NGÀY MỒNG HAI TẾT
CÓ NÊN LÀM LỄ NGOÀI NGHĨA TRANG ?
Hằng năm,
ngày mồng Hai Tết Nguyên Đán, Giáo hội Việt Nam có truyền thống cử hành lễ
ngoại lịch: kính
nhớ Tổ tiên và Ông bà Cha mẹ. Đa phần các giáo xứ cử hành Thánh lễ
này trong nhà thờ (có bàn thờ Tổ tiên) với màu phụng vụ trắng (hay vàng) theo
lịch Phụng vụ Công giáo. Tuy nhiên cũng không ít giáo xứ cử hành Thánh lễ này
tại nghĩa trang với màu phụng vụ tím để cầu nguyện cho các linh hồn Tổ tiên và
Ông bà Cha mẹ.
Trong bài
viết này xin trình bày một suy nghĩ: Có nên cử hành Thánh lễ tại nghĩa trang
vào ngày mồng Hai Tết không?
I.
Dưới góc nhìn Phụng vụ
Quả thật,
theo luật phụng vụ, nếu ngày mồng Hai Tết không có bậc lễ nào cao hơn bậc lễ
ngoại lịch thì việc cử hành thánh lễ tại nhà thờ hay tại nghĩa trang không có
vấn đề gì. Vì theo Qui chế Tổng quát Sách lễ Rôma (2000) qui định: “Trong các ngày thuộc
Mùa Quanh năm có lễ nhớ tự do hay lễ về ngày trong tuần, được phép cử hành bất
cứ lễ cho nhu cầu nào hay dùng bất cứ lời nguyện cho nhu cầu nào, ngoại trừ các
lễ nghi thức” (IM 377). Bởi thế, việc tổ chức thánh lễ mồng Hai Tết
trong hân hoan vui tươi ở nhà thờ, hay sắc tím “thương nhớ” ở nghĩa trang cũng
không có gì sai phụng vụ.
Cũng xin
nhắc lại ở đây ý nghĩa phụng vụ của màu tím và màu trắng:
Màu tím: màu của sự ăn năn, thống hối và của sự mong đợi, được dùng trong mùa Chay
và mùa Vọng. Người ta cũng dùng màu tím trong thánh lễ và các nghi thức phụng
vụ cầu cho những kẻ qua đời (trước Công Đồng Vaticanô II, dùng màu đen).
Màu trắng: (có thể được thay thế bằng màu vàng) màu của sự trong sạch, tinh tuyền,
nhất là vinh quang của Thiên Chúa, được dành cho các nghi thức phụng vụ và các
thánh lễ mùa Phục sinh và mùa Giáng sinh. Màu trắng cũng được dùng trong các
thánh lễ kính, lễ nhớ, các lễ kính Đức Mẹ, các thiên thần, các thánh không phải
là Thánh Tử đạo. Màu trắng còn diễn đạt sự Phục sinh của Chúa Kitô cũng như sự
phục sinh của chúng ta sau này (nơi bàn tiệc thiên quốc những người được tuyển
chọn đều mặt y phục trắng toát).
II.
Dưới góc nhìn của hội nhập văn hóa
1.
Tục rước Ông bà
Trong tâm
thức người Việt Nam, mặc dù Ông bà đã chết nhưng linh hồn vẫn còn sống về phù
hộ cho con cháu mạnh khỏe, làm ăn phát đạt. Đây cũng là tư tưởng của Nho giáo:
“Sự tử như sự
sinh, sự vong như sự tồn, hiếu chi chí dã” [事 死 如 事 生, 事 亡 如 事 存, 孝 之 至 也] (nghĩa là: tôn kính người chết như tôn kính người
sống, tôn kính người đã mất như tôn kính người hiện có, là chí hiếu vậy)
(x. Trung
Dung, chương 19).
Cho nên
những dịp lễ Tết, người ta hay mời Ông bà về “ăn Tết” chung vui với gia đình.
Đó là sợi dây thiêng liêng vô hình nối kết giữa người còn sống và người đã
chết. Để rước Ông bà về ăn Tết với con cháu, người ta thường sửa san mồ mả
trước Tết, khoảng 25 – 30/12 âm lịch, sau đó làm lễ cúng rước Ông bà về ăn Tết
vào tối Giao thừa.
