Thuật ngữ Công Giáo được dùng dể dịch chữ Hi Lạp katholikos, từ gốc
là kat’holon, với ý nghĩa đó là đạo chung, đạo phổ quát, đạo công cộng đón nhận
mọi người, chứ không riêng cho dân tộc hay quốc gia nào.
Ngày
21/11/2009, Giáo Hội tại Đài Loan làm lễ bế mạc kỷ niệm 150 năm đón nhận Phúc
Âm, biểu ngữ viết rõ là “Thiên Chủ
Giáo truyền giảng Phúc Âm 150 năm tại Đài Loan”. Tại Sở Kiện, hôm
24/11/2009 Giáo Hội tại Việt Nam làm lễ trọng thể khai mạc Năm Thánh 2010 thì
ghi là “Thánh lễ khai mạc Năm Thánh
2010 Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam”. Đài Loan dùng thuật từ “Thiên Chủ Giáo”, Việt
1. Công
Giáo – Thiên Chủ Giáo.
1.1.
Công Giáo.
Thuật
ngữ Công Giáo được dùng dể dịch chữ Hi Lạp
katholikos, từ gốc là kat’holon, với ý nghĩa đó là đạo chung, đạo phổ quát, đạo
công cộng đón nhận mọi người, chứ không riêng cho dân tộc hay quốc gia nào.
Thuật
ngữ này cũng được dùng để chỉ mọi giáo hội 'Công Giáo về bản chất' qua việc họ
tuyên bố giữ niềm tin Công Giáo và có tính tông truyền, như: Chính Thống Giáo
Đông Phương và Đông Phương không Chalcedon, Công Giáo Thượng Cổ (Ancient
Catholic), Công Giáo Cổ (Old Catholic, tách khỏi Giáo Hội Công Giáo Rôma năm
1870), Công Giáo Tự Do (Liberal Catholic) hay Giáo Hội chính thức của Anh (High
Church Anglicans).
Giám mục
Ignatius thành Antiokia lần đầu sử dụng từ "Giáo Hội Công Giáo"
(Catholic Church) để chỉ mọi tín hữu Kitô, trong bức thư gửi các tín hữu ở
Thuật
ngữ "Công Giáo"
thường được dùng để nói về "Công Giáo Rôma". Từ "Rôma" dùng
để chỉ vai trò trung tâm của giáo tông Rôma đối với giáo hội này và theo định
nghĩa mọi tín đồ Công Giáo Rôma hiệp thông trọn vẹn với vị giáo tông này khi là
thành phần của Giáo Hội La Tinh (Tây Phương), chiếm đa số hay thuộc hơn 20 Giáo
Hội Đông Phương nhỏ hơn, chấp nhận "quyền lực phổ quát, tối cao và trọn
vẹn trên Giáo Hội hoàn vũ" của giáo tông tại Rôma (Giáo lý vấn đáp Giáo
Hội Công Giáo, 882).
Bốn đặc
tính của Giáo Hội là: "Duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông
truyền". Những Giáo Hội chấp nhận các đặc tính đó cũng có thể gọi là Công
Giáo. Nên thuật từ Công Giáo không phải chỉ là thuật từ chuyên biệt của Giáo
Hội Công Giáo Rôma.
1.2.
Thiên Chúa Giáo.
Đã có
rất nhiều người lầm tưởng thuật từ Thiên Chúa Giáo là dịch từ chữ Christianity,
thật ra đây là cách gọi của người Hoa cho chữ Catholic.
Năm
1582, vị thừa sai nước Ý Matteo Ricci đến truyền giáo tại Trung Quốc. Thời đó
đang là vua Vạn Lịch triều Minh, là một nước lớn trung ương tập quyền, đã kế
thừa tư tưởng Nho Giáo gần hai ngàn năm, muốn dân nước đó đón nhận tín ngưỡng
tây phương là việc rất khó khăn. Cha Ricci không vội khuyên người ta trở lại
đạo, mà trước tiên nghiên cứu bối cảnh lịch sử và văn hoá của người Trung Hoa.
