GIÁM MỤC PHỤ TÁ
Không Giám mục nào được phép phong chức Giám mục cho ai, nếu trước đó chưa có thư ủy nhiệm của Đức Giáo Hoàng (Điều 1013).
|
|
I. CÁC GIÁM MỤC TRONG
GIÁO HỘI CỦA THIÊN CHÚA
1. Nguyên tắc thần học
Điều 375:
Ҥ
1. Do sự thiết lập của Thiên Chúa, các Giám
mục kế vị các Tông Đồ nhờ Chúa Thánh Thần là Đấng được ban cho các ngài; các ngài được đặt làm Chủ Chăn trong Giáo Hội để làm những thầy dạy học thuyết, tư tế phụng tự thánh và thừa tác viên lãnh đạo.
§ 2. Do chính việc tấn phong Giám mục, ngoài nhiệm vụ thánh hóa, các Giám mục còn nhận lãnh các nhiệm vụ giảng dạy và lãnh đạo, tuy nhiên, do bản chất của chúng, các ngài chỉ có thể thi hành những nhiệm vụ này trong sự hiệp thông phẩm trật với thủ lãnh và với mọi thành viên của Giám mục đoàn”.
Bốn điểm đặc trưng
của các Giám Mục:
1/. Các Giám Mục kế vị các Tông Đồ do sự thiết lập của Thiên Chúa
Công
Đồng Vatican II, trong Hiến chế tín lý về Giáo Hội “Lumen Gentium”, số 20,
đã xác định:
“Các Giám mục nhận lãnh tác vụ coi sóc cộng đoàn cùng với các linh mục và phó tế làm phụ tá, khi thay mặt Thiên Chúa lãnh đạo đoàn chiên mà các ngài là
những chủ chăn, với tư
cách là thầy dạy giáo thuyết, tư
tế lo phụng tự thánh và thừa tác viên lo việc cai quản… Vì thế, thánh Công Đồng dạy rằng chính Chúa đã
thiết lập các Giám Mục kế vị các Tông đồ với tư cách là những chủ chăn Giáo Hội, ai
nghe các ngài là nghe Đức
Kitô, còn ai khước từ các ngài là khước từ Đức Kitô và Đấng đã sai Đức Kitô (x.Lc 10,16).
2/. Các
ngài được đặt làm Chủ Chăn trong Giáo Hội (x. LG, số 20; CD, số 2).
3/.Việc tấn phong Giám mục ban quyền hành cho các ngài
Quyền hành Giám mục (giảng dạy, thánh hóa và lãnh đạo) không do Đức Giáo Hoàng ban cho các
ngài nhưng
do chính việc tấn phong qua bí tích truyền chức Giám mục.
“Thánh
Công Đồng dạy rằng việc thánh hiến Giám mục trao ban sự sung mãn của Bí tích Truyền Chức mà cả phụng vụ của Giáo Hội lẫn các thánh Giáo phụ đều gọi là chức tư
tế thượng phẩm, là bậc cao nhất của thừa tác vụ thánh. Việc thánh hiến Giám mục trao ban tác vụ thánh hóa cũng như
tác vụ giảng dạy và cai quản, những tác vụ mà tự bản tính chỉ có thể thực thi trong sự hiệp thông phẩm trật với vị Thủ lãnh và các thành viên của Giám mục đoàn” (LG, số 21).
4/. Hiệp thông phẩm trật với thủ lãnh và với mọi thành viên của Giám mục đoàn
Mỗi
Giám mục hành sử quyền hành trong tư
thế là thành viên của Giám Mục đoàn. Nếu quyền hành Giám mục có nguồn mạch trong việc tấn phong do bí tích, thì việc hành sử quyền hành phải thông qua giáo nhiệm “missio canonica”
(x. LG, số 21; CD, số 11).
2. Tấn phong
Nếu không bị ngăn trở hợp lệ, người được tiến cử lến chức Giám mục phải được tấn phong trong vòng ba tháng
kể từ ngày nhận được văn thư của
Tòa Thánh, và trước
khi nhận giáo vụ (Điều 379).
Không
Giám mục nào được phép phong chức Giám mục cho ai, nếu trước đó chưa
có thư
ủy nhiệm của Đức Giáo Hoàng (Điều 1013). Sự vi phạm điều này sẽ làm cho vị Giám mục phong chức, cũng như
người nào được Giám mục ấy truyền chức cho, đều bị vạ tuyệt thông tiền kết được dành riêng cho Tông Tòa
(Điều 1382).
