THÁNH VỊNH TÁN TẠ
THIÊN CHÚA CỨU TINH VÀ TẠO HOÁ
Có những lúc ta thấy thèm hát vì thế giới đẹp quá, vì có ai đó
thương ta quá, vì vừa giải toả được 1 gánh nặng trong tâm
hồn ...Có những lúc toàn dân nhảy mừng : mừng ngày đất nước được giải phóng,
mừng cho cuộc sống ấm no hạnh phúc...Tiếng hát cá nhân, tiếng hát tập thể hoà lẫn nhau trong bầu không khí vui tươi mở hội...
Ở Isrel, tâm tình hân hoan tán tạ bộc phát trong hầu hết các Tv.
Hầu như đó là tâm tình duy nhất của các Thánh thi. Nó cũng chen vào những Thánh
ca tạ ơn, và ngay cả trong những Tv giáo huấn và van xin nữa. Đó chính là một
trong những nét đặc thù của con người trong Thánh kinh khi đối diện với Thiên
chúa của mình : dù hoàn cảnh cụ thể của họ lúc đó như thế nào đi nữa, dù đang
vui hay đang buồn, dù đang sốt sắng hay đang ray rứt vì tội lỗi... người tín
hữu vẫn tin mình đang sống trước mặt Thiên Chúa, do đó không thể ngăn nỗi lời
ca ngợi khen vẻ đẹp và lòng tốt bao la của Ngài.
Tâm tình tán tạ trào ra không phải là kết quả của suy tư lý luận,
mà là sự bộc phát niềm vui bởi biết mình được Thiên Chúa yêu thương, như Lời
Ngài đã phán :"Ngươi rất quý giá trước mắt Ta, ngươi rất nặng ký, bởi
vì Ta yêu thương ngươi" (Is 43,4).
I. THIÊN CHÚA CỨU TINH
Như ta đã thấy, kinh nghiệm đầu tiên của Israel về Thiên Chúa là được
Ngài giải phóng và cứu độ : chính Ngài đã kéo họ ra khỏi vòng nô lệ. Ngoài tập
Thánh vịnh ra, còn nhiều sách khác cũng chứa nhiều bài ca có từ rất xưa như :
Bài ca Myriam hát mừng ngày Xuất hành ra khỏi Ai cập (Xh 15,21), bài ca chiến
thắng của Débora dưới chân núi Tabor (Tl 5).
Và trong những cuộc lễ phụng vụ, dân chúng gợi lại những việc kỳ
diệu Thiên Chúa đã làm trong lịch sử cũng bằng những Thánh vịnh, qua đó họ ý
thức thêm họ là dân riêng của Thiên chúa, họ khẳng định lại niềm tin vào Giao
ước, họ củng cố thêm niềm hy vọng vào tương lai : Thiên Chúa đã nhiều lần giải
phóng họ trong quá khứ, chắc chắn Ngài cũng sẽ giải phóng họ trong tương lai.
II. THIÊN CHÚA TẠO HOÁ
Israel khám phá thêm rằng sở dĩ Thiên chúa có thể can thiệp vào
lịch sử để cứu họ vì Ngài chính là Chủ tể của lịch sử, bởi chính Ngài đã tạo
dựng vũ trụ. Vì thế họ cũng tán tạ Ngài vì những công trình tạo dựng trong
thiên nhiên.
III. CƠ CẤU CỦA NHỮNG THÁNH VỊNH TÁN TẠ
Những Tv có bố cục rất đơn giản gồm 3 phần :
- Mở đầu là kêu mời hãy tán tạ Chúa.
- Tiếp đến là chính lời tán tạ, bắt đầu bằng những chữ "vì",
"bởi vì", "vì Ngài"..., kể ra những việc kỳ diệu Ngài
đã làm trong lịch sử hoặc những phẩm tính của Ngài.
- Kết thúc lại là một lời kêu mời tán tạ Chúa nhưng cách trang
trọng hơn, và một lời tung hô hoặc "Allelu-Yah" hay "Đến
muôn đời".
IV. LỜI NGUYỆN CỦA CHÚNG TA
Có lẽ chúng ta sẽ dễ dàng cầu nguyện với những Thánh vịnh này, chỉ
có một khó khăn nhỏ về phương diện văn hoá là một số hình
ảnh xa lạ với chúng ta (nhưng nếu ta đã quen với những bài tường thuật tạo dựng
thì những hình ảnh này không còn xa lạ nữa) ; một vài ám chỉ tới những biến cố
lịch sử có lẽ cũng lạ. Nhưng không sao, không phải vì ta không biết vài chi
tiết về đời sống của ông bà cha mẹ ta mà ta không cảm thấy liên hệ với các
Ngài. Thì cũng thế, những Thánh vịnh này, dù có một số chi tiết hơi lạ, cũng
giúp ta xác tín rằng lịch sử của dân Chúa cũng là lịch sử của chúng
ta, rằng nguồn gốc đức tin của chúng ta chính là những việc kỳ diệu của Thiên
Chúa đã làm từ cuộc xuất hành đầu tiên cho đến cuộc xuất hành mới trong Đức
Giêsu Kitô.
TỰA ĐỀ CỦA CÁC THÁNH VỊNH
Phần lớn các Tv ở đầu có ghi những chỉ dẫn về tác giả và thể loại
nhiều khi khó hiểu.
Tác giả : giới từ híp-ri ở
trước tên tác giả có nghĩa là người ta coi ông đó là tác giả của Tv, hoặc Tv
này thuộc bộ sưu tập của ông đó. Thực ra đó chỉ là một cách gán ghép các Tv cho
tác quyền của những nhân vật lớn của Israel thôi chứ chưa hẳn là đúng sự thật.
