Vào đầu năm 1999 tại Tây Âu đã xảy ra một biến cố kinh tế quan trọng: việc hợp nhất tiền tệ của các nước thành viên của Cộng Ðồng Kinh Tế Âu Châu (European Economic Community - Communauté Economique Européenne). Dự tính này đã bắt đầu trong thập niên 80 dưới sự thúc đẩy của Ðức và Pháp. Kể từ ngày 01.01.1999, 11 nước thành viên (Ðức, Pháp, Ý, Hà Lan, Phần Lan, Áo, Bỉ, Luxembourg, Ái Nhĩ Lan, Tây Ban Nha và Bồ Ðào Nha) đã cùng chấp nhận một đồng tiền chung gọi là euro, tổ chức có danh hiệu chính thức là Cộng Ðồng Tiền Tệ Âu Châu (European Monetary Union - Union Monétaire Européenne). Chúng ta cũng nên biết Cộng Ðồng Kinh Tế Âu Châu hiện nay gồm 15 nước thành viên: Anh và Ðan Mạch chưa muốn nhập vào Cộng Ðồng Tiền Tệ Âu Châu, còn Thụy Ðiển và Hy Lạp chưa đủ tiêu chuẩn tài chánh để vào.
Cuối năm 1998, chính phủ của các nước thành viên đã phối hợp với Ngân Hàng Trung Tâm Âu Châu (European Central Bank - Banque Centrale Européenne, vai trò tương đương với Federal Reserve System của Mỹ) để quyết định giá trị vĩnh viễn tiền của mỗi nước trong tương quan với tiền euro. Tương quan này dựa trên tương quan trên thị trường cuối năm 1998 giữa tiền của các nước thành viên và đồng écu (european currency unit). Tiền écu là tiền tổng hợp các tiền của những nước thành viên của Cộng Ðồng Kinh Tế Âu Châu, xác định theo sự quan trọng kinh tế của mỗi nước; tiền écu chỉ được xử dụng bởi các cơ quan chính phủ và các ngân hàng, lãnh vực rất giới hạn. Ðồng écu hết được xử dụng kể từ ngày 01.01.1999, một écu đổi thành một euro. Nói cách khác, tiền euro thay tiền écu, nhưng lãnh vực được xử dụng rộng lớn hơn, bao gồm mọi hoạt động kinh tế của các nước thành viên. Nó giữ vai trò như đồng tiền của một nước, nhưng có giá trị chính thức trong 11 nước thành viên kể trên. Giá trị vĩnh viễn tiền mỗi nước so với tiền euro đã được công bố sau trưa ngày 31.12.1998:
1 EUR = 13.7603 ATS (tiền Áo)
1 EUR = 40.3399 BEF (tiền Bỉ)
1 EUR = 1.95583 DEM (tiền Ðức)
1 EUR = 166.386 ESP (tiềnTây Ban Nha)
1 EUR = 5.94573 FIM (tiền Phần Lan)
1 EUR = 6.55957 FRF (tiền Pháp)
1 EUR = 0.787564 IEP (tiền Ái Nhĩ Lan)
1 EUR = 1936.27 ITL (tiền Ý)
1 EUR = 40.3399 LUF (tiền Luxembourg)
1 EUR = 2.20371 NLG (tiền Hà Lan)
1 EUR = 200.482 PTE (tiền Bồ Ðào Nha)
Giá trị này không phải là giá thị trường ngày 31.12.1998, nhưng là giá trị trung bình trong thời gian cuối năm 1998. Chúng ta cũng nên biết ngày 04.01.1999, trên thị trường tài chánh 1 EUR trị giá quãng 1.179 USD (dollar Mỹ), 133.68 JPY (yen Nhật), 0.713 GBP (pound Anh).
