CÁC THÁNH VỊNH
Chúng ta kết thúc chuyến tham quan Cựu ước bằng tập Thánh vịnh.
Từ đầu tới giờ chúng ta đã đọc những bản văn theo thời kỳ lịch sử
chúng được viết. Nhưng không làm thế với các Thánh vịnh vì hầu như không thể
xác định chúng được viết vào thời điểm nào. Thánh vịnh là lời cầu nguyện mà
thời nào người ta cũng cầu nguyện cả. Bởi đó chúng ta gom chung tất cả các
Thánh vịnh vào chương cuối cùng này.
I. NHỮNG TIẾNG KÊU CỦA CON NGƯỜI
A. Chouraqui, một thi sĩ Do thái đã viết : "Chúng tôi sinh
ra với quyển Thánh vịnh trong bụng". Đây là một quyển sách gồm 150 bài
thơ, 150 bậc giữa cái chết và sự sống, 150 tấm gương phản ánh những cuộc nổi
loạn và những sự bất trung của chúng ta, những cơn hấp hối và những lần hồi
sinh của chúng ta. Còn hơn là một quyển sách, đó là một người đang nói, đang
sống, đang đau khổ, đang rên rỉ và đang chết dần mòn, nhưng rồi đang sống lại
và đang hát trước ngưỡng cửa đời đời...
Thánh vịnh là tiếng kêu của con người, là bài ca thán phục trước
thiên nhiên và tình yêu, là nỗi khắc khoải trước đau khổ và sự chết, là tiếng
rên rỉ dưới sự chà đạp của xã hội, là sự nổi loạn trước sự phi lý của cuộc đời
và sự im lặng của Thiên Chúa... Thánh vịnh là tất cả những tiếng kêu ấy vang
lên tới Chúa để trở thành lời cầu nguyện. Đúng vậy, mọi tiếng kêu lên Thiên
Chúa dù là tiếng ca ngợi hay là tiếng than van, thậm chí tiếng nổi loạn cũng
đều có thể thành lời cầu nguyện.
II. HAI LOẠI NGÔN NGỮ
Ta cần phân biệt ngôn ngữ thông tin và ngôn ngữ
quan hệ. Đứa trẻ nằm trên giường kêu lên "Má ơi ! con khát".
Đó có thể là ngôn ngữ thông tin nếu nó đang khát nước thực sự. Mẹ nó sẽ đem
nước tới cho nó uống. Nhưng nếu nó đã uống no trước rồi mà vẫn kêu : "Má
ơi ! con khát" thì thực ra nó không cần nước, không khát nước mà khát
sự âu yếm của mẹ. Đây là ngôn ngữ quan hệ.
Trong ngôn ngữ thông tin, lời nói diễn tả đúng sự việc. Còn trong
ngôn ngữ quan hệ thì lời nói diễn tả một sự việc khác. Thí dụ chồng nói với vợ
"Chim bồ câu của anh ơi", "con chuột nhỏ bé của anh à".
Tương tự như thế Thánh vịnh gọi Thiên Chúa là "đá tảng của con, thành luỹ của con".
Sự phân biệt trên rất quan trọng để ta có thể cầu nguyện bằng Thánh
vịnh, và rộng hơn để ta có thể đọc và hiểu Thánh kinh. Thực ra Lời Chúa
thường thuộc ngôn ngữ quan hệ. Dĩ nhiên sách thánh cũng muốn thông tin
một số việc nhưng trước hết, sách thánh muốn đưa ta vào quan hệ hữu vị với
Thiên Chúa, nó đánh động chúng ta. Xét cho cùng, ngôn ngữ thông tin chỉ nói với
trí óc của ta, còn ngôn ngữ quan hệ nói với chính con tim của ta. Câu "má
ơi con khát" nếu thốt lên khi đứa bé cần nước thật thì mẹ nó chỉ có
việc mang nước đến cho con ; nhưng nếu nó là ngôn ngữ quan hệ thì nó làm cho
người mẹ xúc động vì nó kêu gọi chính bản năng mẫu tử của bà.
Con người khoa học thường hiểu ngôn ngữ theo nghĩa thông tin, nhưng
những người yêu thương nhau thường hiểu theo nghĩa quan hệ. Một giáo viên Sinh
vật đưa một cành hoa cho học sinh và hỏi "Cái gì đây ?". Học
sinh sẽ trả lời đó là một loài thực vật thuộc giống gì, có những đặc tính gì
v.v... Nhưng một thanh niên đưa một cành hoa cho một cô gái, cô sẽ hiểu hoàn
toàn khác hẳn.
