VƯƠNG QUỐC
PHÍA BẮC
(935-721)
Hai thủ đô thù nghịch, Giêrusalem và Samaria, chỉ cách nhau chừng
50 km. Nhưng có nhiều điểm rất khác nhau.
I. HOÀN CẢNH ĐỊA DƯ
Chỉ cần nhìn thoáng lên bản đồ, ta sẽ thấy rõ sự dị biệt.
- Giêrusalem nằm giữa các ngọn đồi, gần sa mạc Giuđa.
Đất đai nhiều sỏi đá, trên đó người ta trồng ngũ cốc, nho, ôliu và nuôi cừu. Xứ
này không có đường ra biển (vì cánh đồng Shêphêla phì nhiêu đã bị quân
Philitinh chiếm) nên phải hướng về đồng bằng Giođan và Biển Chết.
- Vương quốc phía Bắc trái lại, trải rộng trên một
vùng đất gồm những ngọn đồi của xứ Samaria đầy những thung lũng xanh tươi, và
những cánh đồng phì nhiêu vùng Saron và Isréel. Việc dời thủ đô cho thấy sự
phát triển của xứ này : Vua đầu tiên là Giêrôbôam đặt thủ đô ở Tirsa quay hướng
về sông Giođan. Nhưng một trong những vua kế vị, Omri mua ngọn đồi Samaria và
đặt nó làm thủ đô, quay hướng về phía biển, nhờ thế những liên hệ thương mại
với các vua Canaan ở phương Bắc (ngày nay là Liban và Syria) được dễ dàng. Hoàn
cảnh này ảnh hưởng nhiều đến kinh tế và tôn giáo.
II. HOÀN CẢNH KINH TẾ
Sách ngôn sứ Amos đã mô tả nhà cửa ở Samaria làm bằng gỗ mun và
ngọc ngà (Am 3,12; 5,11; 6,4) chứng tỏ một mức thịnh vượng cao. Nhưng từ đó
cũng phát sinh cảnh bất công xã hội : những kết quả khai quật ở Tirsa, thủ đô
đầu tiên cho thấy một một khu nhà cửa xây cất kiên cố được tách hẳn bằng một bức
tường với một khu khác gồm những mái nhà lụp xụp.
III. HOÀN CẢNH TÔN GIÁO
Israel có nhiều tiếp xúc hơn Giuđa với những người Canaan sinh sống
trên lãnh thổ họ và với các vua thành Tyr, Siđon và Đamas. Tín ngưỡng của những
dân này rất hấp dẫn đối với một dân sống bằng nghề nông bởi vì nó thờ những sức
mạnh thiên nhiên được thần thánh hoá (Baals và Astartés)
vốn được coi là có khả năng làm cho loài người, súc vật và cây trái sinh sản
nhiều. Israel đã đi nước đôi, hay nói như ngôn sứ Êlia là "đi khập khiễng trên cả hai chân" tức là vừa thờ Thiên
Chúa vừa thờ các Baals.
Để ngăn không cho dân mình đến Đền thờ Giêrusalem, Giêrôbôam đã cho
dựng 2 tượng bò tót ở 2 đầu biên giới, Đan và Bêthel (1V 12,26t). Hình như
những tượng bò tót ấy được coi là bệ ngai của Thiên Chúa Yavê tương tự như khám
giao ước ở Giêrusalem. Thế nhưng bò tót cũng tượng trưng cho các thần Baals, vì
thế nó gây nên nguy hiểm thờ tà thần.
IV. HOÀN CẢNH CHÍNH TRỊ
Hệ thống vương quyền do Đavít và Salômon thiết lập vẫn tiếp tục ở
Israel. Nhưng ở đây các vua không còn là những hậu duệ hợp pháp của Đavít nữa ;
8 trong số 19 vua sẽ bị mưu sát và các triều đại cứ liên tiếp lật đổ nhau. Vua
không phải là "con của Đavít" nên cũng không phải là "con
Thiên Chúa". Trong sách Hôsê, Thiên Chúa trách rằng : "Chúng
đã dựng nên những vua mà không cần hỏi ý Ta" (Hs 8,4). Vì thế không
như ở Giuđa, vua sẽ không là kẻ đảm bảo mối thống nhất của dân và đại diện dân
trước Thiên Chúa. Ở Israel, người nắm vai trò ấy sẽ là ngôn sứ,
mà các ngôn sứ thường chống đối các vua.
