CÁC THÁNH VỊNH CẦU NGUYỆN
để SỐNG
Suy tư của các hiền sĩ sau thời lưu đày đã khiến xuất hiện hoặc đào
sâu thêm nhiều chủ đề mới, chẳng hạn ca ngợi người công chính, ca ngợi Luật,
vấn đề thưởng phạt... Những chủ đề này được thấy trong một số Thánh vịnh.
I. CA NGỢI NGƯỜI CÔNG CHÍNH hay là TÔN
KÍNH CÁC THÁNH
Chỉ cần đọc bài ca ngợi bà chủ nhà khôn ngoan (Cn 31,10-31) hoặc
bài tán dương các bậc tổ tiên (Mc 44t) thì ta cũng đủ hiểu các hiền sĩ thích
những dung mạo ấy như thế nào.
Xin đọc Tv 111 : Thánh vịnh theo mẫu tự này là một bài ca ngợi
Thiên Chúa. Xin đọc thêm Tv 112 (cũng có cấu trúc tương tự) bạn sẽ ngạc nhiên
thấy tác giả gán cho người công chính nhiều phẩm tính của Thiên Chúa. Hoặc đọc
Tv 1 hoặc 26 ("tôi rửa tay trong lòng vô tội") : trên thực tế
ai mà dám đọc những Tv này ? Thưa có ! bằng 2 cách :
- Cách đơn sơ như Đức Maria ngây
ngất vì kỳ công Chúa đã thực hiện trong Người "Chúa đã làm cho tôi
những việc kỳ diệu". Tội không phải là nhìn nhận những điểm tốt của
mình mà là không chịu thấy chúng hoặc không dùng chúng để tôn vinh Thiên Chúa.
- Cách khiêm tốn : tôi quá rõ là tôi chưa hoàn toàn
để cho Chúa thực hiện ước mơ của Ngài về tôi. Như vậy đọc những Tv này tức là
đặt một lý tưởng trước mặt mình, nhìn nhận mình chưa đạt tới lý tưởng ấy và xin
Chúa giúp mình đạt được.
II. TÔN KÍNH LUẬT
Chúng ta đã đọc Tv 119 gồm tới 176 câu ca tụng Luật. Bây giờ bạn
hãy đọc thêm Tv 19 nữa.
Đối với người Do thái, Luật tức là Lời Chúa, là sự khôn ngoan của
Ngài (Hc 24; Br 4,1), Phaolô ban đầu nói : "Lẽ sống của đời tôi là Luật",
rồi sau đó nói : "Lẽ sống của đời tôi là Đức Kitô". Không phải
ông nói 2 điều, mà chỉ nói một điều thôi.
Đối với Kitô hữu, Luật không bị huỷ bỏ. Chính
Đức Kitô giúp ta hiểu Luật (Lc 24,25) cho nên nó cũng là đường dẫn ta tới Ngài.
III. VẤN ĐỀ THƯỞNG PHẠT
"Nếu ngươi làm điều tốt thì sẽ được thưởng, còn nếu
làm điều xấu thì sẽ bị phạt". Đây là một nguyên tắc rất rõ trong sách
Đệ nhị luật. Thế nhưng thực tế nhiều khi không đúng như vậy. Nhiều người vì thế
cho rằng phải đợi tới đời sau thì mới có công bình trọn vẹn. Nhưng phải mãi sau
này Israel mới tới niềm tin vào đời sau. Còn trong khi chờ đợi, họ chỉ hiểu
thưởng phạt theo cách ở đời này : thưởng là giàu có, đông con, sống lâu ; phạt
là nghèo đói, khổ sở, chết yểu... Nhưng nghĩ như vậy cũng chưa ổn vì thực tế có
những người ác mà được những điều tốt kể trên, còn những người lành lại bị
những điều xấu kể trên. Người ta lại nghĩ tới tình liên đới : một người lành bị
khổ tức là do tội của ông bà và cha mẹ người đó. Cũng vẫn không ổn : Êdêkiên
(Êd 18) và Gióp, rồi Qohelet thay nhau phản kháng quan niệm trên.
