ISRAEL DƯỚI ÁCH ĐÔ HỘ CỦA HY
LẠP (333-63)
VÀ ROMA (sau năm 63)
Năm 333, nhờ thắng được Issos (phía Bắc Antioche), Alexandre
mở được cánh cửa vùng Trung Đông. Năm 332 ông tiến đến Aicập và xây thành
Alexandria. Năm 331, ông chiếm Babylone, Suse, Persépolis. Năm 327 ông tiến sát
biên giới Ấn Độ và năm 323 vị vua trẻ mới 33 tuổi ấy đã chết tại Babylone.
Trong vòng 10 năm, ông đã liên tiếp chiến thắng trên con đường viễn chinh
18.000 km, đã xây dựng hơn 70 thành trong đế quốc bao la (trong đó nhiều thành
mang tên Alexandria) ông đã đem văn hoá Hy Lạp phổ biến
khắp nơi và tạo ra một phương tiện để thống nhất toàn đế quốc, đó là một ngôn
ngữ chung. Tiếng koinè (nghĩa là "ngôn ngữ chung") được
sử dụng lúc bấy giờ ở Hy Lạp, sẽ trở thành tiếng nói chung cho toàn vùng lòng chảo Địa Trung Hải suốt 8 thế kỷ dài (mãi tới năm 500 cn
nó mới bị tiếng Latin thế chỗ). Đây cũng chính là thứ ngôn ngữ mà Cựu ước sẽ
được dịch ra (bản dịch 70) và được dùng để viết Tân ước.
I. ISRAEL DƯỚI QUYỀN NHÀ LAGOS : 333-198
Sau khi Alexandre băng hà, các tướng lĩnh của ông (gọi là những vị
Diadoques) tranh giành đế quốc và cuối cùng chia đế quốc làm 3 phần, lập nên
các triều đại mang tên vị vua đầu tiên : triều đại Antigon ở Hy
Lạp, triều đại Lagos ở Aicập và triều đại Seleucos
ở Syria (từ Địa Trung Hải tới Ấn Độ).
Trong vòng hơn 100 năm, đất Palestina nằm dưới quyền nhà Lagos. Các
vua của triều đại này đa số mang tên là Ptolémée và thường tôn trọng tập tục
của các nước bị trị, do đó họ để cho dân Do thái được tự do theo quy chế mà
Ét-ra đã ấn định. Dân Do thái cũng được hưởng một sự tự trị khá rộng.
Trong giai đoạn này Do thái giáo bắt đầu phân chia ra ba
trung tâm chính :
- Ở Babylone, cộng đoàn kiều dân Do thái tiếp tục tồn tại. Nó sẽ
sinh ra nhiều tác phẩm quan trọng, đặc biệt là Talmud de Babylone.
- Ở Aicập, cộng đoàn Alexandria mở mang nhanh. Tới thời Đức Giêsu
nó đã chiếm tỉ lệ 1/5 dân số trong thành. Cộng đoàn này khai sinh một hình thức
Do thái giáo đặc biệt, có thể hoà đồng với tư tưởng Hy Lạp.
Chính tại nơi đây Thánh kinh sẽ được dịch sang tiếng Hy Lạp (bản 70), nhiều
sách khác được soạn (trong đó có sách Khôn ngoan) và cũng tại đây vào thời Đức
Giêsu, triết gia Do thái tên Philon sẽ cố gắng suy tư đức tin của mình bằng
phạm trù tư tưởng Hy Lạp.
- Ở Palestina, cộng đoàn bị chia rẽ. Có những người bị cám dỗ chạy
theo văn minh Hy Lạp, tham gia các trò chơi và tới lui những hồ tắm Hy Lạp,
thậm chí đi giải phẫu lại để che giấu vết tích cắt bì của họ. Nhưng có những
người khác rất lo lắng trước làn sóng "Hy Lạp hoá".
Họ rất gắn bó với đức tin Do thái và những hình thức diễn tả đức tin ấy, họ
thiết tha chứng minh rằng : đức tin Do thái giáo có thể giúp người ta triển nở
trọn vẹn, và muốn duy trì đức tin Do thái giáo thì phải duy trì những hình thức
lễ nghi Do thái giáo. Chính trong bối cảnh chia rẽ ấy đã phát sinh một số tác
phẩm như sách Qohelet, Tobia, Siracide...
II. ISRAEL DƯỚI QUYỀN NHÀ SELEUCOS 198-63
Năm 198 đoàn voi Syria chọc thủng đạo quân Aicập và mở màn thời kỳ
tử đạo cho Israel. Tại trận Paneion phía thượng nguồn sông Giođan, vua Antiochus
III của triều Seleucos giành được quyền cai trị xứ Palestina khỏi tay
Aicập.
