Chúng ta đã thấy phần chính của Tin Mừng Mát-thêu có thể
chia làm năm bài giảng. Bài giảng thứ
nhất (được trình bày trong các Hành trình 5-7) đặt nền móng cho sứ điệp Ki-tô
tức là Nước Trời. Để Nước Trời được lan
rộng, các công nhân (môn đệ) cần phải trình bày sứ điệp cho người khác.
Những môn
đệ đầu tiên của Đức Giê-su được gọi là các tông đồ (Mát-thêu 10:2). Từ tông đồ theo nguyên ngữ sê-mít có
nghĩa là “người được vua trao phó cho một sứ mệnh để chu toàn nhân danh ngài và
với quyền bính của ngài.” Sau khi Đức
Giê-su sống lại, Giáo Hội sơ khai sử dụng từ tông đồ để chỉ về mười hai
người đầu tiên là môn đệ thân cận của Đức Giê-su và chứng nhân về những việc
Ngài làm.
Về con số mười
hai thì còn bàn cãi. Con số ấy không
những đúng là số cộng tác viên thân cận nhất của Đức Giê-su, nhưng cũng mang ý
nghĩa biểu tượng nhắc nhớ chúng ta về mười hai chi tộc Ít-ra-en và mười hai tòa
xét xử được nói đến trong Mát-thêu 19:28.
Hai chi tiết này cũng như những trích dẫn Kinh Thánh khác, đều có ý nói
rằng con số mười hai biểu tượng cho sự cai trị toàn hảo hoặc luật lệ toàn hảo.
Khám phá
Kinh Thánh nói đến các môn đệ hoặc những người theo Đức
Giê-su. Vào thời ấy, có một số người đã
bỏ nhà cửa và gia đình để đáp lại lời gọi đi theo một người mà họ tin là người
ấy đã rao giảng chân lý. Cả trong Cựu
Ước lẫn Tân Ước, chúng ta có thể khám phá và kê ra sáu đặc điểm của những lời
gọi như thế.
1)
Lời
gọi hoàn toàn là một ân huệ; người ta
chẳng làm gì để đáng được gọi cả.
2)
Lời
gọi là độc đáo và trực tiếp đối với người được gọi.
3)
Lời
gọi giúp cho một người phát triển được hoàn toàn khả năng của họ.
4)
Lời
gọi là tiến trình đưa một người tiến sâu vào những giai đoạn đi theo mỗi ngày
một hơn.
5)
Lời
gọi đưa một người từ cái biết tới cái không biết.
6)
Lời
gọi nhắm phục vụ cho những người khác trong cộng đồng, chứ không khi nào cho cá
nhân.
Bạn hãy đọc lại Mát-thêu 4:18-22.
Trong
khoảng trống dưới đây, bạn hãy viết xuống những đặc tính của một lời gọi có thể
gặp thấy trong đoạn Tin Mừng.
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
Những điều khám phá
Lời kêu gọi ông Phê-rô và An-rê hoàn toàn là một ân
huệ. Họ chỉ đang thả lưới, chứ đâu có
làm gì khác thường để xứng đáng được kêu gọi.
Lời gọi độc
đáo và trực tiếp với từng cá nhân. Đức
Giê-su gọi ông Phê-rô, An-rê, Gia-cô-bê và Gio-an.
Lời gọi
giúp cho những người đánh cá miền Ga-li-lê này thăng tiến những khả năng mà họ
có thể đã không để ý tới.
Trong khung
cảnh được kêu gọi, họ đi từ cái biết đến không biết khi họ bỏ thuyền và cha họ
lại để đi theo Đức Giê-su tới một nơi họ không biết.
Lời gọi là
vì tha nhân trong cộng đồng. Đức Giê-su
bảo họ Ngài muốn “làm cho [họ] thành những kẻ lưới người” (câu 19). Hai cặp anh em cùng nhau trở thành những phần
tử thuộc cộng đồng Đức Ki-tô.
Khám phá
Phần giới thiệu thực sự cho bài giảng trong Mát-thêu về
việc làm môn đệ bắt đầu từ Mát-thêu chương 8.
Bạn hãy đọc Mát-thêu 8:1-9:34.
Tóm tắt lại
những biến cố được trình bày trong những đoạn Kinh Thánh này. Đánh dấu sao (*) bên cạnh những biến cố nào
là phép lạ.
8:1-4 8:28-34
8:5-13 9:1-8
8:14-15 9:9-13
8:16-17 9:14-17
8:18-22 9:18-26
8:23-27 9:27-31
9:32-34
Những điều khám phá
Bạn có ghi dấu sao bên cạnh những biến cố phép lạ sau đây
không?
* 8:1-4: chữa
người bị phong hủi;
* 8:5-13: chữa đầy
tớ của một đại đội trưởng;
* 8:14-15: chữa bà
mẹ vợ ông Phê-rô;
* 8:16-17: chữa lành
mọi kẻ ốm đau;
* 8:23-27: dẹp yên
biển động;
* 8:28-34: chữa hai
người bị quỷ ám;
* 9:1-8: chữa
người bại liệt;
* 9:18-26: cho con
gái một kỳ mục sống lại và chữa người đàn bà bị băng huyết;
* 9:27-31: chữa hai
người mù;
* 9:32-34: chữa
người câm bị quỷ ám.
