MÔI CÔI
Trong Tông thư “Mầu nhiệm Môi Côi” công bố vào Ngày 02-10-2002,
Chân Phúc Gioan Phaolô II đã đưa thêm Năm mầu nhiệm Sự Sáng vào Kinh Môi Côi để
việc suy niệm cuộc đời Chúa Giêsu đầy đủ hơn và Kinh Môi Côi cũng được hoàn
thiện hơn.
“Môi Côi” là khái niệm rất thân thuộc với tín hữu Công Giáo, nhưng
chúng tôi thấy trong ngôn ngữ nhà đạo tiếng Việt có rất nhiều cách nói như: môi
côi, mân côi, mai côi, văn côi, môi khôi, mai khôi...Vậy đâu là từ đúng? Trước
đây, chúng tôi đã viết mục từ “Môi Côi” đăng trên nguyệt san Bài giảng Chúa
Nhật số tháng 10/2005 để bàn về ngữ nghĩa của hai chữ này, nhưng nay đọc lại
thấy còn sơ sài nên muốn bổ sung thêm.
Thực ra, “môi côi” là từ gốc Hán, nhà đạo Việt
1. Nghĩa của Rosarium.
Gốc chữ rosarium là
Như vậy, rosa là hoa hồng, Rosarium là Kinh Hoa Hồng, nhưng Giáo
Hội tại Việt Nam không gọi là Kinh Hoa Hồng mà dùng chữ Hán: 玫 瑰 經(Môi Côi
Kinh). Vấn đề là hai chữ 玫 瑰 trong tiếng Việt phải phát âm thế nào?
2. Cách đọc của hai chữ 玫 瑰.
Hai chữ 玫 瑰 người ta đọc khác nhau, như: môi côi,
mân côi, mai côi, văn côi, môi khôi, mai khôi... Vấn đề là có nhiều chữ Hán
được đọc cùng một âm (đồng âm), nên ý nghĩa cũng khác nhau. Những chữ phát âm
giống nhau đó, trong tiếng Việt đôi khi lại có âm khác nhau, gây ra lẫn lộn
trong tiếng Việt. Vậy cách đọc nào đúng, căn cứ vào đâu, đâu là chuẩn mực?
Thiết tưởng mọi chữ đều cần căn cứ theo nguyên tắc phiên thiết để tìm ra cách
đọc đúng nhất.
2.1. Cách phiên thiết.
Phiên thiết (反切) là phương pháp dùng âm của hai chữ Hán
đã biết cách đọc để chú âm cho một chữ Hán thứ ba mà ta cần xác định cách đọc.
Phương pháp này được thực hiện qua hai bước ráp vần và tìm thinh.
2.1.1. Ráp vần: là lấy âm khởi đầu của chữ thứ nhất với vận của chữ thứ hai, rồi đọc nối liền lại.
Ví dụ: (1) Tìm trong Khang Hy Tự Điển, chữ 去(khứ) ta thấy
có ghi: 丘 據 切(= khưu cứ thiết), nghĩa là lấy âm khởi
đầu của chữ khưu (=kh) với vận của chữ cứ (=ứ) đọc nối liền lại là khứ. Hoặc (2) tìm trong Từ Hải Từ
Điển, chữ去(khứ) ta thấy có ghi: 曲 豫 切(= khúc dự
thiết), nghĩa là lấy âm khởi đầu của chữ khúc (=kh) với vận của chữ dự (=ự) đọc
nối liền lại là khự. Cả
hai từ điển đều cho ta vần của chữ 去(khứ) là khư. Ta còn phải tiếp tục bước thứ
hai là tìm thinh cho vần này nữa.
2.1.2. Tìm thinh: là xác định bực âm của chữ thứ nhất và loại thinh của chữ thứ hai, để tìm thinh cho chữ
cần tìm trong Bảng phân tích thinh.
Bực âm* |
Loại thinh** |
|||
Bình |
Thượng |
Khứ |
Nhập |
|
Thanh |
ngang |
hỏi |
sắc |
sắc |
Trọc |
huyền |
ngã |
nặng |
nặng |
Bảng 1: Bảng phân tích thinh
Bị chú: Tiếng Hán Việt là chữ Hán đọc theo
giọng Việt, nên còn giữ đặc tính của tiếng Trung Hoa, là theo nguyên tắc bực âm: thanh, trọc, rồi định thinh theo nguyên tắc tứ thinh: bình, thượng, khứ, nhập.
* Các
âm được phân làm 2 bực, gồm: (1) Âm thanh: ngang, hỏi, sắc; (2) Âm trọc:
huyền, ngã, nặng.
