữ xuống tay hành hạ. Các thần "đã ban cái chết làm gia tài cho con
người" (Anh hùng ca Gilgamesh) và "đã lấy dối trá nhào nặn nên
con người". Nơi cư ngụ sau khi chết rất là buồn thảm, đó là nơi tụ tập
của những hồn ma bóng quế chập chờn chẳng có gì vui thú.
Sau đây là một số huyền thoại mà ta sẽ có dịp đọc vài trích đoạn :
- Anh hùng ca Atra-Hasis (nghĩa là: "Đấng rất
khôn ngoan" : một bản chép được tìm thấy ở Babylone, chép năm 1600 trước
cn. Đây là một bài thơ dài 1645 dòng, mô tả các thần vì phải nô dịch vất vả nên
mỏi mệt, bèn quyết định tạo dựng con người để bắt nó làm việc thế cho họ. Họ đã
lấy bùn trộn với máu của một vị thần bị bóp cổ chết rồi nhào nặn thành con
người. Nhưng loài người sinh sản thêm đông, gây ồn ào làm cho các thần bực bội.
Các thần bèn giáng xuống loài người nhiều tai ương và cuối cùng giáng một trận
hồng thuỷ. Nhưng thần Êa đã mật báo cho một người đóng một
chiếc tàu cứu được cả gia đình và các thú vật mỗi loại một cặp.
- Thi ca Enouma Elish (nghĩa là: "xưa kia ở trên
cao"): đây cũng là một tài liệu rất cổ ; hình thức như hiện nay của nó có
lẽ được viết khoảng năm 1100 trước cn. Thuở ban đầu có 2 nguyên lý phái tính là
Apsou (nước ngọt) và Tiâmat (nước mặn, từ chữ "Tiâmat"
nầy sinh ra chữ tehom ở St 1,2 nghĩa là "vực thẳm"). Từ hai
nguyên lý đó sinh ra tất cả các thần. Nhưng vì các thần quấy rầy quá nên Tiâmat
muốn giết họ chết hết. Tuy nhiên thần Marduk đã thắng Tiâmat và chặt bà làm đôi
như một chiếc vỏ sò rồi lấy đó tạo thành vòm trời. Tiếp đó Marduk lấy máu của
một thần phản loạn tạo nên con người...
- Anh hùng ca Gilgamesh : đây có lẽ là tác phẩm nổi
tiếng nhất của văn chương Lưỡng Hà Địa thời cổ. Thiên anh hùng ca này sinh ra
tại Sumer rồi phổ biến trong khoảng 1 thiên niên kỷ sang Assyria và Babylone ;
nó còn được chép lại ở Palestina và nơi dân Hittites. Dưới hình thức như hiện
nay, nó gồm 12 ca khúc. Gilgamesh là một vị anh hùng của Sumer, nhưng tính khí
hiên ngang của chàng làm cho các thần khó chịu. Các thần bèn xúi một quái nhân
sống với dã thú tên là Enkidu chống lại chàng. Nhưng Enkidu được một thiếu nữ
cảm hoá và trở thành bạn của Gilgamesh, cả hai đã làm được
nhiều kỳ công. Rồi một ngày kia Enkidu chết, Gilgamesh chợt khám phá sự độc dữ
của cái chết và chàng ra đi tìm sự trường sinh bất tử. Vị anh hùng Bão lụt chỉ
cho chàng biết bí mật của cây trường sinh. Gilgamesh đã lấy được cây trường
sinh, nhưng lại bị một con rắn cướp mất. Thế là Gigamesh đành phải chấp nhận
chết...
BÀI THƠ TẠO DỰNG CỦA BABYLONE
Thi ca Enouma Elish thuật rằng các thần được sinh ra bởi Apsou
nguyên lý đực, và Tiâmat nguyên lý cái. Vì các thần quấy rầy mình nên Tiâmat
muốn giết chết họ. Các thần liền trao quyền cho thần Marduk (thần của
Babylone). Với sự trợ lực của các thần kia, Marduk giết được Tiâmat, và lấy xác
bà mà tạo thành thế giới ! Ta có thể so sánh thi ca này với tường thuật của St
1 và với huyền thoại dưới đây của người Ai cập.
... VÀ CỦA AI CẬP :
Chou là thần không khí. Hai đứa con của ông là Nout
(con gái) và Geb (con trai) dính với nhau. Chou đã tách Nout ra thành
vòm trời và tách Geb ra thành trái đất (một chỉ cảo Ai cập khoảng giữa các năm
1100-950 trước cn).
Một thánh thi, viết khoảng 1400 trước cn, tán dương thần Mặt trời
Amon đã thức suốt đêm để coi sóc cho loài người ngủ yên. Vì thế loài người đã
coi Amon là Cha của các thần.