Đúng Giao
thừa, người ta đặt những thức cúng lên bàn thờ gia tiên, thắp hương tưởng niệm,
khấn vái, rước Ông bà về nhà cùng con cháu vui xuân. Các ngày tiếp theo, người
ta đều cúng cơm cho đến hết Tết. Khi làm lễ tiễn Ông bà thì việc thờ cúng gia
tiên trong ngày Tết mới coi là xong. Thường thì khoảng mồng Năm hay mồng Sáu
thì làm lễ cúng tiễn Ông bà.
Tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam có truyền thống lâu đời, là một biểu hiện của văn
hóa dân tộc, đến mức nâng lên thành đạo: đạo thờ Ông bà, đạo làm con.
2.
Tục chúc Tết và mừng Tuổi
Sáng sớm
mồng Một Tết hay còn gọi là “Chính đán”, mọi sinh hoạt ngừng lại, các con cháu
tụ họp ở nhà tộc trưởng để lễ Tổ tiên chúc Tết ông bà, các bậc huynh trưởng và
mừng tuổi lẫn nhau. Theo tục lệ, cứ năm mới tới, kể cả người lớn lẫn trẻ con,
mỗi người tự nhiên tăng lên một tuổi. Văn hóa Việt Nam trước đây không mừng
sinh nhật, người già trẻ em không nhớ ngày sinh. Họ chỉ biết Tết đến là họ thêm
một tuổi mới.
Do đó,
ngày mồng Một Tết là ngày con cháu “chúc thọ” ông bà và các bậc cao niên; và
người lớn thì “mừng tuổi” trẻ em một cách cụ thể bằng những đồng tiền mới bỏ
trong những “phong bao”. Tục này ở Việt Nam quen gọi là “lì xì”. Tiền mừng tuổi
nhận được trong ngày Tết gọi là “tiền mở hàng”. Xưa còn có lệ cho tiền lẻ vào
phong bao (chứ
không phải là tiền chẵn), ngụ ý tiền này sẽ sinh sôi nảy nở thêm
nhiều.
Về chúc
Tết, trong ba ngày Tết, những thân bằng quyến thuộc hoặc những người phải chịu
ơn người khác thường phải đi chúc Tết và mừng tuổi gia chủ; sau đó xin lễ ở bàn
thờ Tổ tiên của gia chủ.
3.
Những Kiêng kỵ
Trong dịp
đầu Năm, Tết Nguyên Đán, người Việt Nam cũng có nhiều kiêng kỵ, xin đơn cử:
Kỵ mai táng: Ngày Tết Nguyên Đán là ngày vui của toàn dân tộc, ngày mở đầu cho vận hội
hanh thông của cả một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng. Gia đình phải tạm gác
mối sầu riêng để hoà chung với niềm vui toàn dân tộc. Vì vậy có tục lệ cất khăn
tang trong ba ngày Tết. Nhà có đại tang kiêng đi chúc Tết, mừng tuổi bà con,
xóm giềng; ngược lại bà con xóm giềng lại cần đến chúc Tết và an ủi gia đình có
tang.
Trường hợp
gia đình có người chết vào ngày 30 tháng chạp mà gia đình có thể định liệu được
thì nên chôn cất cho kịp trong ngày đó, đa số các gia đình kiêng để sang ngày
mùng Một đầu năm.
Trường hợp
chết đúng ngày mùng Một Tết thì chưa phát tang vội nhưng phải chuẩn bị mọi thứ
để sáng mùng Hai làm lễ phát tang.
Kiêng mặc quần áo màu trắng, đen: Theo quan niệm của người xưa, màu trắng và
đen là màu của tang lễ, chết chóc, vì vậy những ngày đầu năm thì phải mặc trang
phục với những màu sắc sặc sỡ và thu hút sự chú ý, tạo nên sự phấn khởi và vui
tươi để đón chào năm mới, như: màu hồng, đỏ, vàng, xanh...
III.
Một vài nhận định
IV.
Từ những
gì trình bày ở trên, ta thấy việc cử hành thánh lễ cầu hồn vào ngày mồng Hai
Tết Nguyên Đán tại nghĩa trang thì không sai với luật chung của phụng vụ. Nhưng
nếu cử hành thánh lễ theo truyền thống dân tộc (kính nhớ Tổ tiên và Ông bà Cha
mẹ) vào ngày mồng Hai Tết Nguyên Đán tại nghĩa trang theo tinh thần hội nhập
của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam thì có vấn đề:
1.
