Bài
giảng về Mầu nhiệm Triều Đại Thiên Chúa
(các
dụ ngôn)
Bài giảng thứ
nhất của Tin Mừng Mát-thêu đặt nền móng cho sứ điệp Ki-tô; trong bài giảng thứ hai, thợ (các môn đệ)
được quy tụ và đào tạo. Đã tới lúc phải
quảng bá sứ điệp và Mát-thêu chuẩn bị một bài giảng về kỹ thuật tốt nhất để rao
truyền lời Chúa, đó là dụ ngôn. Dụ ngôn
là một dụng cụ giảng dạy quen thuộc trong thời Đức Giê-su; các học giả Kinh Thánh gặp thấy khoảng bốn
mươi dụ ngôn trong các sách Tin Mừng.
Parable (dụ
ngôn) là do từ Hy-lạp parabole, nghĩa là “đặt bên cạnh”, và được
dùng để dịch từ Do-thái mashal, nghĩa là “giống như.” Cả hai từ mang gốc Hy-lạp và Do-thái đều nói
lên có sự so sánh. Trong bài giảng thứ
ba, Mát-thêu trình bày những so sánh giữa Nước Trời với những kinh nghiệm sống
thường ngày.
Kèm theo những dụ ngôn còn gặp thấy ba
loại so sánh khác trong sách Tin Mừng, đó là ngụ ngôn, ẩn dụ và ví dụ
(allegory, metaphor, simile). Cả ba thể
thức này rất giống với dụ ngôn và cũng là những cách Đức Giê-su dùng để trình
bày lời giảng của Ngài.
Ngụ ngôn sử dụng việc so sánh
bằng cách lấy những hình ảnh khác thay thế những hình ảnh trong chính câu
truyện.
Bạn hãy đọc Mát-thêu 13:24-30;
37-39. Trong khoảng trống dưới đây, bạn
hãy viết xuống so sánh của ngụ ngôn.
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
Bạn có nhận
thấy là người gieo hạt được so sánh với Con Người (Mát-thêu
Ẩn dụ là so sánh giữa hai cái
không giống nhau. Những đặc tính của cái
này đem so sánh và chuyển đổi sang cái kia.
Một thí dụ điển hình nhất về ẩn dụ là Mát-thêu 5:13, “Chính anh em là
muối cho đời.”
Ví dụ là so sánh bằng cách sử
dụng những từ như, như là, tựa như, giống như.
Bạn hãy đọc Mát-thêu 10:16.
Hãy để ý là trong huấn dụ cho các môn
đệ, Đức Giê-su nói Ngài sai các môn đệ đi như chiên đi vào giữa bầy sói.
Dụ ngôn không
phải khởi xuất từ Đức Giê-su. Chúng ta
gặp thấy dụ ngôn trong một số đoạn Cựu Ước, thí dụ I-sai-a 5:1-7; Ê-dê-ki-en 21:5; Ê-dê-ki-en 24:3; Huấn ca 39:2-3; Thánh vịnh 78:2. Thường dụ ngôn không rõ ràng ngay, nhưng nó
đòi người nghe phải khám phá ra ý nghĩa.
Trong khi dụ ngôn mời gọi người nghe phải thảo luận thì nó cũng đòi hỏi
người lắng nghe phải tìm hiểu ý nghĩa sâu xa của nó (Huấn ca 39:3).
Một số dụ ngôn trong Cựu Ước được
trình bày giống như những bí ẩn chỉ một số ít người đặc biệt mới hiểu được
(Huấn ca 39:2-3). Nhưng điều đó không có
nghĩa là tất cả các dụ ngôn đều không hiểu được đối với mọi người trừ một ít
người mà thôi. Thực ra Đức Giê-su đã sử
dụng dụ ngôn khi nói với mọi kẻ theo Ngài.
Đối với Đức Giê-su, dụ ngôn là phương tiện để đối thoại giữa Ngài với
những ai theo Ngài. Ngài trình bày các
dụ ngôn để bày tỏ quan điểm của Ngài.