Một số Tv còn ghi phải hát với nhạc cụ nào, hát theo thể loại nào.
V. NGHIÊN CỨU VÀI THÁNH VỊNH
1) Tv 114: Thiên Chúa của những cuộc Xuất hành.
a) Kêu mời: Allelui Yah, hãy tán tụng Chúa.
b) Tán tạ :
c 1-2 : mục đích cuộc xuất hành thứ nhất : Chúa muốn làm cho dân
thành đền thánh của Ngài, Ngài muốn ở với một dân tín hữu.
c 3-4 : những việc kỳ diệu cuộc xuất hành thứ nhất.
c 5-6 : tác giả nhập cuộc mời chúng ta suy nghĩ về ý nghĩa của
những việc kỳ diệu ấy.
c 7-8 : những việc kỳ diệu của cuộc xuất hành thứ hai : giải phóng
khỏi Babylone. Đây chính là một trong những ý nghĩa có thể có. Tác giả nhớ tới
Đệ nhị Isaia (Is 14,15; 42,15; 43,20) và hát mừng cuộc xuất hành mới.
c) Lời nguyện của Đức Giêsu : Đức Giêsu đã mượn lại Tv này để hát
mừng "cuộc xuất hành Ngài sắp thực hiện ở Giêrusalem" (Lc
9,31).
d) Lời nguyện của chúng ta : ngày nay chúng ta sẽ
dùng Tv để cầu nguyện như thế nào ? Tân ước trình bày đời chúng ta như một cuộc
xuất hành mới (Ga ; 1P ; Kh) : như thế thì đời ta có ý nghĩa gì ? Ta có thể ca
mừng Đức Kitô là đá tảng phát sinh nguồn nước sống cho ta (1Cr 10,4).
2) Thánh vịnh 113 : Tc của những người bị áp
bức :
a) Kêu mời : c 1-3 mời ai ? ở đâu ?
b) Tán tạ :
c 4-6 : tán tạ những phẩm tính gì của Thiên Chúa ?
c 7-9 : hãy so sánh những câu này với 1Sm 2,1-10, với "tin
mừng" mà đệ nhị Isaia đã nói tới, với những lời chúc phúc trong Tin mừng,
những câu này loan báo gì ?
c) Lời nguyện của Đức Giêsu : Tv này là đầu tiên của
một toàn thể (Tv 113-118) được gọi là Hallel (tán tạ), được hát trong 3 dịp lễ
lớn. Đức Giêsu đã hát nó buổi chiều thứ năm thánh (Mc 14,26), Ngài dùng nó làm
lời cầu nguyện của Ngài như thế nào ?
d) Lời nguyện của chúng ta : Thiên Chúa muốn bày tỏ
sự cao cả của Ngài thế nào ? Ngày nay ta có thể dịch các câu 7-9 (phẩm giá của
người nghèo và người bị áp bức) như thế nào ? Ta có thể cầu nguyện bằng Tv này
mà không cần nỗ lực thực hiện điều ta xin hay không ?
3) Tv 8 : Con người sống là vinh quang của
Thiên Chúa.
a) Kêu mời : c.2 (được lặp lại ở c.10 để kết thúc).
b) Tán tạ :
c 3-5 : tán tạ sự cao cả của Thiên Chúa. Có lẽ phần đầu phải dịch
như sau : "Tôi muốn hát mừng vinh quang của Ngài trên các tầng trời hơn
miệng lưỡi của trẻ con và thơ nhi".
"Con trẻ" có lẽ là các các tinh tú thuở bình minh của tạo
dựng đã hát mừng Thiên Chúa (G 38,6 ; Br 3,35) : con người hát mừng Thiên Chúa
còn tốt hơn chúng nữa. "Nơi cư ngụ" của Thiên Chúa chính là trời :
như ở St 1, cuộc tạo dựng được coi là việc Thiên Chúa chiến thắng hỗn mang.
c 6-9 : c 5 đã đưa con người nhập cuộc, bây giờ con người ở phần
trung tâm, nhưng Thiên Chúa vẫn là chủ từ của tất cả các động từ. Tán dương sự
cao cả của con người tức là tán dương sự cao cả của Thiên Chúa.
Với Tv này chúng ta ở giữa đường, giữa 2 tường thuật tạo dựng (St 2
và 1). Tv này sẽ được trích dẫn nhiều lần trong Tân ước.
4) Tv 104 : Cuộc tạo dựng và vinh quang của
Thiên Chúa
Tác giả lấy hứng từ một thánh thi Aicập ca tụng thần Mặt trời, được
soạn khoảng năm 1350. Một lời nguyện của con người có thể trở thành lời nguyện
dâng lên Thiên Chúa hằng sống, cũng như bánh ăn thường ngày có thể trở thành
Mình Thánh Chúa Kitô ; tác giả dùng thánh thi Aicập này để suy nghĩ về đức tin
và về cuộc tạo dựng ở St 1.
a) Kêu mời : c.1.
b) Tán tạ : c.2-30.
Trước hết bạn cứ đọc chơi để thưởng thức. Sau đó so sánh nó với
Thánh thi Aicập xem nó có những điểm nào giống nhau ; rồi so sánh với tường
thuật St 1 xem có gì giống nhau (có theo thứ tự các ngày tạo dựng không)
c) Kết thúc : c 31-35.
Lời tán tạ của cá nhân, mơ ước tới ngày thế giới được giải thoát
khỏi sự dữ.
d) Lời nguyện của chúng ta : chính nhờ Đức Kitô và
cho Đức Kitô mà Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sự (Cl 1,15-18). Chính nhờ hơi thở
của Thánh Linh Ngài mà Thiên Chúa ban sự sống cho chúng ta, và bánh rượu trở
thành biểu tượng của một thế giới mới được tái tạo trong Thánh Linh.