Cách chung, các vua của Israel cũng chẳng tốt hơn mà cũng chẳng xấu
hơn các vua Giuđa, nhưng một số vị quả là những vua vĩ đại.
V. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
Israel bị chi phối bởi đường lối chính trị chung của thời đó.
Khi ấy Ai cập đang xuống dốc, còn Assyria
thì hùng cường, nhiều lần xuất chinh vào xứ Canaan.
Ở phía Bắc của Israel, một nước khác tuy nhỏ nhưng thịnh vượng là Đamas.
Vì cũng thuộc chủng Sêmit, vì hùng mạnh và vì ở sát cạnh Israel và Giuđa, nước
này sẽ trở thành khi thì đồng minh khi thì đối thủ của họ. Chẳng hạn một tài
liệu Assyria cho hay rằng vào năm 853 Assyria phải đương đầu với một liên minh
các nước Aram trong đó có phần đóng góp của vua Achab nước Israel là 2.000
chiến xa và 10.000 lính.
Khoảng năm 750 hai vương quốc Israel và Giuđa đạt đến cao điểm hùng
cường. Đế quốc Assyria muốn mở bờ cõi về hướng Địa Trung Hải. Chướng ngại đầu
tiên họ gặp là Đamas. Điều này có lợi cho Israel và Giuđa, vì Đamas phải bận
tâm đối phó với mặt trận thứ hai ấy nên không còn đe doạ họ
nữa. Ngoài ra bao lâu Đamas còn sức chiến đấu thì đó sẽ cũng là một lá chắn
thay họ chống lại Assyria. Nhưng tình hình đó sẽ không kéo dài bao lâu. Tuy
nhiên trong tạm thời, nhờ có những vua thông minh và vị nào cũng trị vì khá lâu
(khoảng 40 năm) nên hai vương quốc tiếp tục an cư lạc nghiệp. Trong thời kỳ này
các ngôn sứ Amos và Hôsê rao giảng ở Israel.
Đến năm 732, Assyria chiếm được Đamas, rồi năm 721 chiếm Samaria.
Một phần dân cư bị đày sang Assyria, họ sẽ bị đồng hoá với
dân xứ đó. Thế là chấm dứt vương quốc phía Bắc.
VI. DÂN SAMARIA SAU NĂM 721
Không phải tất cả cư dân đều bị lưu đày, một số còn lại ở Samaria.
Assyria còn đưa về Samaria những kẻ chiến bại từ các tỉnh khác. Những người này
khi tới Samaria cũng mang theo các tập tục, tín ngưỡng của họ.
Điều ấy làm sinh ra một cư dân mới hỗn tạp ; về huyết thống thì lại
giống, về tín ngưỡng thì vừa thờ Yavê vừa thờ các thần linh (xin đọc 2V
17,24-41).
Chúng ta sẽ có dịp nói tới những cuộc xung đột giữa đám người
Samaria này với những người Do thái từ chốn lưu đày Babylone trở về.
Thế mới hiểu tại sao vào thời Đức Kitô những người Do thái và
Samaria thù ghét nhau.
HOẠT ĐỘNG VĂN CHƯƠNG
Có lẽ từ đầu thế kỷ IX, người ta chép "những truyền
thống về Êlia" (1V 17-19, 21; 2V. 1-2), và khoảng năm 750, những
"giai thoại về Êlisê" (2V 3-9) hoặc những "trang
sử đẹp" như tường thuật về cuộc cách mạng của Jéhu (2V 9-10).
Những sấm ngôn của Amos và Hôsê cũng được viết
ra.
Cũng khoảng năm 750, người ta viết "lịch sử thánh của phía
Bắc" mà chúng ta gọi là truyền thống Elihiste.
Sau cùng là bắt đầu có những sưu tập về luật để thích
nghi hệ thống luật cũ với hoàn cảnh xã hội mới. Những sưu tập này chịu nhiều
ảnh hưởng của các ngôn sứ, nhất là Hôsê. Sau này chúng sẽ là nòng cốt của quyển
Đệ nhị luật.