Khoảng 20 Thánh vịnh cũng bàn về vấn đề hóc búa này. Trong đó ta có
thể nhận ra 4 giai đoạn chính của con đường đức tin.
1) Bình an vô tư :
Bằng lòng với giáo thuyết cổ truyền (chẳng hạn Tv 138).
2) Đau khổ ngỡ ngàng :
"Nếu thật có Chúa, sao Ngài lại để cho trẻ thơ vô tội
bị chết ?". Những Thánh vịnh này (chẳng hạn Tv 10 ; 94) đau đớn đặt
câu hỏi mà không tìm được câu trả lời.
3) Bình an trong đức tin :
Nhìn cảnh sung túc của kẻ ác, ta nghĩ rằng đó không phải là điều
lành đích thực. Phẩm giá con người còn khác thế. Chắc chắn Thiên Chúa sẽ chiến
thắng những thử thách hiện tại (Tv 49; 91; 139).
4) Vui mừng trong tình thương :
Tv 37 (sắp nghiên cứu dưới đây) là đỉnh cao nhất. Không cần lý
luận, chỉ biết hoàn toàn phó thác và tin chắc mình được Chúa thương, do đó, dù
trong hoàn cảnh nào cũng vui mừng.
IV. NGHIÊN CỨU VÀI THÁNH VỊNH
1) Tv 49 : nhân loại là đàn vật trong lò sát
sinh !
Cần phải đọc lại Qohelet trước khi đọc Thánh vịnh này. Cũng một
giọng chán chường, mỉa mai, đánh đổ mọi ảo ảnh rẻ tiền.
Thánh vịnh này quân bình lại với những Thánh vịnh tán dương Người
công chính. Nó gọi ta phải tìm phẩm giá con người ở chỗ khác hơn là thành công
đời này. Vĩ đại của Qohelet chính là không chấp nhận những giải đáp giả dối cho
dù ông chưa đưa ra được giải đáp nào khác. Con người đáng giá trăm nghìn lần
hơn những đồ mà nó đang trang sức. Đây là một bài học khó nuốt nhưng cần thiết
cho mọi tín hữu.
Lời nguyện của chúng ta : chớ vội nghĩ rằng
Kitô hữu chúng ta biết nhiều hơn Thánh vịnh này, rằng chúng ta đã có câu trả
lời dứt khoát. Đức Kitô khi sống kiếp làm người đã dạy ta phải tìm cho nó một ý
nghĩa. Ngài đã trải qua nhiều đau khổ mà không dùng thuốc tê, Ngài mời chúng ta
theo gương Ngài sống trọn kiếp làm người của chúng ta.
2) Thánh vịnh 93 : con luôn ở với Chúa.
Đây là lời nguyện của một tín hữu chân thành không giấu
giếm sự yếu đuối của đức tin mình. Tác giả đơn sơ nhìn nhận "vấp
chỉ một sợi tóc tôi cũng đủ ngã". Ông hoang mang vì đã cố gắng sống
hết sức lương thiện bởi vì tin Chúa và mến Chúa. Thế nhưng kết quả là ông vẫn
nghèo và bị khinh miệt đang khi những đức không tin thì cứ sung sướng phây
phây. Vậy thì tiếp tục sống lương thiện làm chi ? (c.13).
Thật đau đớn, thật khó chấp nhận ! Nhưng tác giả chợt thấy mình quá
dại khờ trước mặt Chúa, bởi ông hiểu rằng "con luôn ở với Chúa. Chúa nắm
tay con và dẫn con đi theo chương trình của Chúa, và một ngày kia Chúa sẽ đưa
con vào vinh quang của Chúa. Vậy thì con còn ước mong gì hơn nữa kia ?!".
Tới đây ta lên được tận đỉnh : tình yêu là tiếng nói cuối cùng cho
dù không thốt ra, người tín hữu không có câu giải thích, nhưng yêu thương và
biết mình được yêu thương. Bấy nhiêu thôi đủ giúp ta đứng vững, đủ giúp ta vui
mừng.