Ngài phát hiện kể từ đức vua đến bá tánh đều kính Thiên (Trời) là Đấng cao quí
nhất. Trong niềm tin Công Giáo cũng tin Đấng tạo thành trời đất là Chủ Tể trời
đất, nên ngài mượn câu cổ văn Trung Quốc: “Chí cao mạc nhược Thiên, chí tôn mạc nhược Chủ” (至高莫若天,至尊莫若主: Cao nhất không gì
bằng Trời, đáng kính trọng nhất không gì bằng Chúa), mà gọi Đấng dựng nên trời
đất là Thiên Chủ. Tên gọi này có ý nghĩa rất
sâu rộng, hợp với tư tưởng người Trung Quốc, ngài cũng đặt tên cho Giáo Hội
Công Giáo là Thiên Chủ Giáo.
Vua
Trung Quốc từ thời rất xa xưa đã lấy việc tế trời là việc quan trọng nhất, việc
đó phải do vua chủ tế, mà vua tự xưng mình là thiên tử (con của trời). Trong
tập tục lễ cưới, việc trước hết đôi bạn phải làm là bái thiên địa. Người Hoa
tại Việt
Người ta
thắc mắc, tại sao người Việt không dùng thuật từ “Thiên Chủ” theo kiểu Hán
Việt, mà dùng thuật từ “Thiên Chúa”. Có người giải thích vì yếu tố chính trị, “Đàng Trong thì có chúa Nguyễn, Đàng Ngoài thì có
vua Lê, chúa Trịnh. Vua thì xưng hiệu là đế, là hoàng đế, còn chúa Nguyễn và
chúa Trịnh, thì tuy chỉ có tước vương là vua, nhưng thực có binh quyền trong
tay và tự quyết định lấy mọi việc. Vì thế khi nói về chúa Trịnh, các giáo sĩ
Tây Phương thời đó quen gọi là “le roi du
Nhiều
người dùng chung thuật từ Thiên Chúa Giáo cho các tôn giáo theo truyền thống
Abraham, vì tôn thờ cùng một Thiên Chúa, như Chính Thống, Do Thái Giáo, Cơ Đốc
Giáo, Hồi Giáo. Trên thực tế hoàn toàn không phải như thế. Về niềm tin thì các
tôn giáo này tôn thờ cùng một Đấng Tạo Hoá, về cách xưng hô thì hoàn toàn khác
nhau. Sở dĩ người Công Giáo gọi đạo của mình là Thiên Chúa Giáo, vì họ xưng Đấng Tạo Hoá là Thiên Chúa, còn các giáo hội khác, kể cả Chính Thống Giáo
và Tin Lành không gọi Đấng Tạo Hoá là Thiên Chúa, mà gọi là Thượng Đế. Người ta
không dùng thuật từ Thiên Chúa, làm sao có thể gọi là Thiên Chúa Giáo được,
rõ ràng đó chỉ là cách nhận xét chủ quan của chúng ta, kể cả trong và ngoài
Giáo Hội.
2. Nghĩa
của những chữ công, giáo, thiên, chúa.
2.1. Công
Công chữ
Hán là公, thuộc loại hội ý, do
hai chữ八(bát) và ㄙ(khư). Bát (八) có nghĩa là nghịch với, khư (ㄙ) ý cổ xưa là tư. Trái với tư là công, nghĩa là dt. (1) Tổ phụ: công công; (2) Bố chồng: gia công (con dâu gọi bố chồng); (3) Quốc
trưởng mà không phải là thiên tử: chúa công; (4) Tước cao nhất: công, hầu, bá, tử, nam; (5) Tôn kính người khác: Trần công (ông
họ Trần); (6) Của chung: công môn (cửa quan); (7) Phổ quát: công cộng; (8) Phép đúng: công bình; (9) Khối tín đồ trung thành với Đức Giáo Tông: Công Giáo; (10) Cùng nghĩa với chữ 功(công): công tích; (11) Họ Công; đt. (12) Thuộc về mọi người: công thiên hạ (thuộc
về cả nước); (13) Cho mọi người biết: công bố; tt. (14) Con đực: công ngưu (bò
đực); (15) Không thuộc về cá nhân: điện thoại công cộng.
2.2.
Giáo.