III. TƯ TƯỞNG CANAAN :
Người ta biết nhiều hơn về tư tưởng Canaan từ khi khai quật được
(năm 1929) thư viện của thành Ugarit, tức là Ras Shamra ở Syria hiện nay. Đỉnh
cao của nền văn minh Uragit này là khoảng năm 1500 trước cn, tức là thời các tổ
phụ.
Vị thần chính có tên là El, thường được hình dung
bằng hình con bò tót (đây cũng là một trong những tên của Thiên Chúa. Trong
Thánh kinh là Élohim, tức là số nhiều trang trọng của chữ El). Tôn giáo Canaan
thờ những sức mạnh của thiên nhiên được thần thánh hoá như
: Baal là thần Bão và mưa (đôi khi được mô tả là "Đấng cưỡi
mây", cũng như Thiên Chúa trong Thánh vịnh 68,5), Anat em
gái của Baal là thần Chiến tranh, tình yêu và sinh sản (về sau nữ thần này được
gọi là Astarté).
Vương quốc Israel sẽ bị cám dỗ chạy theo thứ tôn giáo Canaan này,
cũng như theo các hình thức tế tự đầy màu sắc phái tính dâng lên tượng nữ thần
trần truồng được đặt ở những "nơi cao", và cử hành nhiều lễ nghi cầu
xin cho đất đai và súc vật sinh sản nhiều.
IV. NÃO TRẠNG THÁNH KINH :
Chúng ta sẽ khám phá não trạng này khi đọc trọn tập tài liệu này.
Còn bây giờ chỉ xin nêu ra một nét cơ bản khiến nó khác với những não trạng mà
ta đã đề cập ở trước.
Shema Israel, Adonai hédad ! "nghe đây hỡi
Israel. Đức Chúa là độc nhất !". Công thức này trong Đnl 6,4 tóm lược điểm
chủ yếu của đức tin Israrel. Israel ý thức rằng chính Thiên Chúa gọi họ, và họ
đáp lời Ngài bằng yêu thương. Để minh hoạ, ta có thể vẽ tư
tưởng huyền thoại bằng một vòng cung khởi đi từ con người và trở lại với con
người: con người phóng sang cõi bên kia một vị thần, rồi dùng nghi lễ để
"chế ngự" thần và bắt thần phải phục vụ con người.
Thần
Nghi lễ
Con người
Còn trong Thánh kinh thì vòng cung đảo ngược lại : chính Thiên Chúa
mời gọi con người và con người đáp lời. Nghi lễ trở thành cách bày tỏ sự đáp
lời.
Thiên Chúa
Nghi lễ
Con người
Nghi lễ có thể như nhau nhưng ý nghĩa thì khác. Chẳng hạn đứa con
dâng bó hoa cho mẹ để được cho phép đi xinê, hoàn toàn không giống với cũng đứa
con đó dâng một bó hoa y như thế cho mẹ vào dịp Lễ các Bà Mẹ. Trong trường hợp
sau, dâng hoa là một cử chỉ tự nguyện để biểu lộ tấm lòng đứa con đáp lại tình
yêu của mẹ. Đó là một nghi lễ biết ơn. Đấy cũng là tâm tình căn bản của Thánh
lễ Tạ ơn mà chúng ta sẽ có dịp nói tới.
NHỮNG HUYỀN THOẠI VỀ THIÊN NHIÊN Ở
CANAAN
Một bài thơ tìm thấy ở Ugarit ca tụng thần Baal và
thần Môt. Baal là thần Bão và mưa, Môt là thần Chết. Như vậy bài
thơ này đề cập tới một vấn đề ray rứt. Đó là vấn đề về sự phì nhiêu của đất đai
: thần Baal phục vụ con người bằng cách làm mưa xuống cho đất đai phì nhiêu.
Nhưng thần Môt nuốt hết nước xuống đất (thần Môt ở phía dưới mặt đất). Thế thì
nước có thể bị giam mãi dưới đất để sinh ra hạn hán chăng ? Bài thơ này đưa câu
trả lời : Thần tối cao El sẽ cho Baal tái sinh, và sẽ lại có mưa.
Trong Thánh kinh ta gặp thấy công thức "đất chảy ra sữa và
mật" (chẳng hạn Xh 3,8).
HUYỀN THOẠI
Nhiều lần chúng ta đã gặp chữ "huyền thoại". Vậy nó là gì
?