Vì thế khi đọc Thánh vịnh - và Thánh kinh - ta phải nhớ rằng đó là
ngôn ngữ quan hệ. Có những hình ảnh trong đó ta không nên tìm hiểu ý nghĩa theo
kiểu khoa học chính xác mà phải cố gắng khám phá ngụ ý tình cảm của chúng.
"Tảng đá" có thể là thứ đè bẹp người ta, nhưng cũng có thể là
thứ che chắn cho người ta. Thiên Chúa là "đá tảng", ta phải
tìm xem nói như thế có nghĩa gì ?
III. NGÔN NGỮ CỦA MỘT THỜI ĐẠI
Những hình ảnh trong thi văn thay đổi theo từng nền văn minh. Hình
ảnh người gieo giống có thể rất đẹp đối với các thế hệ cha ông chúng ta, nhưng
chẳng còn ý nghĩa gì nữa đối với thời đại cơ khí bây giờ.
Thánh kinh diễn tả trong một nền văn hoá không
giống chúng ta bây giờ bởi đó nhiều chỗ ta thấy khó hiểu. Nhưng những chú thích
sẽ giúp chúng ta hiểu.
Thi luật ngày xưa cũng không giống ngày nay. Nhưng chưa chắc là các
Thánh vịnh không hay bằng những bài thơ hiện đại.
IV. CÁCH ĐÁNH SỐ CÁC THÁNH VỊNH
Cách đánh số các Thánh vịnh có khác nhau giữa bộ Thánh kinh Hy Lạp
(được dùng theo trong bản dịch Latin và Phụng vụ Công giáo) với bộ Thánh kinh
Híp-ri (được theo bởi hầu hết ấn bản nghiêm chỉnh). Khi thấy có khác nhau xin
bạn lưu ý rằng bản Híp-ri lớn hơn bản Hy Lạp một số. Khuynh hướng ngày nay là
chọn theo cách đánh số của bản Híp-ri. Nhiều ấn bản Thánh kinh cẩn thận hơn, đề
ra cả 2 con số. Thí dụ Tv 51 (50) nghĩa là 51 theo bản Híp-ri, và 50 theo bản
Hy Lạp.
V. NHỮNG VĂN THỂ
Các chuyên viên đã nỗ lực xác định những văn thể của các Thánh
vịnh. Việc này giúp ích cho ta hiểu và cầu nguyện với các Thánh vịnh. Phải
chuẩn bị lòng mình trước khi đến thăm một người bạn, hoặc dự một tiệc cưới hay
phân ưu với một đám tang... Có thế thì ta mới có được một thái độ thích hợp.
Tương tự như thế, biết văn thể của Thánh vịnh là rất cần trước khi ta dùng nó
để cầu nguyện với Thiên Chúa.
Các chuyên viên đưa ra nhiều cách xếp loại văn thể Thánh vịnh, tuy
khác nhau trong chi tiết nhưng đại khái cũng giống nhau trong những nét lớn.
Bạn có thể tìm cách xếp loại ở phần dẫn nhập vào Thánh vịnh trong ấn bản Thánh
kinh của bạn. Còn chương này nhằm giúp bạn cầu nguyện với Thánh vịnh nên không
chú ý tới cách xếp loại cho bằng tới những chủ đề (nhưng cả hai cũng gặp nhau).
VÀI CHỦ ĐỀ CỦA CÁC THÁNH VỊNH
- Lời nguyện tán tạ Thiên Chúa cứu tinh và tạo hoá.
- Lời nguyện tán tạ Thiên Chúa ở bên cạnh ta, Ngài ở
nơi dân Ngài (Giêrusalem, Đền thờ).
- Lời nguyện hi vọng : Thiên Chúa là vua và Ngài sắp
thiết lập vương triều công chính của Ngài, qua vị Vua-Messia của
Ngài mà ông vua trần thế chỉ là hình bóng.
- Lời nguyện xin ơn và tạ ơn : đây là 2 phương diện
không tách rời.
- Lời nguyện để sống : gom lại trong đây nhiều chủ đề
phát sinh từ suy tư của các hiền sĩ : phải sống thế nào trong hoàn cảnh khó
khăn của con người ?
- Trước đó, các Thánh vịnh Lên đền
cũng chứa đựng những chủ đề trên.