THỜI LƯU ĐÀY
Ở BABYLONE
587-538
Tháng 7-587 sau một năm bao vây, quân đội Babylone dưới quyền chỉ
huy của vua Nabuchodonosor chiếm được thành Giêrusalem. Đó là ngày tàn của
vương quốc Giuđa.
I. MƯỜI NĂM ĐIÊN LOẠN : 597-587
Năm 597 Nabuchodonosor đã một lần chiếm được Giêrusalem. Nhưng lần
đó ông chỉ đòi một số tiền cống nạp lớn, đem đi đày một phần dân cư (trong đó
có Êdêkien), đặt lên ngôi một ông vua theo ý ông rồi rút quân đi.
Biến cố ấy có thành một bài học cho dân không ? Người ta đã có thể
hi vọng như thế. Nhưng dân lại nghe theo những lời đường mật của các ngôn sứ
giả cho rằng đó chẳng qua chỉ là một giai đoạn khó khăn tạm thời. Nghĩ vậy nên
họ vẫn tiếp tục sống vô tư, lại còn liên minh với Aicập chống lại Babylone.
Thật là 10 năm điên loạn !
Trong thời gian đó, ở Giêrusalem ngôn sứ Giêrêmia cố gắng khuyên
dân hãy tùng phục Babylone. Theo ông, điều chủ yếu không phải là đất nước được
tự do hay chịu thần phục về chính trị, mà là dân phải sống công chính, phải tự
do về mặt thiêng liêng để thờ phượng Chúa và thi hành đức công chính. Nhưng
than ôi, dân đã buộc tội ông là phản quốc và quẳng ông xuống một cái giếng sâu
đầy bùn. Tiếng nói của ông bị bóp nghẹt...
Cùng thời đó bên Babylone, Êdêkien cũng giảng một sứ điệp tương tự
cho số đồng bào cùng bị lưu đày với ông và cũng vô ích. Họ lén lút may cờ sẵn
để chờ đồng bào từ cố hương sang giải phóng cho họ... Tới năm 587, họ đã gặp
đồng bào sang, nhưng không phải trong tư cách của những giải phóng quân, mà
trong tư thế tả tơi, xích xiềng, mệt lả sau 1.500 km đường xa, theo sau là một
ông vua đã bị chọc mù hai mắt với hình ảnh cuối cùng còn sót lại là thấy thần
dân của mình bị thảm sát tơi bời...
II. PHÉP LẠ CỦA CUỘC LƯU ĐÀY
Dân đã mất hết những gì là lẽ sống của họ :
- Lãnh thổ, dấu chỉ cụ thể của phúc lành Thiên Chúa
ban cho dân Ngài.
- Vua, người được Thiên Chúa đặt làm trung gian
chuyển thông phúc lành, người bảo đảm mối thống nhất của toàn dân, người đại
diện dân trước Thiên Chúa.
- Đền thờ, nơi Thiên Chúa hiện diện giữa dân.
Và trong một giới hạn nào đó, Israel còn mất luôn Thiên Chúa
của họ, vì vào thời đó người ta nghĩ rằng mỗi nước có một vị thần hộ
mạng. Thế mà Thiên Chúa của Israel đã thua thần Mardouk của Babylone. Ai lại đi
thờ một vị thần bại trận !
Phép lạ của cuộc lưu đày chính là thảm hoạ ấy
đã không huỷ diệt đức tin của dân Israel mà còn làm cho đức
tin ấy đứng dậy và thanh luyện nó. Phép lạ này do công của các ngôn sứ (như
Êdêkien, và một môn đệ của Isaia, quen được gọi là Đệ nhị Isaia) và các Tư tế :
các vị ấy giúp dân đọc lại những truyền thống của mình để khám phá ra nền tảng
xây dựng nền hi vọng. Họ đã sáng tạo một cách sống đức tin mới mẻ có tính cách
thiêng liêng hơn. Không còn Đền thờ và các lễ vật ư ? Chẳng sao. Vẫn có thể tập
họp vào ngày Sabbat để thờ phụng Chúa và suy gẫm Lời Ngài. Không
còn vua ư ? Nhưng vua thật và duy nhất của Israel chính là Thiên Chúa
kia mà ! Không còn lãnh thổ ư ? Cũng chẳng hề gì, việc cắt bì sẽ
thay vào đó để lập nên một vương quốc thiêng liêng... Như thế, trong cảnh lưu
đày sẽ xuất hiện cái mà người ta gọi là Do thái giáo (Judaisme)
tức là một lối sống tôn giáo Do thái sẽ còn tiếp tục mãi tới thời Đức Giêsu và
cả thời chúng ta ngày nay.
III. BÊN BỜ SÔNG BABYLONE ...
Hoàn cảnh của những người Do thái bị lưu đày như thế nào ? Thật
không dễ trả lời. Dân đã bị một cú sốc khủng khiếp về tâm lý và luân lý, nỗi
đau ấy còn hằng trên da thịt. Vào thời đó chiến tranh và
bắt đi lưu đày có nghĩa là có những phụ nữ bị hãm hiếp, trẻ con bị đập đầu vào
đá, các chiến binh bị lột da, móc mắt, chặt đầu... Ta có thể đọc được trong
Thánh vịnh 137 âm vang của nỗi thống khổ ấy. Nhưng đàng khác ta chớ tưởng cuộc
sống bên Babylone giống như một trại tập trung. Bên Babylone, người Do thái vẫn
được hưởng một sự tự do tương đối (dĩ nhiên là không miễn trừ nô dịch) ;
Êdêkien được tự do đi thăm viếng đồng bào đang lo trồng trọt. Vào cuối thời lưu
đày, một số trong họ không muốn hồi hương, thà ở lại, số người này tạo thành
một cộng đoàn quan trọng và khá sung túc. Các tư liệu còn lại của "Ngân
hàng Murashu" ở Nippour (phía Nam thành Babylone) cho biết một thế kỷ sau
lưu đày một số người Do thái đã có được những ngân khoản kếch sù.