Đó là những câu chuyện tưởng tượng với các vai là thần nam, thần nữ
và những vị anh hùng. Thoạt mới đọc, ta thấy lúng túng, khó chịu, nhưng liền
sau đó ta thấy bị cuốn hút vì biết trong đó có những vấn đề lớn,
vốn nằm trong tâm tư ta được đề cập và khai triển: thế giới bởi đâu mà có ? tại
sao nam nữ thu hút nhau ? con người và thần thánh liên hệ với nhau thế nào ?
Chỉ có điều là thay vì bàn những vấn đề ấy bằng những bài viết đầy
trí thức và khó hiểu như nhiều người thời nay, thì huyền thoại bàn chúng bằng
những "chuyện hoạt hoạ".
Ta hãy lấy một thí dụ thời nay : thi hoa hậu. Sống trong thời đại
không còn vương quyền nữa, người ta bầu một người đẹp lên làm hoàng hậu ; cuộc
sống hiện nay mang nhiều buồn chán thế mà người ta cho hoàng hậu này đội vương
miện, nhận biết bao món quà... Tất cả những chi tiết trên khiến cho cuộc bầu
hoa hậu mang vẻ của một thế giới khác, một thế giới trong mơ, không có thực.
Nhưng đấy là biểu lộ ước muốn của mọi phụ nữ : muốn đẹp, muốn giàu, muốn thành
công ; và cũng biểu lộ ước muốn của mọi người nam : muốn ngắm nhìn sắc đẹp phụ
nữ. Thế nhưng cũng có một tác dụng nghịch là huyền thoại có thể khiến người ta
bị tha hoá, không còn tự do, không còn là mình nữa. Chẳng hạn có nhiều thiếu nữ
cố bắt chước kiểu tóc của hoa hậu và ráng làm sao cho thân mình có những kích
thước như hoa hậu, trong khi điều đó không thích hợp với dáng người của họ.
Nói một cách đơn giản tối đa, huyền thoại lấy một vấn đề trong tâm
tư chúng ta rồi phóng ra ngoài dưới dạng một câu chuyện, trong một thế giới
không có thực, trong một thời gian-trước-mọi-thời-gian, tức là thời gian của
các vị thần khi mà con người chưa có. Thực ra câu chuyện ấy về các vị thần
chính là câu chuyện của chúng ta, đã được chuyển dịch để trở thành mẫu mực cho
người ta bắt chước.
Chẳng hạn con người không hiểu tại sao hai phái nam và nữ lại thu
hút nhau như thế, và làm cách nào để sinh sản đông đúc. Thế là con người tưởng
tượng ra một thế giới siêu thời gian, trong đó các thần nam và các thần nữ yêu
nhau, giao hợp với nhau và sinh sản ; nếu các vị thần ấy mà sinh sản nhiều thì
đất đai và súc vật của con người cũng sinh sản nhiều, bởi vì các thần ấy chỉ là
phóng thể không có thực của cuộc sống con người. Vì thế phải làm sao buộc các
vị ấy sinh sản cho nhiều : những nghi lễ là nhằm mục đích ép các
vị ấy giao hợp nhau. Theo chiều hướng đó, việc giao hợp với các "đĩ
thánh" ở Babylone hoặc các "nơi cao" trong xứ Canaan không phải
là điều truỵ lạc mà chính là một nghi lễ tôn giáo nhằm làm
cho đất đai sinh sản phì nhiêu.
Như thế, tất cả các huyền thoại đều cực kỳ trang nghiêm : chúng là suy
tư đầu tiên của nhân loại. Có thế ta mới hiểu tại sao Thánh kinh lại
dùng ngôn ngữ huyền thoại để diễn tả tư tưởng riêng của mình. Nhưng Thánh kinh
thay đổi thứ ngôn ngữ đó. Nói cách đơn giản, thì cũng giống như dựa vào một
chuyện hoạt hoạ, Thánh kinh viết lại thành một chuyện tâm
lý.
Ta hãy đọc thử một chuyện tâm lý : nó viết về một cặp yêu nhau cùng
với những niềm vui, nỗi buồn của họ. Thoạt mới đọc thì ta thấy nó cũng giống
như một chuyện hoạt hoạ, nhưng thực ra trái ngược hẳn : nó
không đưa ta vào cõi mơ mộng mà ngược lại dẫn ta vào cuộc sống thường ngày, bởi
vì nó được rút tỉa từ 1001 nhận xét về biết bao cặp yêu nhau. Do đó nó buộc ta
phải suy tư về cuộc sống của ta.
Khi Thánh kinh vay mượn những huyền thoại, đặc biệt là trong những
bài tường thuật về tạo dựng, Thánh kinh đã suy tư lại để làm sao có thể dùng
chúng diễn tả đức tin của mình vào Thiên Chúa độc nhất đã can thiệp vào lịch sử
chúng ta và muốn cho con người được tự do.