NHỮNG NGÔN SỨ CỦA GIUĐA
THẾ KỶ VI
Không biết Isaia im tiếng lúc nào. Theo một truyền thuyết Do thái,
ông đã tử đạo dưới triều vua Manassê. Nhưng một thế hệ ngôn sứ khác đã đứng lên
nối tiếp ông.
I. NAKHUM
Đoạn văn tuyệt vời của ông là đoạn mô tả cuộc chiến của những chiến
xa tràn ngập thủ đô Ninivê. Thực ra đây chỉ là một lời tiên tri, vì ông rao
giảng vào năm 660, mà biến cố Ninivê thất thủ xảy ra vào năm 612. Cho nên đây
đúng là một lời tuyên xưng đức tin vào quyền năng của Thiên Chúa, được thốt lên
vào chính thời điểm Assyria đang vào thời cực thịnh.
II. XÔPHÔNIA
Khi Xôphônia lên tiếng thì triều của ông vua vô đạo Manassê vừa kết
thúc, vua trẻ Josias lên ngôi năm 640 chưa bắt đầu cuộc cải cách tôn giáo.
Phần I (1,1-3,8) là một nhận định bi thảm. Có một chữ Híp-ri được
lặp đi lặp lại, mà chữ này có thể dịch 2 cách : "đến gần"
và "ở giữa". Xôphônia cố sức tìm "ở giữa" dân
nhưng chẳng gặp được ai là người công chính cả. Giêrusalem đã không "đến
gần" Thiên Chúa của nó (3,2) vì thế ngày thịnh nộ lớn lao của Thiên Chúa
"đến gần" (Dies irae dies illa 1,14t).
Bởi vì những kẻ mạnh thế như vua, ngôn sứ và tư tế đều không còn,
nên Xôphônia quay về những người nghèo trong tâm hồn, tức là
những người không cậy vào sức mạnh riêng nhưng đặt trông cậy vào Thiên Chúa
(2,3). Như vậy Xôphônia là người khai sáng một chủ đề (chủ đề sự nghèo khó
trong tinh thần) sẽ được khai triển rộng rãi trong Tân ước.
Xôphônia đề cao tình thương của Chúa, Thiên Chúa thấy trước sẽ có
một ngày Ngài rốt cuộc có thể ở giữa lòng con gái Sion, ở giữa
dân Ngài và mọi dân đã được thanh luyện bởi tình thương của Ngài. Chỉ cần nghĩ
tới điều đó thôi, Ngài đã cảm thấy lòng mình rộn rã niềm vui (3,9-20).
III. KHABACUC
Khabacuc rao giảng khoảng năm 600 là lúc quân Babylone bắt đầu xâm
lược Palestina. Theo ông chúng là dụng cụ Thiên Chúa dùng để trừng phạt quân
Assyria vì tội đã áp bức Israel. Nhưng việc này cũng đặt cho ông một câu hỏi :
Những dụng cụ xấu xa như vậy Chúa có thể dùng chúng cách nào ? Tại sao những kẻ
gian ác cứ mãi thành công ? Khabacuc đặt vấn đề sự dữ trên bình diện các nước.
Và Thiên Chúa đã trả lời ông trong một câu mà sau này Phaolô sẽ dùng để tóm
lược sứ điệp của mình : "người công chính sống bởi đức tin"
(2,4).
Lời cầu nguyện ở Kb 3 biểu lộ đức tin và niềm vui của ông đồi với
Thiên Chúa cho dù đang sống giữa những thử thách bi thảm nhất.
CON GÁI SION
Tất cả mọi nền văn hoá đều thích lấy hình ảnh
người nữ để làm biểu tượng cho dân tộc.
Hôsê đã so sánh dân Do thái với một người vợ bất trung nhưng được
Thiên Chúa dùng tình yêu để hoán cải.
Mikha là người đầu tiên dùng thuật ngữ "con gái Sion"
để ám chỉ khu vực phía Bắc của thành Giêrusalem, tức là đỉnh đồi Sion, nơi tập
trung những người chạy thoát từ cơn thảm hoạ Samaria năm
721. Như thế, thuật ngữ này có nghĩa là phần nhỏ dư tồn đã được
đau khổ thanh luyện.