** Các thinh được
phân làm 4 loại, gồm: (1) Bình thinh: ngang, huyền; (2) Thượng thinh: hỏi,
ngã; (3) Khứ thinh: sắc, nặng; (4) Nhập thinh (tức là thinh kết thúc bằng tắc
âm p, t, k): sắc, nặng.
Bảng trên được “đọc tóm” cách khác là:
Thanh bình thinh →dấu ngang; Trọc bình
thinh →dấu huyền
Thanh thượng thinh →dấu hỏi; Trọc thượng thinh
→dấu ngã
Thanh khứ thinh →dấu sắc; Trọc khứ
thinh →dấu nặng
Thanh nhập thinh →dấu sắc; Trọc nhập
thinh →dấu nặng
Ví dụ (1): Tìm thinh chữ 去 (khứ) trong
Khang Hy Tự Điển như trên, ta thấy:
- Bực âm của chữ khưu (=thanh-ngang), nên ta chọn bực âm ở
hàng thanh:
Bực âm |
Loại thinh |
|||
Bình |
Thượng |
Khứ |
Nhập |
|
Thanh |
ngang |
hỏi |
sắc |
sắc |
Trọc |
huyền |
ngã |
nặng |
nặng |
Bước 1: Chọn bực âm ở hàng có thanh ngang.
- Loại thinh của chữ cứ (= thinh-khứ), nên ta chọn loại thinh
ở cột có thinh khứ:
Bực âm |
Loại thinh |
|||
Bình |
Thượng |
Khứ |
Nhập (*) |
|
Thanh |
ngang |
hỏi |
sắc |
sắc |
Trọc |
huyền |
ngã |
nặng |
nặng |
Bước 2: Chọn loại thinh ở cột chứa thanh khứ.
- Giao điểm của chúng là thinh sắc:
Bực âm |
Loại thinh |
|||
Bình |
Thượng |
Khứ |
Nhập (*) |
|
Thanh |
ngang |
hỏi |
sắc |
sắc |
Trọc |
huyền |
ngã |
nặng |
nặng |
Bước 3: Chọn thinh ở ô giao nhau của hàng và cột đã chọn.
Vậy chữ 去 (khư + thinh sắc) đọc là khứ.
Ví dụ (2): Tìm thinh chữ 去 (khứ) trong
Từ Hải Từ Điển như trên, ta thấy:
- Bực âm của chữ khúc (=thanh-ngang), nên ta chọn bực âm ở
hàng có thanh ngang:
Bực âm |
Loại thinh |
|||
Bình |
Thượng |
Khứ |
Nhập |
|
Thanh |
ngang |
hỏi |
sắc |
sắc |
Trọc |
huyền |
ngã |
nặng |
nặng |
Bước 1: chọn bực âm ở hàng có thanh ngang.
- Loại thinh của chữ dự (= thinh-khứ), nên ta chọn loại thinh
ở cột có thinh khứ:
Bực âm |
Loại thinh |
|||
Bình |
Thượng |
Khứ |
Nhập (*) |
|
Thanh |
ngang |
hỏi |
sắc |
sắc |
Trọc |
huyền |
ngã |
nặng |
nặng |
Bước 2: chọn loại thinh ở cột chứa thinh khứ.
- Giao điểm của chúng là thinh sắc:
Bực âm |
Loại thinh |
|||
Bình |
Thượng |
Khứ |
Nhập (*) |
|
Thanh |
ngang |
hỏi |
sắc |
sắc |
Trọc |
huyền |
ngã |
nặng |
nặng |
Bước 3: chọn thinh ở ô giao nhau của hàng và cột đã chọn.
Vậy chữ 去 (khư + thinh sắc) đọc là khứ.
Vài ví dụ khác:
Tiếng Hán
Việt |
Khang Hy Tự
Điển |
Từ Hải Từ Điển |
Bực âm |
Loại thinh |
Thinhtìm
được |
Đọc là |
井 (cái giếng) |
子+郢 tử + dĩnh |
子+郢 tử + dĩnh |
thanh |
thượng |
dấu hỏi |
tỉnh |
靜 (im lặng) |
疾+郢 tật + dĩnh |
集+性 tập + tính |
trọc |
thượng hoặc khứ |
dấu ngã hoặc dấu nặng |
tĩnh hoặc tịnh |
幾 (mấy) |
舉+豈 cử+khỉ |
古+衣 cổ + y |
thanh |
thượng |
dấu hỏi |
kỷ |
技 (khéo) |
巨+綺 cự + khỉ |
極+蟣 cực + kỷ |
trọc |
thượng |
dấu ngã |
Kỹ |
Bảng này cho thấy tại sao viết dấu hỏi hay dấu ngã. Do đó, trừ một
số ít tiếng, tất cả đều theo đúng luật phiên thiết.