Trước
khi nhận giáo vụ theo giáo luật, vị được tiến cử Giám mục phải tuyên xưng
đức tin và phải tuyên thệ trung thành với Tông Tòa theo công thức do Tông Tòa phê chuẩn (Điều 380).
Trừ khi được Tông Tòa miễn chuẩn, trong lễ tấn phong Giám mục, Giám mục tấn phong phải có thêm ít là hai Giám mục phụ phong khác. Tuy nhiên cùng với các vị ấy, tất cả các Giám mục hiện diện cũng nên tấn
phong người được tuyển chọn (Điều 1014).
II. PHÂN BIỆT: GIÁM MỤC GIÁO PHẬN – GIÁM MỤC PHÓ – GIÁM MỤC PHỤ TÁ
1. Giám mục giáo phận
Giám mục
giáo phận (episcopus dioecesanus) là
Giám mục được trao cho nhiệm vụ coi sóc một giáo phận và lấy chính tên giáo phận đó làm danh hiệu cho mình (x. Điều 376).
Ví dụ: Đức Giám mục Giuse Trần Xuân Tiếu được giao phó đứng đầu và cai
quản Giáo phận Long Xuyên nên được gọi là “Giám mục giáo phận Long Xuyên”.
Trước kia,
theo Giáo luật cũ
năm 1917, Giám mục
giáo phận thường được gọi là “Giám mục chính tòa” (episcopus residentialis). Bộ Giáo luật hiện hành không sử
dụng tên gọi này nữa.
2. Giám mục phó
Giám mục
phó (episcopus
coadjutor) là Giám mục được đặt để giúp cho Giám mục giáo phận, với quyền kế vị (Điều 403 §3).
Bởi vì
Giám mục phó đương
nhiên và luôn luôn có quyền kế vị, nên mỗi giáo phận chỉ có thể có một Giám mục phó mà thôi.
Do
quyết định của Bộ Giám Mục ngày 31/08/1976, các Giám
mục phó sẽ mang danh hiệu của chính giáo phận nơi
mình phục vụ.
3. Giám mục phụ tá
Giám mục phụ tá (episcopus auxiliaris) là
Giám mục được đặt để giúp cho Giám mục giáo phận, nhưng không có quyền kế vị (Điều 403 §1).
Giáo
luật phân biệt hai loại Giám mục phụ tá (tùy thuộc vào văn thư bổ nhiệm của Tòa Thánh):
- Giám mục phụ tá thông thường (Điều 403 §1).
- Giám mục phụ tá với những năng quyền đặc biệt (Điều 403 §2)
.
Trong một
Giáo phận, có thể có một hoặc nhiều Giám mục phụ tá. Các Giám mục phụ tá được bổ nhiệm với danh xưng là một Giám mục hiệu tòa (episcopus titularis).
Vd. Đức
Giám mục Giuse Trần Văn Toản là Giám mục phụ tá của Giáo phận Long Xuyên, Giám mục hiệu tòa Acalisso.
Hiệu tòa Acalisso (vị trí ở Asardere, Licia, nước Thổ Nhĩ Kỳ) cũng như
các hiệu tòa khác ở vùng Trung Đông và Bắc Phi chỉ còn tên trong danh sách các
giáo phận của Giáo Hội, nhưng
trên thực tế thì đã không còn hiện hữu vì bị lực lượng Hồi giáo chiếm đóng. Cho nên trước kia,
Giám mục hiệu tòa được gọi là Giám mục “in partibus infidelium”
(trong phần đất dân ngoại). Giám mục hiệu tòa không có bất
cứ quyền tài phán gì trong hiệu
tòa của mình, nhưng chỉ hưởng danh dự của chức giám mục mà thôi.
III. NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN LỢI CỦA GIÁM MỤC PHỤ TÁ
Các
nghĩa vụ và quyền lợi của Giám mục phụ tá được ấn định do văn thư bổ nhiệm, do luật chung và do Giám mục giáo phận.
1. Do văn thư bổ nhiệm
Đôi khi do văn thư bổ nhiệm, Tòa Thánh có thể ấn định một số năng quyền đặc biệt dành cho một Giám mục phụ tá.