Ngài hy vọng thính giả của Ngài sẽ được khích lệ và đem sứ điệp dụ ngôn
vào trong cuộc sống của họ. Đức Giê-su
cũng biết sẽ có sự chống đối làm ngăn trở cuộc đối thoại ấy như Ngài đã thường
chấp nhận, bởi vì một số dụ ngôn của Ngài làm cho người ta phải bàng hoàng lo
sợ.
Khi so sánh các
dụ ngôn trong Tin Mừng Nhất lãm, chúng ta nhận thấy các tác giả không quan tâm
mấy tới những chi tiết và đâu là điểm chính của dụ ngôn cho bằng cứ trung thực
với sứ điệp của câu truyện. Các tác giả
tùy nghi áp dụng dụ ngôn vào những đề tài đặc biệt trong sách Tin Mừng của các
ngài.
Bạn hãy đọc Mát-thêu 13:31-32 và Lu-ca
13:18-19. Trong khoảng trống dưới đây,
bạn hãy so sánh dụ ngôn và đề tài đặc biệt giữa Mát-thêu và Lu-ca. (Bạn có thể định vị trí của dụ ngôn bằng cách
đọc những câu trước đó và đoạn đặc biệt sau đó.
Việc này sẽ giúp bạn dễ so sánh hơn.)
Mát-thêu 13:31-32
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
Lu-ca 13:18-19
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
Cả hai dụ ngôn
đều nói về Nước Trời. Đặt dụ ngôn của
Mát-thêu trong khung cảnh bài giảng về mầu nhiệm Nước Trời sẽ giúp chúng ta
nhận thấy ngài muốn cho người ta biết về cõi rộng lớn của Nước Trời. Còn dụ ngôn của Lu-ca đi sau một câu truyện
về hối cải (một đề tài quen thuộc trong sách Tin Mừng của ngài). Khi tín hữu thống hối tội lỗi thì họ được
thoát khỏi mọi yếu đau và Nước Trời ở gần họ hơn. Như vậy, tuy cùng một câu truyện, nhưng khi
kể lại Lu-ca muốn nhấn mạnh tới một điểm khác.
Cuối cùng, cả hai đều tự do thay đổi
chi tiết trong câu truyện: hạt cải không
phải là hạt nhỏ nhất trong các hạt giống;
hạt cải không mọc thành cây lớn, nhưng là khóm rau; chim trời không làm tổ ở khóm rau, mà chỉ ẩn
nấp trong đó và ăn hạt cải thôi.
Chúng ta có thể
ngạc nhiên khi thấy phần giới thiệu dẫn vào bài giảng về mầu nhiệm Nước Trời
bắt đầu không phải bằng một dụ ngôn, nhưng lại bằng chi tiết nói về ông Gio-an
Tẩy giả. Trong Tin Mừng Mát-thêu, ông
Gio-an giữ một vai trò ngôn sứ độc đáo và thể hiện lời tiên tri của ngôn sứ
Ma-la-khi trong Cựu Ước: “Này Ta sai
ngôn sứ I-sai-a đến với các ngươi, trước khi Ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng
đại và kinh hoàng” (Ma-la-khi 3:23). Do
đó, nếu Mát-thêu chuẩn bị cho bài giảng bằng dụ ngôn, mà dụ ngôn sẽ là phương
tiện chính Đức Giê-su sử dụng để loan báo Nước Trời, thì thật là hợp lý khi
chứng thực rằng vị tiền hô của Đấng Mê-si-a (tức là ông Gio-an Tẩy giả) quả
nhiên đã đến rồi. Vậy phần giới thiệu
này cho thấy sự khác biệt giữa hai tiếng nói ngôn sứ: những tiếng nói ngôn sứ thời trước khi Đức
Giê-su đến và tiếng nói của chính Đức Giê-su.
Bạn hãy đọc
Mát-thêu 11:11-24.