Riêng về mấy phụ âm khởi đầu d-, gi-, s-, x-,
mà chúng ta dễ nhầm lẫn thì tự điển Trung Hoa đã sử dụng một số tiếng tiêu biểu
để phiên thiết như sau:
Phụ âm |
Các tiếng tiêu
biểu |
Ví dụ |
d- |
喻dụ, 夷di, 以dĩ, 營doanh, 閱duyệt, 余dư, 與dữ, 翼dực, 羊dương. |
葉diệp: 與+涉切(dữ+thiệp,
thiết). Trọc nhập thinh: dấu nặng. |
gi- |
見kiến, 古cổ, 公công, 格cách, 姑cô. |
家gia: 古+牙切(cổ+nha, thiết). Thanh bình thinh: dấu ngang. |
s- |
Âm thanh: 芻sô, 楚sở, 初sơ, 創sang. Âm trọc: 豺sài, 牀sàng, 士sĩ, 崇sùng. |
山san: 楚+閒切(sở+nhàn, thiết). Thanh bình thinh:
dấu ngang. |
x- |
Âm thanh: 尺xích, 春xuân, 處xứ, 昌xương.Âm
trọc: 辰thần, 時thì, 食thực, 常thường. |
蛇xà: 食+遮切(thực+cha, thiết). Trọc bình thinh,
dấu huyền. 社xã: 常+者切(thường+giả, thiết). Trọc thượng
thinh: dấu ngã. |
Nói cách khác, những tiếng khởi đầu bằng gi- chẳng hạn, thì tự điển Trung Hoa dùng
âm 見 kiến (hoặc 古cổ ...) để phiên thiết. Thí dụ: 家gia: 古+牙切 (cổ+nha,
thiết). Thanh bình thinh: dấu ngang.
2.2. Phiên thiết chữ 玫
2.2.1. Theo Khang Hy Tự Điển, phiên
thiết của 玫 là 謨 杯 切 (mô+bôi, thiết), trong tiếng Hoa, chữ 玫 đồng âm với chữ 枚 (nhưng trong tiếng Hán Việt, chữ 枚 lại đọc là mai, không đồng âm với chữ 玫), từ điển dùng chữ 枚 để giúp những người không biết phiên
thiết cũng có thể đọc được.
- Ráp vần: lấy âm khởi đầu của chữ mô với vận của chữ bôi, rồi
đọc nối liền lại, ta có vần môi.
- Tìm thinh: Bực âm của chữ mô (=thanh-ngang), nên ta chọn bực âm ở
hàng có thanh ngang. Loại thinh của chữ bôi (=thinh-bình), nên ta chọn loại thinh
ở cột có thinh bình. Giao của bực âm và loại thinh là “thanh bình thinh”: thinh
ngang (không dấu), nên chữ 玫 đọc là môi.
2.2.2. Theo Từ Hải Từ Điển, phiên thiết
của chữ 玫 là模 回 切(mô+hồi, thiết), chữ đồng âm là 枚(mai).
- Ráp vần: lấy âm khởi đầu của chữ mô với vận của chữ hồi, rồi
đọc nối liền lại, ta có vần mồi.
- Tìm thinh: Bực âm của chữ mô (=thanh-ngang), nên ta chọn bực âm ở
hàng có thanh ngang. Loại thinh của chữ hồi (=thinh-bình), nên ta chọn loại thinh
ở cột có thinh bình. Giao của bực âm và loại thinh là “thanh bình thinh”: thinh
ngang (không dấu), nên chữ 玫đọc là môi,
không đọc mồi.
Trong tự điển tiếng Hoa, riêng về âm, nếu có chữ nào đồng âm với
chữ đó, thì ghi lấy âm của chữ đó. Như chữ 玫 (môi) đồng âm với chữ 枚 (mai) trong âm tiếng Hoa, để tiện cho người tra cứu. Do đó, chữ 玫 đọc môi thì đúng theo phiên thiết, còn đọc mai là đúng theo âm tiếng Hán Việt của chữ
枚.
Chữ 玫 (môi) có
người đọc thành mân hay văn là vì nhầm lẫn với chữ 玟 (mân, vân). Hai chữ cùng là bộ ngọc (玉), nhưng chữ 玫 (môi) bên phải đi với chữ 攵(phốc), còn chữ 玟 (mân) bên phải đi với chữ 文 (văn). Phiên thiết chữ 玟 là 眉 貧 切 (mi+bần, thiết), đọc là mân; hoặc 無 分切 (vô+phân, thiết) chữ cùng âm là 文 (Hán Việt đọc là văn), theo phiên thiết: vô + phân
đọc là vân.