Khác với nhà Lagos, nhà Seleucos chủ trương dùng sức mạnh để buộc
người Do thái theo văn hoá và tín ngưỡng Hy Lạp. Năm 167, Antiochus IV
bãi bỏ những đặc quyền của người Do thái, cấm giữ ngày Sabbat và việc cắt bì,
đặt tượng thần Zeus trong Đền thờ Giêrusalem. Cuộc khủng hoảng càng trầm trọng
thêm vì các tư tế không đồng tâm nhất trí, một số còn lại ủng hộ phong trào Hy
Lạp hoá.
Nhân một dịp quan chức của Antiochus buộc dân phải tế thần, một tư
tế đã giết chết ông này và cùng với 5 người con rút vào bưng biền. Người con
thứ năm tên là Giuđa, chính tên riêng của ông này sẽ trở thành
tên của cả gia đình : Macabê (nghĩa là "Búa"). Bằng
những cuộc đột kích táo bạo, Giuđa Macabê giải phóng được Giêrusalem. Phụng tự
tại Đền thờ được tái lập ngày 15-12-164. Từ đó lễ Cung hiến Đền thờ hàng năm
cũng là lễ tưởng niệm cuộc giải phóng đó. Hai anh của Giuđa và những người kế
vị sau đó lập thành triều đại Macabê (hay còn gọi là triều
đại Asmon) và thậm chí còn xưng hiệu là Vua.
Nhưng than ôi, lịch sử triều đại Asmon khởi sự bằng máu của các vị
tử đạo sẽ kết thúc trong bùn nhơ. Những người kế nghiệp Giuđa đút lót các vua
Seleucos để được phong làm thượng tế, một số còn giết chết những người Do thái
vì trung thành với đức tin mà chống lại hành vi của họ.
Năm 63, dân Do thái chia rẽ thành 2 phe, mỗi phe ủng hộ vua riêng
của mình. Họ dại dột kêu cầu Rôma làm trọng tài phân xử cho họ.
Thế là tướng Pompée có lý do can thiệp : viện cớ để ủng hộ một
phe Do thái, ông chiếm thành Giêrusalem sau 3 tháng bao vây. Đó là mở màn cho
ách đô hộ của Rôma sẽ kéo dài cho tới thế kỷ VII cn khi quân Á rập tràn vào xứ
này.
II. NHỮNG HỆ PHÁI DO THÁI
1) Phái Pharisêu (nghĩa là "tách
biệt" hoặc "biệt phái"). Những người phái này thuộc phong trào Hassidim
(từ ngữ hésèd nghĩa là "sốt sắng, đạo đức"). Phong trào
này đã có từ thời Ét-ra chủ trương xây dựng một đất nước trên những giá trị
thiêng liêng. Những người Pharisêu rất có lòng đạo, rất gắn bó với Luật và các
lễ nghi. Do lòng đạo đức sốt sắng và do thông thạo Sách thánh, họ sẽ trở thành
lương tri của Do thái giáo.
2) Phái Êssêni : từ hồi khám phá
những thủ bản ở Qumrân người ta biết nhiều hơn về phái này. Họ cũng là những
Hassidim. Có lẽ trong cuộc nổi dậy của gia đình Macabê, họ cũng bỏ Giêrusalem
rút vào sa mạc và trú tại một nơi gần Biển Chết, ở đấy họ thành lập một cộng
đoàn Giao ước mới để chuẩn bị cho Đấng Messia tới bằng một cuộc sống cầu nguyện
và suy gẫm. Vốn chủ trương đạo đức triệt để, họ cho rằng những người phái
Pharisieu quá nguội lạnh nên đoạn giao với phái ấy.
3) Phái Sađóc : phái này gồm một nhóm tư tế cao cấp.
Họ liên minh với các vua triều đại Asmon và dùng mọi phương tiện để bảo vệ
quyền lợi của họ. Ta không nên lẫn lộn nhóm tư tế trưởng giả này với số đông
các tư tế "cùng đinh" là những người thường rất sốt sắng và thiên hơn
về phái Pharisêu.
SINH HOẠT VĂN CHƯƠNG
Thời này có một ngôn sứ được gọi là Đệ nhị Dacaria.
Phong trào Hy Lạp hoá gây nên nhiều phản ứng hoặc theo hoặc chống,
biểu hiện trong những sách Qohelet, Siracides, Tobia, Diễm ca, Baríc và
Khôn ngoan. Trong thời này Sách thánh được dịch sang tiếng Hy Lạp : bản
dịch 70.
Cuộc bách hại của Antiochus và thiên anh hùng ca của nhà Macabê
cũng làm phát sinh nhiều tác phẩm : Ét-te, Giuđitha, 1 và 2 Macabê
và triển khai một thể loại văn chương mới phát sinh với những ngôn sứ sau cùng,
đó là văn thể khải huyền, mà đại biểu trong Cựu ước là sách Đaniên.
Những Thánh vịnh cuối cùng được soạn thành Bộ Thánh vịnh.