Cao trọng như ông
Gio-an (Mát-thêu
Mát-thêu cho cộng đoàn ngài biết một
số người sẽ chối từ sứ điệp của cả ông Gio-an lẫn Đức Giê-su. Những phần tử này trong cộng đoàn sống thái
độ mâu thuẫn trong đức tin, họ chối bỏ ông Gio-an vì ông sống khổ hạnh, nhưng
đồng thời cũng chối bỏ Đức Giê-su mà họ cho là người tham ăn tục uống chỉ vì
Ngài ăn uống với những người tội lỗi.
Mát-thêu cam đoan rằng “Đức khôn ngoan được chứng minh bằng hành động”
(Mát-thêu
Bạn hãy đọc
Mát-thêu 11:25-30.
Đây có thể là câu
trả lời cho vấn đề Mát-thêu đưa ra. Đức
khôn ngoan nằm ở chỗ nhận ra được quan hệ giữa Đức Giê-su và Chúa Cha. Người khôn ngoan là người tin rằng “không ai
biết Người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết Chúa Cha, trừ Người Con và
kẻ mà Người Con muốn mặc khải cho.” Đây
cũng là tâm điểm của sứ điệp Mát-thêu, một sứ điệp đặt ra câu hỏi: chúng ta có thể tìm được ở đâu sự hiện diện,
giáo huấn và quyền bính của Thiên Chúa?
Trả lời là chúng ta tìm thấy nơi Đấng Em-ma-nu-en, Con Thiên Chúa, Đức
Ki-tô.
Mát-thêu tiếp tục cảnh giác những ai
chối từ sứ điệp Đức Ki-tô là họ phải chịu trách nhiệm về hành động của họ. Vì tiếp nhận Đức Ki-tô sẽ đem lại sự sống,
còn chối bỏ sẽ đưa tới cái chết. Chúng
ta sẽ phải đối diện với những hậu quả hành động của mình trong ngày phán
xét. Mặc dù theo địa lý các thành
Kho-ra-din, Bét-xai-đa và Ca-phác-na-um là nhà của Đức Giê-su, nhưng chúng cũng
biểu tượng cho sự kiện ngay cả những người sống đương thời với Đức Giê-su lịch
sử vẫn có thể hiểu lầm hoặc chối bỏ sứ điệp của Ngài. Còn tín hữu chân chính sẽ trân trọng ấp ủ sứ
điệp của Đức Giê-su.
Bạn hãy đọc
Mát-thêu 12.
Chương 12 bắt đầu
với hai cuộc tranh luận về ngày sa-bát.
Trong cuộc tranh luận thứ nhất, các môn đệ bị tố cáo đã bứt lúa và chuẩn
bị đồ ăn vào ngày sa-bát là hai điều trong ba mươi chín việc làm bị cấm theo
tài liệu giải thích luật ngày sa-bát do các thầy ráp-bi. Hành động của các môn đệ cũng tương tự như
hành động kể trong sách Đệ nhị luật 23:25;
tuy nhiên, đoạn Cựu Ước này không nói đến ngày sa-bát. Điều những người Pha-ri-sêu phàn nàn dựa trên
Xuất Hành 34:21 dạy người ta phải nghỉ ngơi ngày thứ bảy. Đức Giê-su trình bày ba lý do để đối
lại. Chứng lý thứ nhất dựa vào câu
truyện trong 1 Sa-mu-en 21:1-6 kể lại vua Đa-vít và thuộc hạ ăn bánh trong
thánh điện. Câu truyện này không nói đến
ngày sa-bát. Chứng lý thứ hai của Đức
Giê-su lấy từ Lê-vi 24:8 cho phép các tư tế dọn bánh đặt trước nhan Đức Chúa
vào ngày sa-bát. Chứng lý thứ ba của Đức
Giê-su và cũng là chứng lý mạnh mẽ nhất dựa trên Hô-sê 6:6: “Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích
được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu.” Bản văn trong Hô-sê cũng được dùng trong
Mát-thêu
Cuộc tranh luận thứ hai về ngày sa-bát
xảy ra chung quanh việc chữa lành cho một người bị bại tay. Theo giải thích do các thầy ráp-bi, việc chữa
lành được phép làm vào ngày sa-bát trong những trường hợp tối khẩn khi mạng
sống bị nguy hiểm. Theo diễn tả về người
bại tay trong câu truyện này, tình trạng anh ta chỉ như là tật bẩm sinh và
không có gì đe dọa mạng sống. Đức Giê-su
trả lời bằng một chứng lý cũng lấy từ những tài liệu giải thích của các thầy
ráp-bi cho phép trong ngày sa-bát được đem các con vật ra khỏi những bẫy sập có
thể làm hại chúng. Vậy chứng lý của Đức
Giê-su là nếu luật cho phép cứu loài vật, thì với việc cứu con người lại càng
phải được phép hơn.