Như vậy, dựa trên phân tích bộ và cách phiên thiết, ta thấy chữ 玫 dù đọc là mân, vân hay văn đều là không đúng luật phiên thiết.
2.3. Phiên thiết chữ 瑰
2.3.1. Theo Khang Hy Tự Điển, phiên
thiết của 瑰 là 公 回 切 (công+hồi, thiết), đọc là côi. Chữ đồng âm là 傀 (nhưng trong tiếng Hán Việt, chữ傀 lại đọc là khôi, không đồng âm với chữ 瑰).
- Ráp vần: lấy âm khởi đầu của chữ công với vận của chữ hồi, rồi
đọc nối liền lại, ta có vần cồi.
- Tìm thinh: Bực âm của chữ công (=thanh-ngang), nên ta chọn bực âm ở
hàng có thanh ngang. Loại thinh của chữ hồi (=thinh-bình), nên ta chọn loại thinh
ở cột có thinh bình. Giao của bực âm và loại thinh là “thanh bình thinh”: thinh
ngang (không dấu), nên chữ 瑰 đọc là côi,
không đọc cồi.
2.3.2.Theo Từ Hải Từ Điển, phiên thiết
của 瑰 là 姑 隈 切 (cô+ôi, thiết), đọc là côi. Chữ đồng âm
là 傀 (nhưng trong tiếng Hán Việt, chữ 傀 lại đọc là khôi, không đồng âm với chữ 瑰).
- Ráp vần: lấy âm khởi đầu của chữ cô với vận của chữ ôi, rồi đọc nối liền lại, ta có vần côi.
- Tìm thinh: Bực âm của chữ công (=thanh-ngang), nên ta chọn bực âm ở
hàng có thanh ngang. Loại thinh của chữ hồi (=thinh-bình), nên ta chọn loại thinh
ở cột có thinh bình. Giao của bực âm và loại thinh là “thanh bình thinh”: thinh
ngang (không dấu), nên chữ 瑰đọc là côi.
3. Nghĩa của môi 玫, côi 瑰
Môi 玫 nghĩa là (dt.) (1) Một thứ ngọc màu đỏ. (2) Cây hoa hồng, hoa
hồng. Côi 瑰 nghĩa là (dt.) (1) Một thứ đá đẹp kém ngọc. (2) Một thứ ngọc đỏ. (tt.) (3)
Quý lạ: Côi kỳ, côi vĩ (quý báu lạ lùng). Môi côi nghĩa là (dt.) (1)
Hoa hồng. (2) Một thứ ngọc đỏ. Trường hợp dùng để dịch chữ rosarium, môi côi
nghĩa là hoa hồng. Ngày nay người Hoa chỉ biết moi côi là hoa hồng, mà không
nghĩ tới là ngọc đỏ nữa.
4. Nhận xét và kết luận.
Chữ 玫 đọc là môi,
nhưng có người đọc thành: mai, mân, văn. Đọc thành mai vì trong Khang Hy Tự
Điển và Từ Hải Từ Điển, cả hai đều có đề chữ 枚 (mai) để người Hoa đọc được chữ 玫 (môi). Vì tuyệt đại đa số người Hoa sau này không biết cách phiên
thiết, nên rất cần lấy một chữ đồng âm ghi để đọc, âm này chưa chắc đúng âm Hán
Việt. Đối với người Việt thì áp dụng được, chỉ cần biết cách phiên thiết nối
vần là cho ra âm. Trong tiếng Hoa chữ 玫 (môi) và 枚 (mai) đồng
âm, thì tạm chấp nhận được. Còn đọc mân, vân, văn đều do đọc nhầm chữ 玫với chữ 玟.
Chữ 瑰 đọc là côi,
nhưng có người đọc thànhkhôi vì trong Khang Hy Tự Điển và Từ Hải Từ Điển, cả
hai đều ghi âm như chữ傀(khôi). Trong
tiếng Hoa瑰(côi) và 傀(khôi) đổng âm, nên có sự nhầm lẫn đối với người Việt. Từ đó mà
cách đọc “mân côi” đã trở nên phổ biến và quen thuộc, vì vậy có thể coi đây là
một diễn tiến riêng của tiếng Việt.
Tiếng Việt chịu ảnh hưởng của tiếng Hoa rất nhiều, cho nên tìm được
âm chuẩn cho tiếng Việt không đơn giản, nhất là Việt
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ (giaolyductin.net30/10/13, 10:34 am)