Lịch Công giáo và sách lễ Rôma (phần Thánh lễ theo truyền thống Dân tộc)
ghi: “MỒNG HAI TẾT - KÍNH NHỚ TỔ TIÊN VÀ ÔNG BÀ CHA MẸ”. Như thế, phụng vụ chỉ
rõ việc kính nhớ trong hai cụm từ “tổ tiên” và “ông bà cha mẹ”. “Tổ tiên” là
kiểu đọc Nôm của danh từ Hán Việt “tiên tổ” (先祖): Ông bà các đời trước (đã chết). Còn
cụm từ “ông
bà cha mẹ” là chỉ những đấng bậc sinh thành đời nay (còn sống hay
đã qua đời). Vậy ngày mồng Hai là bày tỏ lòng hiếu kính với các Đấng bậc còn
sống hay đã qua đời. Nếu cử hành ngoài nghĩa trang thì vô hình chung chúng ta đã quên mất
tâm tình hiếu kính với “ông bà cha mẹ còn sống” mà phụng vụ qui định.
2.
Thánh lễ ngày mồng Hai là Thánh lễ theo truyền thống Dân tộc. Nhưng với tập tục rước
Ông bà về ăn Tết với con cháu của truyền thống văn hóa và tâm thức của người
Việt, cùng với những kiêng kỵ về tang lễ, màu sắc u buồn; thì tại sao chúng ta
còn ra nghĩa trang làm lễ? Trong năm phụng vụ, Giáo hội đã dành nguyên tháng
Mười một để kính nhớ Các đẳng (những người đã khuất, trong đó có tổ tiên, ông bà, cha mẹ và người thân).
Trong tháng Các đẳng, đa phần các nhà thờ đều có cử hành thánh lễ ngoài nghĩa
trang, hà cớ gì chúng ta lại phải cử hành thánh lễ cầu hồn vào ngày mồng Hai
tết? Thiết nghĩ nên làm một bàn thờ Tổ tiên tại nhà thờ để hiếu kính? Khi ấy
chúng ta thực thi được điều phụng vụ qui định: vừa hiếu kính với người còn sống, vừa hiếu
kính cả với người đã qua đời.
3.
Có người biện minh: mồng Hai tết, sáng cử hành ở nhà thờ, hiếu kính với ông
bà cha mẹ còn sống; chiều cử hành ở nghĩa trang, hiếu kính với người đã khuất, như
thế đáp ứng được hai yêu cầu của phụng vụ. Nhưng có ổn không, khi mồng Hai Tết
(dù sáng hay
chiều) cử hành Thánh lễ ngoài nghĩa trang với màu phụng vụ tím? Ắt
hẳn nhiều người vì thương nhớ người quá cố khi đi lễ sẽ mang tang, những người
mới chịu tang (tuần
3, tuần 7 …) còn mặc áo sô. Như thế, vô tình chúng ta đã tạo ra sự
phản cảm với những người không Công giáo (hơn 93% dân số Việt Nam). Một số giáo
xứ toàn tòng hay tỷ lệ người Công giáo cao thì chúng ta khó nhận ra sự phản cảm
này.
4.
Điều đáng nói ở đây là chúng ta cử hành thánh lễ ngày mồng Hai Tết trong
bầu khí hân hoan vui mừng của những ngày đầu năm (với lễ phục trắng hoặc vàng).
Trong bầu khí hân hoan vui tươi ấy, chúng ta diễn tả tâm tình hiếu kính với Tổ
tiên và Ông bà Cha mẹ còn sống hay đã qua đời. Nếu cử hành ấy được tổ chức
trong nhà thờ thì trang trọng và ý nghĩa biết bao! Còn nếu tổ chức tại nghĩa
trang với sắc màu phụng vụ tím (hoặc đen) liệu có diễn tả được bầu khí
và tâm tình phụng vụ của ngày đầu năm? Chẳng ai làm lễ tại nghĩa trang lại mang
lễ phục trắng hay vàng bao giờ.
Trên đây
là những suy nghĩ và thao thức của cá nhân người viết. Cái đúng cái sai, sự hợp
lý chí tình trong hội nhập phụng vụ theo truyền thống dân tộc vào ngày mồng Hai
Tết xin được nhường cho một cuộc nghiên cứu sâu rộng thấu đáo và quyết định của
Đấng Bản quyền.
Lm. Tôma Mguyễn Văn Hiệp