Khi đặt những biến cố trong cả hai câu
truyện vào ngày sa-bát, Mát-thêu đang phải đối phó với hai vấn đề trong thời
ngài: ưu tư của các Ki-tô hữu gốc
Do-thái đối với việc giữ ngày sa-bát, và chứng lý thần học phát biểu Đức Giê-su
cao trọng hơn ngày sa-bát.
Các học giả Kinh Thánh đều cùng đồng ý
rằng cộng đoàn Mát-thêu đã sâu nặng gốc rễ truyền thống Do-thái. Những Ki-tô hữu gốc Do-thái này hầu như tất
cả đều tuân giữ truyền thống về ngày sa-bát theo Lề Luật Do-thái. Những trích dẫn từ các tài liệu của các thầy
ráp-bi chứng tỏ sự kiện đã có rất nhiều tranh luận đối nghịch ngay trong những
cộng đoàn Do-thái về những việc gì được phép làm trong ngày sa-bát. Thí dụ, nhóm Ét-xê-ni chủ trương giải thích
rất hẹp, nếu con vật lăn xuống hố vào ngày sa-bát thì cứ để cho nó chết
luôn. Còn những tài liệu của các thầy
ráp-bi lại đưa ra những giải thích phóng khoáng hơn. Có lẽ Mát-thêu phải đối phó với tình trạng
mục vụ cho cộng đoàn ngài nên đã chọn nhấn mạnh đến cách giải thích theo ngôn
sứ Hô-sê: “Ta muốn tình yêu...” (Hô-sê
6:6).
Mát-thêu 12:8 nói rằng “Con Người làm
chủ ngày sa-bát.” Mát-thêu đặt lời tuyên
bố này sau khi nhấn mạnh Thiên Chúa muốn lòng nhân từ. Đối với Mát-thêu, chứng lý sau cùng là quyền
bính của chính Đức Giê-su. Khi tự xưng
là Chúa của ngày sa-bát, Ngài liên quan mình với Thiên Chúa, tức Đức Chúa của
ngày sa-bát đã được người ta nhìn nhận.
Tài liệu Kinh Thánh và tài liệu của các thầy ráp-bi đều nói rõ ràng chỉ
có Thiên Chúa mới làm việc trong ngày sa-bát.
Hơn nữa, công việc của Thiên Chúa trong ngày sa-bát là ban cho hoặc cất
đi sự sống của con người.
Trong Hành trình
11, bạn đã khám phá những điều sau đây:
·
Dụ ngôn là phương tiện chính Đức Giê-su dùng để giảng dạy.
·
Dụ ngôn đã là một hình thức giảng dạy quen thuộc trong Cựu
Ước và những nơi khác.
·
Kỹ thuật của dụ ngôn mời gọi và khuyến khích người nghe phải
khám phá ra sứ điệp dấu ẩn trong bóng tối của câu truyện.
·
Môn đệ Đức Giê-su vì được chia sẻ ánh sáng ngôn sứ của Ngài
nên còn cao trọng hơn cả ông Gio-an Tẩy giả.
·
Đức Giê-su là Đấng tỏ ra cho chúng ta biết Chúa Cha.
·
Cũng như Chúa Cha, Đức Giê-su có thể làm công việc của Thiên
Chúa trong ngày sa-bát.
Boucher,
Madeleine I. The Parables, New
Testament Message, vol. 7.
Freed, Edwin
D. The New Teatament: A Critical Introduction.