Xôphônia thấy trước rằng phần dư tồn ấy trong tương lai sẽ được
luyện sạch đến nỗi Thiên Chúa có thể đến ở trong lòng đó. Và tất cả các dân đã
được thanh luyện cũng được Thiên Chúa đến ở như vậy (Xp 3,9). Như thế hình ảnh
này cũng liên hệ tới mỗi người chúng ta vì chúng ta là thành phần của Dân Chúa
trong thời cuối cùng.
Phần Giêrêmia thì nhấn mạnh hơn tới mầu nhiệm đau khổ cần được
thanh luyện (4,11 ; 6,23). Nhưng một khi đã được thanh luyện rồi thì
"người vợ" ấy sẽ tìm kiếm Thiên Chúa là "chồng" mình (Gr
31,22).
Các môn đệ của Isaia rao giảng vào khoảng cuối thời lưu đày, cho
thấy trinh nữ Sion ấy, hiền thê của Đức Chúa, sinh ra rất nhiều con cái (Is
1,60-62) "Vui lên nào hỡi con gái Sion..." nàng sẽ sinh ra
chính dân tộc mới (Is 66,6-10).
Các Kitô hữu đầu tiên sẽ lấy lại chủ đề này để trình bày mầu nhiệm
Giáo hội. Giáo hội chính là Hiền thê, do những đau đớn trên đồi Sọ và suốt lịch
sử của mình, phải hạ sinh Đức Kitô (Ga 16,21-22; Kh 12). Và đối với Luca, Đức Maria là hình ảnh của Giáo hội dư tràn ân sủng vào thời tận
thế, Đức Maria là đấng cưu mang Chúa trong lòng (Lc
1,28-31).
IV. GIÊRÊMIA
"Nếu không có nhân vật lạ thường này thì lịch sử tôn
giáo của loài người đã đi một con đường khác... đã không có Kitô giáo" (Renan).
Giêrêmia đã sống thảm kịch ập xuống trên dân vào năm 597 và 587.
Hơn nữa, ông còn thấy trước là nó sẽ xảy ra, đã chuẩn bị lòng dân đón nhận nó,
thế nhưng dân đã bắt bớ ông.
Giêrêmia bắt đầu rao giảng vào thời vua Josias. Khi đó sứ điệp của
ông chẳng có gì khác với các ngôn sứ tiền nhiệm. Ông muốn làm cho dân ý thức
rằng họ đã lầm đường, rằng cách sống của họ sẽ đưa tới thảm hoạ.
Trong 6 chương đầu tóm lược sứ điệp này, có 2 chìa khoá lặp
đi lặp lại : dân đã bỏ Thiên Chúa, họ phải trở về với Ngài, phải hoán cải.
Lạ thay khi Josias tiến hành cuộc cải cách tôn giáo mà Giêrêmia rất
tán thành thì ông lại im tiếng.
Năm 605, vua Babylone là Nabuchodonosor đánh bại quân Aicập tại
Karkémish. Và năm 603 ông này tiến quân tới tận Giêrusalem buộc Giêrusalem đầu
hàng. Giêrêmia đã hiểu rằng kẻ thù sẽ đến từ phương Bắc, từ Babylone. Ông thấy
trước thảm hoạ ấy và đã chuẩn bị dân đón nhận. Khi một điều
đau đớn xảy ra cho ta (bệnh tật, tai nạn...) mà ta không thể làm gì để thoát,
thì ta chỉ còn biết tìm hiểu ý nghĩa của nó. Tức là ta hiểu được ý nghĩa sau
khi sự việc đã xảy ra. Đó là điều các ngôn sứ như Êdêkien và các môn đệ của
Isaia đã làm sau khi họ bị lưu đày sang Babylone. Công của Giêrêmia là đã chỉ
ra được ý nghĩa trước khi sự sự việc xảy ra. Dĩ nhiên là người ta
không nghe ông bởi vì họ thích nghe những ngôn sứ nói tới những lời thuận tai
với họ hơn. Nhưng khi sự việc xảy ra đúng như Giêrêmia đã tiên báo thì người ta
mới nhớ lại sứ điệp của ông. Nhờ ông mà dân mới có thể sống và hiểu được biến
cố đau thương ấy : dù bị lưu đày họ vẫn còn tin và hi vọng, vẫn thấy đời mình
có ý nghĩa.