Một thời gian chuyển tiếp 3 năm đã được ấn định ( 01.01.1999 - 01.01.2002 ) nhằm mục đích cho công dân mỗi nước quen với tiền euro và các ngân hàng, xí nghiệp có thời giờ để thích nghi, đặc biệt những áp dụng điện toán liên quan tới tiền tệ như lãnh vực quản trị tài chánh, kế toán ... Trong thực tế, giai đoạn này sẽ diễn biến như sau: kể từ ngày 01.01.1999, euro thay thế tiền của các nước thành viên trên các thị trường tài chánh (foreign exchange market, securities market, futures market... - marché des changes, marché des titres, marché à terme...), euro cũng có thể được xử dụng qua các phương tiện như carte, chèque, chuyển tiền ngân hàng (bank money- monnaie scripturale); việc xử dụng này không có tính cách bắt buộc. Tiền giấy và tiền kim khí (fiduciary currency - monnaie fiduciaire) của mỗi nước vẫn tiếp tục được xử dụng. Kể từ ngày 01.01.2002, tiền euro (bank money - monnaie scripturale) sẽ thay thế tiền của mỗi nước, tiền euro bằng giấy và kim khí sẽ được phát hành xử dụng song song với tiền của mỗi quốc gia. Người dân mỗi nước phải đổi tiền giấy và tiền cắc quốc gia sang tiền euro trong thời gian này tại các ngân hàng. Từ ngày 01.07.2002, việc đổi tiền vẫn có thể được, nhưng phải tới đổi trực tiếp tại Ngân Hàng Trung Tâm mỗi nước; đồng tiền duy nhất của 11 nước thành viên sẽ là đồng euro dù trả bằng bất cứ phương tiện nào. Cũng nên nhấn mạnh là việc đổi tiền không có giới hạn về số lượng, có từng nào đổi từng đó, nhưng nếu đổi nhiều tiền giấy sẽ gây chú ý cho nhà thuế hay cảnh sát để tìm ra nguyên nhân tại sao nhiều tiền mặt (buôn lậu, trốn thuế...). Mặt khác, dân chúng Âu Tây trả tiền những tiêu xài phần lớn bằng cartes bancaires, chèques; tiền mặt chỉ để thanh toán những chi tiêu ít quan trọng.
Tại sao đồng euro được 11 nước Tây Âu chấp nhận thay tiền nước mình? Những lý do chính có thể được góm tắt trong hai khía cạnh đối nội và đối ngoại của Cộng Ðồng Tiền Tệ Âu Châu:
Khía cạnh đối nội liên quan trực tiếp đến Thị Trường Kinh Tế Âu Châu: từ những thập niên 50 và 60, các chính phủ của các nước Tây Âu đã có những chính sách đoàn kết nhằm tạo nên một thị trường kinh tế chung. Thị trường này có tên chính thức là Cộng Ðồng Kinh Tế Âu Châu. Những thủ tục kiểm soát ở biên giới cũng như những thuế má đóng trên hàng hoá xuất nhập cảng, hoặc những kiểm soát về đầu tư tài chánh đã được dần dần xoá bỏ. Ðiều này làm sự trao đổi kinh tế giữa các nước thành viên gia tăng rất nhiều, các xí nghiệp sản xuất không phải chỉ nhắm thị trường một nước mà nhắm cả Thị Trường Kinh Tế Âu Châu. Vấn đề tiền tệ phức tạp giữa các nước thành viên là một trở ngại giới hạn sự trao đổi kinh tế này. Việc chấp nhận đồng euro là một nỗ lực của các nước thành viên nhằm tạo nên một thị trường mà trong đó các xí nghiệp không còn phải lo ngại về vấn đề lên xuống của tiền tệ. Thí dụ một xí nghiệp Pháp sản xuất xe hơi, một phần nguyên liệu chế xe phải mua của các hãng Ý và Tây Ban Nha; xe hơi sản xuất ra một phần sẽ bán bên Ðức và Bỉ . Giá trị tiền franc lên xuống so với tiền Ý, Tây Ban Nha, Ðức và Bỉ theo thị trường. Xí nghiệp khó có thể nhìn trước số lời lãi nếu vần đề tiền tệ không nhất định. Những chuyển động đầu tư tài chánh dễ dàng giúp việc đầu tư của các xí