Chữ Hán
là 教, nghĩa là: đt. (1) Dạy cách thức: hỗ giáo hỗ học (dạy
lẫn nhau và học lẫn nhau); (2) Bảo: thỉnh giáo (xin ý kiến); dt. (3) Nghi lễ; (4) Những người
tập hợp lại bởi cùng một niềm tin: Công Giáo; (5) Họ Giáo.
Nghĩa
nôm: dt. (1) Vũ khí nhọn cán dài: Giáo mác; đt. (2) Quay lộn đầu: đũa giáo đầu đuôi; (3) Lật lọng: giáo giở; (4) Quấy trộn: giáo bột làm bánh.
2.3.
Thiên.
Chữ Hán
là 天, nghĩa là: dt. (1) Trời: thiên không; (2) Chúa tể vạn vật: Thiên hữu hạ dân (trời
phù hộ dân chúng); (3) Tự nhiên: thiên nhiên; (4) Ngày: mỗi thiên(mỗi ngày); (5) Thời gian trái đất tự xoay một
vòng: nhất thiên (một ngày); (6) Mùa: xuân thiên (mùa
xuân); (7) Những vật không thể thiếu: dân dĩ thực vi thiên(dân cho thức ăn là
điều căn bản để sinh tồn); (8) Trên đầu: thiên kiều (cầu cạn); (9) Mệnh trời: thiên niên (số
năm trời cho); (10) Lương tâm: thiên lương; (11) Vua: thiên tử; (12) Họ Thiên; tt. (13) Bởi tự nhiên: thiên tai.
Nghĩa
nôm: dt. Bửng đậy quan tài.
2.4.
Chúa.
Đây là
chữ Nôm, nghĩa là dt. (1) Chúa tể trời đất: Thiên Chúa; (2) Vị cầm đầu một nước (địa vị dưới thiên
tử): Chúa Trịnh; (3) Người làm chủ: chúa tàu (chủ
tàu); pt. (4) Rất mực (nói về mấy loại dở): tôi chúa ghét thứ người đó.
3. Nhận
xét.
Thuật từ Công Giáo tuy
dùng chung cho nhiều tôn giáo tuyên xưng đức tin Công Giáo và
tông truyền, nhưng lâu nay người ta thường dùng riêng cho Công Giáo Rôma nhiều
hơn. Thuật từ này rất thích hợp với Hội Thánh chúng ta. Nhưng Giáo Hội tại
Trung Quốc không được may mắn như vậy, vì bên Trung Quốc cả đại lục và Đài
Loan, chính quyền cấm dùng thuật từ Công Giáo, vì người ta hiểu chữ công là
thuộc về nhà nước, Công Giáo nghĩa là đạo của công quyền, của nhà
nước.
Thiên
Chúa Giáolà thuật từ dùng riêng cho Giáo Hội Công Giáo Rôma, vì chỉ có Công
Giáo Rôma mới dùng thuật từ Thiên Chúa cho
Đấng Tạo Hoá.
4. Kết
luận.
Chúng ta
muốn hiểu rõ thuật từ Hán-Việt thì không những cần có một số vốn liếng về chữ
Hán, còn phải nắm vững ý nghĩa của chữ đó. Như rất nhiều người giải thích chữ giáo trong
thuật từ “tôn giáo” là dạy. Trong thuật từ “tôn giáo” chữ giáo rõ ràng
là danh từ, mà danh từ của chữ giáo hoàn
toàn không có nghĩa là dạy, động từ mới có nghĩa dạy mà thôi. Rất tiếc, nhiều
tự điển tiếng Việt lại không ghi rõ từ loại của từng chữ nghĩa, làm cho nhiều
người cũng hiểu sai. Vì hiểu không đúng thì giải thích cũng sai. Nhất là trong
những trường hợp liên quan đến giáo lý và thần học cần phải chính xác hơn.
___________________________________
[1] Gs.
Trần Văn Toàn, ĐẠO THIÊN CHÚA, ĐẠO GIA TÔ, ĐẠO CƠ ĐỐC, ĐẠO CÔNG GIÁO? NÊN GỌI
THẾ NÀO CHO CHÍNH DANH? (http://www.dunglac.org).
Tác giả bài viết: LM. Stêphanô Huỳnh Trụ