- Tôn giáo đích thực : dân thi hành tốt những việc
tôn giáo như tôn kính Khám giao ước, đến Đền thờ, dâng lễ vật, giữ ngày Sabbat,
cắt bì cho con cái v.v... Nhưng họ chỉ làm bề ngoài chứ không có tâm tình bên
trong. Họ còn nghĩ rằng vì họ đã chu toàn những lễ nghi bề ngoài ấy nên Thiên
Chúa phải bảo vệ họ và thành Giêrusalem của họ (vì đó là nơi Thiên Chúa ngự),
họ tưởng giữ các lễ nghi ấy thì cũng đủ bảo đảm rồi, khỏi lo yêu thương nữa. Giêrêmia
nói cho họ hay rằng Thiên Chúa sắp tiêu huỷ tất cả những
thứ bảo đảm giả dối : Khám giao ước (3,16), Đền thờ (7,1-5; 26), thành
Giêrusalem (19), bởi vì điều Thiên Chúa đòi không phải là cắt bì ngoài da mà là
cắt bì trong trái tim (4,4; 9,24-25). Những lời công kích táo bạo ấy bị coi là
phạm thượng khiến Giêrêmia bị mưu sát, ông chỉ thoát chết trong đường tơ kẽ
tóc. Như thế Giêrêmia là hình ảnh tiên báo những lời công kích của Đức Giêsu
đối với những lễ nghi bề ngoài rỗng tuếch của chúng ta.
- Giao ước mới : chương 31 là đỉnh cao của sứ điệp
Giêrêmia. Trong cảnh bất hạnh ông rao giảng niềm hi vọng: Thiên Chúa sẽ tha thứ
và làm mới lại.
Niềm hi vọng này dựa vào đâu ? Hãy đọc 31,20.
Trách nhiệm cá nhân (c.29-30) : Êdêkien sẽ triển khai thêm khía
cạnh này (Ed 18).
Những nét nào khiến cho giao ước thành mới (21,31-34) ? Luca
(22,20) và Phaolô (1Cr 11,25) sẽ thấy giao ước mới được thực hiện bằng Máu của
bữa tiệc ly.
- Những hành vi ngôn sứ : cũng như mọi ngôn sứ khác
và còn hơn họ, Giêrêmia rao giảng không những bằng lời nói mà còn bằng hành
động. Ông làm nhiều hành vi có tính cách biểu tượng. Những hành vi ấy không
những loan báo mà còn có khả năng thực hiện : bởi lẽ ngôn sứ là kẻ mang Lời của
Thiên Chúa, mà Lời của Thiên Chúa là lời hữu hiệu. Một cách nào đó, Lời làm cho
điều được loan báo có thể hiện hữu trước. Theo nghĩa này, hành vi của Đức Giêsu
trong bữa tiệc ly cũng là một hành vi ngôn sứ (xem BJ chú
thích Gr 19,1b; TOB chú thích Gr 18,1c).
- Nhật ký tâm hồn của Giêrêmia : Giêrêmia và Phaolô
là những nhân vật trong Thánh kinh được chúng ta hiểu rõ nhất. Thực vậy
Giêrêmia thổ lộ tâm tư, cảm nghĩ, đức tin và hoài nghi của ông trong nhiều đoạn
văn rất chân thành, khiến người ta đôi khi gọi chúng là "những lời tự
thú" (bạn có thể xem liệt kê trong TOB 11,18người ; BJ 15,10d). Ít ra bạn
hãy chịu khó đọc 12,1-5 và 20,7-18 : những "lời cầu nguyện" ấy có thể
giúp chúng ta thế nào để hiểu Thiên Chúa ? hiểu chính chúng ta ? hiểu liên hệ
của chúng ta với Thiên Chúa ?
- Ơn gọi (1,4-19) : có một dấu hiệu giúp ta hiểu rõ
sứ điệp của một ngôn sứ. Đó là cách ông nói về việc mình được Thiên Chúa gọi.