2. Do luật chung
Luật chung
ấn định quyền hạn cho Giám mục phụ tá như
sau:
2.1. Tổng Đại Diện hoặc Đại diện Giám mục
-
Giám mục phụ tá với những năng quyền đặc biệt phải được đặt làm Tổng Đại diện (Điều 406 §1).
-
Giám mục phụ tá thông thường phải được Giám mục giáo phận đặt làm Tổng Đại diện hoặc ít là Đại diện Giám mục, và vị này chỉ lệ thuộc quyền Giám mục Giáo phận, hoặc quyền Giám mục phó, hoặc quyền Giám mục phụ tá với những năng quyền đặc biệt mà thôi (x. Điều 406 §2), vì chưng
Giám mục phụ tá không thể ở dưới quyền của một Tổng Đại diện không có thánh chức giám mục.
2.2. Trong việc mục vụ giáo phận
Điều 407 quy định:
- Giám mục Giáo phận, Giám mục phó và Giám mục phụ tá với những năng quyền đặc biệt phải hội ý với nhau trong những vấn đề quan trọng hơn
(x. Điều 407 §1).
- Khi phải giải quyết những vấn đề quan trọng hơn,
nhất là những vấn đề có tính mục vụ, Giám mục giáo phận phải ưu
tiên hội ý với các Giám mục phụ tá trước những người khác (x. Điều 407 §2).
- Giám mục phụ tá phải thi hành nhiệm vụ của mình thế nào để có sự hiệp nhất với Giám mục giáo phận trong tinh thần cũng như
hành động (x. Điều 407 §3).
2.3. Nghi lễ đại triều và các nghi lễ khác
Nếu không bị ngăn trở chính đáng, mỗi khi được Giám mục giáo phận yêu cầu, Giám mục phụ tá buộc phải cử hành các nghi lễ đại triều và các nghi lễ khác thuộc bổn phận của Giám mục Giáo phận (x. Điều 408 §1).
Giám mục
giáo phận không được thường xuyên ủy thác cho người khác những quyền lợi và những nhiệm vụ thuộc về Giám mục mà Giám mục phó hoặc Giám mục phụ tá có thể thi hành (x. Điều 408 §2).
2.4. Cư sở
Giám
mục phụ tá buộc phải cư
trú trong Giáo phận,
chỉ được rời giáo phận trong thời gian ngắn, trừ khi phải thi hành một nhiệm vụ ngoài giáo phận hoặc khi đi nghỉ, nhưng
kỳ nghỉ
không được quá một tháng (x. Điều 410).
2.5. Một số quyền lợi và nghĩa vụ khác của Giám mục phụ tá
-
Tham dự Công đồng chung
và địa phương
(Điều 339 §1 và 443 §1, 20).
- Thành viên đương
nhiên của Hội đồng Giám mục (Điều 450, §1).
- Thành viên công nghị giáo phận (Điều 463 §1, 10).
- Thành viên của ban tư
vấn (Điều 473 §4).
- Trong lúc tòa giám mục khuyết vị, nếu nhà chức trách có thẩm quyền không ấn định cách khác, thì Giám mục phụ tá chỉ duy trì tất cả những quyền hành và những năng quyền mà ngài có như
vị Tổng Đại diện hoặc vị Đại diện Giám mục, lúc tòa chưa
khuyết vị, cho tới khi tân Giám mục nhậm chức; và nếu không được chỉ định làm Giám quản giáo phận, Giám mục phụ tá phải thi hành quyền mà luật đã ban cho ngài, dưới quyền Giám quản giáo phận là người lãnh đạo giáo phận (Điều 409 §2).
- Khi tòa giám mục bị cản trở (sede impedita) mà
Tòa Thánh không dự liệu cách khác, nếu không có Giám mục phó hoặc ngài bị ngăn trở, thì Giám mục phụ tá có quyền lãnh đạo giáo phận (Điều 413§1).
- Trong lúc tòa giám mục khuyết vị (sede vacante),
việc lãnh đạo giáo phận thuộc quyền Giám mục phụ tá cho tới lúc đặt Giám quản giáo phận (Điều 419).
- Giám mục phụ tá có nhiệm vụ phải thông báo sớm hết sức cho Tông Tòa biết tin Giám mục giáo phận từ trần (Điều 422).
- Giám mục phụ tá vẫn giữ quyền hành Tổng Đại Diện hay Đại diện Giám mục, khi nhiệm vụ của Giám mục giáo phận bị đình chỉ (Điều 481 §2).