Người Do thái còn ngỡ ngàng trước thành Babylone và những truyền
thống văn hoá của nó. Babylone là một thành phố lớn, vuông
vức, diện tích 13 km2, có giòng sông Euphrat chảy ngang. Cổng Ishtar
làm bằng những viên đá nhiều màu, rực rỡ, nhiều ngôi đền lộng lẫy bao quanh
ngôi tháp nhiều tầng (gọi là ziggourat) : đấy chính là tháp Babylone
hoặc tháp Babel. Hàng năm vào dịp lễ Năm mới người ta hát những
bài đại thi (như Emouma Elish, Anh hùng ca Gilgamesh v.v...) kể chuyện thần
Mardouk sáng tạo thế giới ra sao và thần Êa đã cứu loài người thoát nạn hồng thuỷ thế nào... người Do thái biết được tư tưởng của các bậc
hiền sĩ và thân phận con người... Tóm lại, họ được dịp tiếp xúc trực tiếp với
một hệ tư tưởng vốn đã được phổ biến rộng khắp miền Trung Đông, và điều này đã
góp phần không nhỏ vào suy tư của họ.
IV. ĐẤNG MESSIA MANG TÊN CYRUS
Ngày 29-10-539 "chẳng tốn một viên đạn" (có lẽ nhờ sự
đồng loã của những người Babylone đã quá chán ghét vua họ
khi đó là Nabonide), tướng Cyrus chiếm được thành Babylone.
Cyrus là một tiểu vương xứ Ba Tư, một tỉnh của đế quốc dân Mèdes
trải rộng từ phía Đông tới phía Bắc của Babylone. Từ năm 550, ông đã nắm quyền
tại Médie, ông tiến quân tới tận Tiểu Á vơ vét hết những kho báu huyền hoặc của
vua Crésus rồi quay hướng về Babylone. Dân Do thái lưu đày và Đệ nhị Isaia đã
say mê theo dõi những bước tiến lên vùn vụt của Cyrus : phải chăng ông chính là
người được Thiên Chúa chọn, người được Thiên Chúa xức dầu (tiếng
Híp-ri gọi là Messia) để giải phóng họ ?
Năm 538 từ thành Ecbatane thủ đô mùa hè của ông, Cyrus ký một sắc
lệnh cho phép dân Do thái hồi hương. Ông còn ban cho họ một số tiền lớn gọi là
"thiệt hại do chiến tranh" để giúp họ tái thiết quê hương. Do lòng
tốt hay do ý đồ chính trị ? Thực ra làm vậy thì Cyrus cũng có lợi vì nước Do
thái là tiền đồn cho đế quốc ông đối diện với Aicập, ông cư xử tốt với Do thái
thì Do thái sẽ hết lòng với ông. Dù sao thì đối với dân Do thái, đấy cũng là
chấm dứt một cơn ác mộng. Một số lớn dân chúng trở về "lãnh thổ" của
họ.
SINH HOẠT VĂN CHƯƠNG
Những người Do thái đã mất tất cả, chỉ còn giữ lại những truyền
thống. Do đó họ đọc lại chúng cách say mê.
Các ngôn sứ Êdêkien và Đệ nhị Isaia
rao giảng trong thời lưu đày : một ông vào thời đầu, một ông vào thời cuối.
Các tư tế thu thập những sưu tập luật đã được viết ở Giêrusalem
trước khi vương quốc sụp đổ : Luật về sự thánh (Lv 17-26). Sau
thời lưu đày bộ luật này sẽ được bổ sung và trở thành sách Lêvi.
Trên hết, nhằm nâng đỡ đức tin và niềm hi vọng của dân, các tư tế
một lần nữa đưa họ về về với nguồn gốc của mình. Công trình đọc lại lịch sử ấy được gọi là truyền thống tư tế (viết tắt là P từ
chữ Prêtres nghĩa là "tư tế"). Đây là nguồn tài liệu thứ tư của Bộ
Ngũ thư. Như thế là tất cả các yếu tố của Bộ Ngũ thư đã có đủ, chỉ cần tập họp
lại thành một tác phẩm duy nhất, việc này sẽ được thực hiện khoảng năm 400.
Thảm hoạ mất nước, thống khổ lưu đày và cả dịp
được tiếp xúc với tư tưởng Babylone và Ba Tư... Những yếu tố ấy giúp các
hiền sĩ Israel đào sâu suy tư về thân phận con người. Suy tư ấy trong
những thế kỷ sau lưu đày sẽ đưa đến những tác phẩm như sách Gióp.
Ta cũng dễ hiểu rằng lời cầu nguyện của các tín hữu sẽ có một cung
giọng mới. Các Thánh vịnh (chẳng hạn TV 137 hay 44 ; 80 ; 89)
được sinh ra như một lời cầu nguyện lên Thiên Chúa trung thành.
Còn ở tại Giêrusalem, một vài người Do thái may mắn không bị lưu
đày đã cất tiếng bày tỏ nỗi niềm trong những khúc Ai ca (mà nhiều
người lầm tưởng là Giêrêmia).