HÀNH HƯƠNG
Lm Phêrô Trần Đình, Dalat
Dẫn nhập
Đối với Hội Thánh Việt Nam, năm nay chẳng
những là “năm truyền giáo” nhưng còn là “năm thánh”.
Một việc đạo đức truyền thống của năm thánh
là hành hương. Vì thế, chúng ta tìm hiểu khái quát về “hành hương” để hiểu rõ
hơn ý nghĩa của nó, ngõ hầu việc đạo đức này sẽ đem lại nhiều lợi ích thiêng
liêng cho chúng ta.
Bài này sẽ trình bày 4 điểm :
1.
Ý nghĩa và mục đích của hành hương;
2.
Hành hương trong Cựu ước;
3. Hành hương trong Tân Ước;
4.
Ý nghĩa thần học của hành hương.
I. Ý NGHĨA VÀ MỤC ĐÍCH CỦA HÀNH HƯƠNG
1. Ý nghĩa của hành hương
Hành hương là một phong tục có từ rất lâu,
trước khi Kinh Thánh được biên soạn. Đó là cuộc lữ hành của các tín hữu về một
nơi được thánh hiến do một cuộc hiển linh hoặc do hoạt động của một vị giáo
chủ.
2. Mục đích của hành hương
a/ Các tín hữu tới các nơi được thánh hiến để
dâng lời cầu nguyện trong một khung cảnh đặc biệt thích hợp.
b/ Và vì là giai đoạn cuối cùng của cuộc hành
hương, nên việc kính viếng nơi thánh thường được chuẩn bị bằng những nghi thức
thanh tẩy và kết thúc trong một buổi nhóm họp làm cho các tín hữu ý thức họ
thuộc cộng đoàn tôn giáo nào.
Như thế, hành hương là một cuộc tìm kiếm
Thiên Chúa và gặp gỡ Người trong một khung cảnh phụng tự.
II. HÀNH HƯƠNG TRONG CỰU ƯỚC
1. Hướng về những thánh điện cổ.
Trước khi thống nhất các thánh điện nhờ cuộc
cải cách của Giosias, tại Giêrusalem có nhiều trung tâm hành hương, nhiều nơi
thiêng gắn liền với lịch sử thánh, nơi dân chúng đến để tìm kiếm Thiên Chúa.
Lịch sử các tổ phụ chỉ thuật lại một cuộc
hành hương duy nhất (St 35, 1-7), nhưng khi trình bày những cuộc thần hiển với
Abraham ở Sikem hoặc ở Mămbrê (St 12, 6t ; 18, 1), với Isaac ở Bersabê (St 26,
24), với Giacob ở Bêtel hoặc ở Penuel (St 28, 12 ; 35, 9 ; 32, 31), các nhà
tường thuật tìm cách hợp thức hoá việc chấp nhận những thánh điện của dân
Canaan, vì chính cha ông cũng đã sử dụng. Họ cắt nghĩa những đặc tính của thánh
điện này : có các bàn thờ (St 12, 7t ; 13, 4 ; 26, 25 ; 33, 20), bia (St 28,
18), các cây thiêng (St 12, 6 ; 18, 1 ; 21, 33…).Họ thiết lập các nghi thức mà
những người hành hương về sau này sẽ thực hành : cầu khẩn tên Giavê dưới nhiều
danh hiệu (St 12, 8 ; 13, 4 ; 21, 33 ; 33, 20), xức dầu (St 28, 18 ; 35, 14),
thanh tẩy (St 35, 2tt), thuế thập phân (St 14, 20 ; 28, 22).
Sau đó người ta nhận thấy trong một thời gian
rất lâu vẫn còn những buổi họp tôn giáo và rồi những cuộc hành hương đến những
thánh điện quan trọng khác nhau như Sikem (Gios 24, 25), Bêtel (1Sm 10, 3 nói
rõ những người hành hương ; 1V 12, 29tt ; Am 5, 5 ; 7, 13), Bersabê (Am 5, 5).
Chúng ta cũng thấy xuất hiện những thánh điện Ophra (Qa 6, 24) và Sorêa là nơi
tưởng nhớ những lần thiên thần của Giavê hiện ra, thánh điện Silô, nơi để hòm
bia và cũng là nơi mỗi năm người ta cử hành một ngày lễ của Giavê (Qa 21, 19).
Có lẽ Elqana đã cùng với các bà vợ của ông “lên đền” trong dịp lễ này (Is 1,
3).