- Có quyền giảng Lời Chúa khắp mọi nơi,
kể cả trong các nhà thờ và nhà nguyện của các hội dòng thuộc luật giáo hoàng, trừ khi Giám mục địa phương
đã minh nhiên cấm giảng trong những trường hợp đặc biệt (Điều 763).
- Năng quyền giải tội ở khắp nơi
trên thế giới, trừ khi Giám mục giáo phận từ chối điều đó trong một trường hợp đặc biệt (Điều 967 §1).
- Thừa tác viên thông thường của bí tích Thêm Sức (Điều 882).
- Thừa tác viên của bí tích Truyền Chức Thánh (Điều 1012).
- Thừa tác viên cử hành việc thánh hiến và cung hiến ((Điều 1169 §1 và 1206).
- Thừa tác viên ban phép lành
dành riêng cho các Giám mục
(Điều 1169 §2).
- Có quyền thiết lập cho mình một nhà nguyện tư
và lưu
giữ Thánh Thể tại nhà nguyện tư
của Giám mục (Điều 1227; Điều 934 §1, 20).
- Có quyền tha hình phạt tiền kết do luật thiết lập nhưng
chưa
được tuyên bố ở tòa ngoài, và nếu Tông Tòa không dành riêng
việc giải cho mình, nhưng
chỉ trong khi ban bí tích Giải Tội (Điều 1355 §2).
- Giám mục được dành riêng
cho Đức Giáo Hoàng quyền xét xử trong những vụ án hình
sự (Điều 1405 §1, 30).
- Giám mục được dành riêng
cho Tòa Thượng Thẩm Roma quyền xét xử trong những vụ án hộ sự (Điều 1405 §3,10).
- Người nào dùng vũ lực thể
lý chống lại một người có chức giám mục, thì bị vạ cấm chế tiền kết; nếu người
ấy là giáo sĩ, thì còn bị vạ huyền chức tiền kết nữa (Điều 1370 §2).
“Khi
lợi ích các linh hồn đòi hỏi, Giám mục giáo phận đừng ngần ngại thỉnh nguyện
Thẩm quyền thiết đặt một hay nhiều Giám mục phụ tá phục vụ cho giáo phận và
không có quyền kế vị” (CD, số 26). Giám mục phụ tá tuy được
gọi là “phụ tá” nhưng ngài là “Giám mục của giáo phận”. Nói cách khác,
Giám mục phụ tá được bổ nhiệm là để phục vụ cho nhu cầu mục vụ của giáo phận,
chứ không phải cho riêng cá nhân của Giám mục giáo phận, mặc dù chính Giám mục
giáo phận yêu cầu Tòa Thánh bổ nhiệm (x. Điều 403). Vì chưng, khi tòa giám mục
khuyết vị thì quyền hành của các Tổng Đại diện và Đại diện giám mục đều chấm
dứt, nhưng Giám mục phụ tá vẫn là “Giám mục phụ tá” và giữ nguyên quyền hành
cũng như năng quyền mà ngài đã có lúc tòa chưa khuyết vị, cho tới khi có tân
Giám mục nhận chức (x. Điều 409 §2).
3. Do Giám mục Giáo
phận
Quyền
hạn của Giám mục phụ tá còn do chính quyết định của Giám mục giáo phận.
IV. ĐẬC ÂN GIÁM MỤC
Bộ
Giáo luật hiện hành không nói gì đến các đặc ân giám
mục.
Tuy
nhiên, Điều 349 §1, 20 của Bộ
Giáo luật 1917 quy định:
- Kể
từ khi được Tông Tòa bổ nhiệm, các giám mục có thể mặc áo chùng tím (soutane),
áo choàng tím (mantelet: áo choàng không tay, dài tới
gối), mũ sọ tím (calotte), mũ trái khế tím (barrette).
-
Sau khi được tấn phong, Giám mục được mang thánh giá đeo ngực, nhẫn giám mục,
mũ gầu (mitre), gậy mục tử.
V. NHẬM CHỨC
Giám
mục phụ tá nhậm chức khi ngài trình tông thư bổ nhiệm
cho Giám mục giáo phận trước sự hiện diện của vị chưởng ấn tòa giám mục, và vị
này lập biên bản về việc nhậm chức (Điều 404 §2).
Luy G. Huỳnh Phước Lâm
Linh
mục Tổng Đại Diện
(WGP.Long Xuyên 11.04.2014)