nghiệp phát triển. Với đồng euro, giá cả thị trường của hàng hoá trở thành rõ ràng hơn giữa các nước thành viên, nó làm nổi bật những chênh lệch về giá cả hàng hoá, tài chánh và nhân lực của từng nước hay từng vùng, sự cạnh tranh dễ dàng giữa các xí nghiệp làm giảm bớt từ từ những chênh lệch này. Nói tóm lại, tiền euro là một bước tiến quan trọng hợp lý trong nỗ lực tạo nên một thị trường kinh tế rộng lớn không trở ngại biên giới quốc gia. Ðối với người dân đồng euro giúp việc di chuyển dễ dàng giữa các nước thành viên mà không cần phải lo đến việc đổi tiền. Một đồng euro ở Pháp sẽ được chấp nhận trong 10 nước thành viên trung quanh. Nếu euro sẽ được thế giới tin tưởng như dollar Mỹ thì việc đi du lịch trên thế giới sẽ tiện lợi hơn. Một tờ báo Pháp đăng một câu chuyện cười phản ảnh tình trạng tiền tệ trước ngày 01.01.1999 như sau: một người Pháp đi một vòng du lịch trong 15 nước của Cộng Ðồng Kinh Tế Âu Châu, trong túi anh có 1.000 francs, đi tới đâu anh cũng có người nhà đón tiếp chẳng phải trả đồng nào, nhưng đi đến nước nào anh cũng đổi ra tiền nước đó. Lúc trở về Pháp, tuy chẳng tiêu gì, trong túi anh chỉ còn lại 600 francs.
Tuy nhiên khi một nước từ bỏ đồng tiền của mình, một số dân chúng cảm thấy như một phần văn hoá của mình bị mất, những chính sách của chính phủ về kinh tế và xã hội không còn được tự do, mà phải theo đường lối chung của Cộng Ðồng Tiền Tệ Âu Châu, với những hậu quả như sự cạnh tranh sẽ mãnh liệt hơn, các xí nghiệp quốc gia có thể rời bỏ nơi sản xuất mắc mỏ và thiết lập ở những nước rẻ hơn, viễn tượng thất nghiệp làm một phần dân chúng lo ngại. Nói chung nguyên tắc độc lập quốc gia bị đụng tới, các đảng phái chính trị không đồng ý kiến với nhau. Các cuộc chưng cầu dân ý ở từng nước về vấn đề có chấp nhận euro hay không cho thấy kết quả tích cực chỉ hơn 50% không nhiều. Mặc dù những vấn đề trên, những lợi điểm của euro về mặt kinh tế và có thể về mặt chính trị lâu dài đã thúc đẩy các nước thành viên trên con đuờng hợp nhất tiền tệ.
Việc hợp nhất tiền tệ này là một giai đoạn quan trọng, nằm trong cả một quá trình lâu dài bắt đầu sau Ðệ Nhị Thế Chiến nhằm tạo nên một vùng Âu Châu hợp nhất về kinh tế, xã hội và chính trị sau những kinh nghiệm đau đớn của hai cuộc thế chiến 1914-1918 và 1939-1945. Ðường lối này nếu thành công có lẽ sẽ được bắt chước ở một số vùng trên thế giới, chẳng hạn như vùng Ðông Nam Á trong viễn tượng lâu dài. Dự tính của các nước trong hội ASEAN nhằm tạo nên một thị trường thương mại chung kể từ năm 2015 không thể có nếu kinh nghiệm của Cộng Ðồng Kinh Tế Âu Châu đã không mang lại những hậu quả tích cực cho các nước thành viên Tây Âu.
Sách viết về tiền euro có khá nhiều, phần lớn chuyên môn về hậu quả của tiền euro trên thị trường tài chánh theo nghĩa rộng, trên những vấn đề quản trị và kế toán, sự chuẩn bị của những ngân hàng, xí nghiêp. Nhưng nếu muốn hiểu biết về quá trình thành lập đồng euro, xin nên đọc cuốn'L'Euro' của ông Yves-Thibault de Silguy, nhà xuất bản 'Le livre de poche'; ông là membre de la Commission européenne, chargé des affaires Economiques, Monétaires et Financières (nguyên văn tiếng Pháp cho rõ ràng) cho nên rất tường tận về khía cạnh này.
Paris Ðông 2000
Nguyễn Văn Thành