Những câu chuyện cổ còn thuật lại các buổi
hội họp tôn giáo ở Mispa (1Sm 7, 5t), ở Gilgal (1Sm 11, 15), ở Gabaon (1V 3,
4), ở Đan (1V 12, 19). Nhưng từ khi Đavít rước hòm bia vào Giêrusalem (2Sm 6)
và từ khi Salomon xây cất đền thờ (1V 5-8), những cuộc hành hương về Giêrusalem
giữ một tầm quan trọng vượt bực (1V 12, 27).
Từ lâu, luật của giao ước (Xh 23, 14-17) bắt buộc mọi nam công dân
phải trình diện trước Giavê mỗi năm ba lần. Luật này phải được thi hành vào các
dịp lễ trong các thánh điện trên toàn quốc.
2. Hướng về thánh điện duy nhất
Cuộc cải cách của Giosias do Ezekias phác hoạ
(2V 18, 4.22 ; 2 Ks 29-31) huỷ bỏ những thánh điện địa phương và chỉ định cử
hành lễ Vượt Qua (2V 23 ; 2 Ks 35) và hai ngày lễ khác là Lễ Ngũ Tuần và Lễ Lều
ở Giêrusalem (Đnl 16, 1-17).
Cuộc cải cách này tìm cách tụ tập dân chúng
trước Thiên Chúa của họ và đề phòng họ khỏi lây nhiễm việc tôn thờ ngẫu tượng
địa phương.
Sau thời lưu đầy, Đền thờ Giêrusalem từ nay
sẽ là thánh điện duy nhất. Chính nơi đây, vào những dịp đại lễ trong năm, khách
hành hương từ khắp xứ Palestina và cả đến những kẻ tản mác càng ngày càng đông
ở ngoại quốc cũng đều trẩy về.
Những Thánh vịnh lên đền (Tv 120-134) diễn tả
lời cầu nguyện và tâm tình của khách hành hương : họ trìu mến nhà Chúa và thành
thánh; họ tin, thờ lạy và vui mừng được thực hiện sự hiệp thông sâu xa của dân
Chúa trong buổi hội họp phụng vụ.
Kinh nghiệm này thường hay xảy ra ở Israel,
nó đem lại cho hi vọng cánh chung một ý nghĩa đặc biệt : Israel quan niệm “ngày
cứu rỗi” theo như những cuộc hành hương, giống cuộc hội họp của dân tộc và sau
cùng là của cả lương dân (Is 2, 2-5; 60 ; 66, 18-21 ; Mik 7, 12 ; Zêc 14, 16-19
; Tb 13, 11).
III. HÀNH HƯƠNG TRONG TÂN ƯỚC
1/ Về điểm này Tân Ước không đem lại điều gì
mới mẻ.
Cũng như dân chúng, vào năm 12 tuổi, Đức
Giêsu “lên” đền thờ Giêrusalem với cha mẹ để tuân giữ lề luật (Lc 2, 41t), và
trong thời gian thi hành sứ mệnh, Người còn “lên” đó vào những dịp lễ khác nữa
(x. Ga 2, 13 ; 5, 1 ; 7, 14 ; 10, 22t ; 12, 12).
Chính Thánh Phaolô, hơn 25 năm sau ngày Chúa
chịu nạn, vẫn giữ việc hành hương vào dịp lễ Ngũ Tuần (Cv 20, 16 ; 24, 11).
2/ Điều mới mẻ là : Đức Giêsu loan báo đền
thờ sẽ bị tàn phá (Mc 13, 2). Hơn nữa, với sự sống lại của Đức Giêsu, từ nay
trọng tâm việc phụng tự của các tín hữu là chính con người vinh quang của
Người, “Đền thờ mới” và duy nhất (Ga 2, 19-21 ; 4, 21-23).
Bởi đó, chính đời sống đức tin của dân Thiên
Chúa được diễn tả như cuộc hành hương cánh chung đích thực (2C 5, 6tt ; Dt 13,
14). Cuộc hành hương này là cuộc xuất hành do Đức Giêsu hướng dẫn (Cv 3, 15 ;
5, 31 ; Dt 2, 10). Mục đích của nó
chính là những thực tại thiêng liêng : núi Sion, Giêrusalem trên trời, cuộc hội
họp của những người con đầu lòng được ghi khắc trên trời (Dt 12, 22 tt) và một
đền thờ là chính “Chúa, Thiên Chúa toàn năng… và là Con Chiên” (Kh 21, 22-26).