Đối với trường hợp Giêrêmia thì chẳng có gì lạ thường, mọi sự hình như diễn ra
trong bầu khí thân mật cầu nguyện. Dựa trên bản văn này bạn hãy cố tìm xem
Thiên Chúa giao cho Giêrêmia sứ mạng gì cùng một vài nét cá tính của ông. Chỗ
dựa an toàn của ông là đâu ? Hai "thị kiến" (c.11t và 13t) cho chúng
ta biết ngôn sứ "thấy" biến cố như thế nào. Điều này có thể giúp gì
cho chúng ta trong việc khám phá Lời Chúa trong cuộc sống và trong những diễn
biến của thế giới ?
"THIÊN CHÚA SẮP TRỪNG PHẠT CÁC NGƯƠI..."
Sứ điệp của các ngôn sứ có thể khiến chúng ta bị chạm vì nó thường
cho thấy Thiên Chúa đe doạ trừng phạt dân Ngài vì họ phạm
tội. Vậy phải chăng thiên tai, chiến tranh, bất công v.v... đều là những hình
phạt của Thiên Chúa ? Quả thực một hình ảnh Thiên Chúa báo thù đối với chúng ta
là không thể chịu nỗi.
Hãy lấy một thí dụ so sánh. Một thanh niên thích phóng môtô thật
nhanh. Một hôm anh bị tai nạn, nằm nhà thương điều trị nhiều tháng. Rồi một hôm
cô y tá chăm sóc anh tận tình hơn cả mức đòi hỏi của nghề nghiệp. Rồi họ cưới
nhau. Anh thanh niên nói với cô y tá : "Thực tình mà nói, cũng nhờ anh
gặp tai nạn mà anh mới biết em". Trước đó linh mục tuyên úy bệnh viện
cũng nói với anh: "Tai nạn này là một dịp may cho anh..." Hai
câu nói trong cùng một hoàn cảnh, thế nhưng câu sau thật khó nghe, còn câu
trước nghe rất dễ chịu. Tại sao ? Vì câu trước được thốt ra từ chính tâm tư của
đương sự và sau khi sự việc đã xảy ra, nó diễn tả ý nghĩa của tai nạn mà chính
đương sự tự khám phá được, nó không bị áp đặt từ bên ngoài. Vả lại tai nạn dù
sao cũng vẫn là một điều xấu, điều mà đương sự cho là may mắn chính là hiệu quả
tốt phát sinh từ việc xấu kia.
Ta hãy áp dụng thí dụ trên vào các bản văn ngôn sứ. Giả sử thanh
niên kia trước khi gặp nạn đã sống một đời ích kỷ và phóng túng. Những đau đớn
và thời gian điều trị lâu dài đã giúp anh suy nghĩ về sự trống rỗng của nếp
sống trước đây. Khi ra khỏi bệnh viện anh đã thành một con người khác, quyết tâm
thay đổi nếp sống để phục vụ tha nhân nhiều hơn. Có lẽ anh sẽ nói với Chúa rằng
: "Chúa thật tốt và khôn ngoan khi để con gặp tai nạn, vì nhờ đó con đã
tìm được ý nghĩa của cuộc đời". Lời cầu nguyện này chúng ta thấy thật
dễ nghe, chứ không chướng tai như lời của linh mục tuyên úy : "Thấy
chưa! Chúa đã phạt anh !".
Lời của các ngôn sứ là lời của anh thanh niên chứ không phải lời
của linh mục tuyên úy. Êdêkien đã bị lưu đày cùng với dân ; Giêrêmia thì bị bắt
bớ và trong bản thân ông đã chịu trước những đau khổ của dân. Các vị ấy suy
nghĩ về những sự việc xảy ra. Tuy chúng tự thân là xấu, thế nhưng sau khi chúng
xảy ra rồi và sau đó (hoặc "trước đó" đối với trường hợp Giêrêmia) họ
cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của chúng, nhờ đó tự thâm tâm họ thấy được hiệu quả
tốt của chúng : chúng có tác dụng khiến dân biết mình đã sống xấu nên nay cần
phải thay đổi nếp sống. Tóm lại : những sự việc ấy đối với các ngôn sứ ít là
hình phạt của Chúa cho bằng là dịp chúng ta khám phá tình yêu của Thiên Chúa
mời gọi ta đổi mới cuộc sống.