Khám phá
Một số học giả Kinh Thánh đặc biệt để ý tới sự kiện mười
câu truyện phép lạ được trình bày ở đây.
Họ so sánh chúng với Mười Giới răn được trình bày trong Xuất Hành 20, để
một lần nữa cho thấy Đức Giê-su ban bố lề luật mới. Câu hỏi Mát-thêu có thực sự trình bày sự liên
hệ này hay không vẫn còn đang trong vòng tranh luận. Tuy nhiên đa số học giả đều chấp nhận lấy Cựu
Ước làm nền tảng cho những câu truyện phép lạ.
Bạn hãy đọc
I-sai-a 26:19; 29:18-19; 35:4-6;
53:4.
Bạn có nhận
thấy bất cứ liên hệ nào giữa những câu truyện phép lạ trong Mát-thêu với bốn
đoạn sách ngôn sứ I-sai-a không? Hãy
viết xuống trong khoảng trống dưới đây.
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
Những điều khám phá
I-sai-a
26:19 hứa rằng người chết sẽ sống. Chúng
ta thấy có liên hệ với việc cho con gái một kỳ mục sống lại trong Mát-thêu
I-sai-a 29
nói đến người điếc được nghe và người mù được thấy, chắc chắn liên hệ với Mát-thêu
9:27-34.
I-sai-a 35
cũng nói đến người mù được thấy, lại nói thêm về người què sẽ nhảy nhót và
người câm sẽ hát ca. Đoạn này liên hệ
với Mát-thêu 9:1-8, chữa người bại liệt.
I-sai-a
53:4 tóm tắt toàn thể công việc của Đức Giê-su được trình bày qua mười câu
truyện chữa lành. Đức Giê-su tỏ ra lòng
cảm thương của Ngài đối với nhân loại, ước ao mang lấy bệnh tật và chịu đựng
đau khổ của họ và mong muốn họ được lành mạnh.
Việc chữa
lành hiểu theo nghĩa đen là điều không thể chối cãi, nhưng những câu truyện
chữa lành còn có ý nghĩa sâu rộng hơn nữa.
Sứ điệp có nghĩa là những ai đui mù, câm điếc, què quặt và chết về
phương diện thiêng liêng, tất cả đều được mời gọi trở nên lành mạnh để có thể
nhận ra Đức Ki-tô, lắng nghe lời Ngài, công bố sứ điệp của Ngài, rao truyền Tin
Mừng và sống đời sống trong Đức Ki-tô.
Trong phần
chuẩn bị cho bài giảng về việc làm môn đệ, Mát-thêu muốn đặt nền móng cho đời
sống người môn đệ, nghĩa là đời sống người môn đệ phải được lành mạnh trước thì
họ mới có thể đem sứ điệp Đức Ki-tô đi giúp cho người khác cũng được lành mạnh.
Sự lành
mạnh của môn đệ có liên hệ với khẳng định trong Mát-thêu 5:48, “Anh em hãy nên
hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” Sự hoàn thiện này không chỉ có nghĩa là không
có tội lỗi. Từ Hy-ngữ hoàn thiện được sử
dụng ở đây có nghĩa là “nguyên vẹn” hoặc “toàn vẹn.” Những từ hoàn thiện và lành mạnh
được sử dụng nhiều lần và có thể gặp thấy trong nhiều đoạn Cựu Ước, thí dụ
Thánh Vịnh 19:8 (Lề Luật) và Ê-dê-ki-en 28:12 (các thành thị). Khi nói “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha
anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”, Đức Giê-su trong Tin Mừng Mát-thêu muốn
nói đến ý niệm hoàn thiện hiểu theo Cựu Ước.
Người môn đệ Đức Ki-tô phải là người toàn vẹn, tức là một người hoàn
toàn phù hợp với những gì nói lên thế nào là người môn đệ chân chính: đó là người không vướng mắc những đau yếu
bệnh tật thiêng liêng đã được liệt kê trong những câu truyện chữa lành.
Khám phá
Những câu truyện không liên quan với những phép lạ cũng
mang một sứ điệp quan trọng không kém.
Phép lạ dẹp yên biển động (Mát-thêu
Ôn lại
Trong Hành trình 9, bạn đã khám phá những điều sau đây:
·
Từ
tông đồ được sử dụng để ám chỉ mười hai vị nguyên thủy theo Đức Giê-su
và được sử dụng đặc biệt sau cuộc Phục sinh của Ngài.
·
Lời
gọi trong Kinh Thánh gồm có sáu đặc điểm.
·
Những
phép lạ chữa lành cho thấy người môn đệ cần phải được lành mạnh phần thiêng
liêng như thế nào.
·
Trở
nên hoàn thiện có nghĩa là trở nên toàn vẹn, như Cha trên trời là Đấng toàn
vẹn.
Sách đọc thêm
Ellis, Peter F. Matthew:
His Mind and Message, 4th printing.