Vì quá gắn chặt với lịch sử nên Hội Thánh
không từ chối giá trị những cuộc hành hương đến những nơi ngày xưa Đức Kitô đã
ơ,û hoặc đến những nơi mà Người đã hiện ra với các thánh. Hội Thánh coi những
cuộc tụ họp tại những nơi ghi dấu hoạt động của Đức Kitô như một dịp để các tín
hữu hiệp thông trong đức tin và kinh nguyện. Hơn nữa, nhờ những dịp ấy, Hội
Thánh sẽ tìm cách nhắc nhở cho họ biết họ đang được Chúa hướng dẫn trên đường
tiến về Người.
IV. Ý NGHĨA THẦN HỌC CỦA HÀNH HƯƠNG
Để kết thúc bài này, chúng ta rút ra những ý
nghĩa thần học của hành hương từ những gì đã trình bày trên đây.
1/ Ý nghĩa chính yếu của mọi cuộc hành hương
là gặp gỡ Thiên Chúa trong đền thờ, đặc biệt là những nơi ghi dấu sự hiện diện
đặc biệt của Người.
Đành rằng, đền thờ nào cũng thiêng thánh,
cũng là nơi ta có thể gặp Chúa, nhưng vẫn có những nơi đặc biệt gợi lên trong
chúng ta những tâm tình đạo đức mãnh liệt hơn.
Hành hương đến Bêthel, người ta không thể
không nghĩ đến việc Giacop đã vật lộn với Thiên Chúa đến hừng đông, để đời sống
đạo của họ sẽ nỗ lực và phấn đấu nhiều hơn.
Hành hương đến mộ của hai Thánh Phêrô và
Phaolô, lẽ nào không thúc bách chúng ta sống đạo cách anh hùng?
Hành hương về linh địa Lavang, làm sao ta
không nghĩ đến việc Đức Mẹ bế Chúa Con đến thăm dân đang trốn tránh cuộc bắt
đạo ác liệt, để thêm lòng tin tưởng và cậy trông ?.
Chính Đức Giêsu phục sinh cũng đã chọn
Galilê, nơi của bao kỷ niệm, để “hò hẹn” với các môn đệ thân yêu của Người (x.
Mc 16, 7) chứ không phải nơi nào khác.
2/ Dầu vậy, nếu Đức Giêsu đã muốn phá đền thờ
bằng gỗ đá để xây dựng một ngôi đền thờ mới và duy nhất (x. Ga 2, 19-21; 4,
21-23), thì hành hương phải là dịp nhắc nhở cho chúng ta biết thờ phượng Chúa
cách chân thật : “Này chị, hãy tin tôi : đã đến giờ các người thờ phượng Chúa
Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem nữa” (Ga 4, 21).
Như vậy, hành hương đích thực chính là bước
theo Đức Kitô : “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với
Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6).
3/ Dịp hành hương cũng là cơ hội giúp chúng
ta, trong thinh lặng và cầu nguyện, tra vấn ý nghĩa của cuộc đời, để hiểu rằng
thân phận con người là lữ thứ :
“Ở trên đời, con là thân lữ khách” (Tv 119
(118), 19). Dân Cựu ước đã cảm nghiệm như vậy.
Tân Ước đã đón nhận ý tưởng hành hương bằng
cách kitô hoá nó : xem cuộc đời kitô hữu như cuộc hành trình đi về quê hương
đích thực là Nước Trời (x. Dt 11, 13-16 ; 1Pr 1, 17).
Chỉ có Chúa mới thật sự là đích điểm cuộc đời
người kitô hữu, là sự yên nghỉ của chúng ta :
“Lạy Chúa, Ngài đã đã dựng nên chúng con
hướng về Ngài, tâm hồn chúng con xao xuyến bao lâu chưa được nghỉ yên trong
Ngài”. (Thánh Âu Tinh)
“Như nai rừng mong mỏi tìm đến suối nước
trong,
hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy
Chúa.
Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa
Trời hằng sống.
Bao giờ con được đến, vào bệ kiến Tôn Nhan
?”.
(Tv 42, 2-3)
4/ Vì thế, hành hương mang đặc tính cánh
chung, là cuộc xuất hành do Đức Giêsu hướng dẫn (Cv 3, 15 ; 5, 31; Dt 2, 10),
mục đích là những thực tại thiêng liêng : Giêrusalem trên trời (Dt 12, 22tt) và
một đền thờ là chính “Chúa, Thiên Chúa toàn năng và là Con Chiên” (Kh 21,
22-26).
Kết luận
Hành hương nếu được hiểu đúng đắn sẽ có tác
dụng lớn lao trong việc xây dựng đời sống đạo. Người tín hữu hiểu cuộc đời mình
là lữ thứ và sẽ biết gắn bó với những giá trị vững bền mối mọt không thể gậm
nhấm được, để họ biết tìm Chúa và gắn bó với Chúa nhiều hơn.