Tội Mại Thánh (simonia) là tội gì?
(conggiao.info) 9/3/2014 Sách Tông Đồ Công Vụ kể chuyện một người phù thủy tên là Simon, từng
làm nhiều trò ảo thuật để mê hoặc dân chúng về “quyền năng vĩ đại” của mình.
Anh này cũng đến nghe các Tông Đồ giảng và
được chịu phép rửa tội. Thấy các
Tông Đồ đặt tay ban ơn Chúa Thánh Thần cho các tín hữu, anh rất thích thú nên
đã ngỏ ý biếu tiền cho các Tông Đồ để xin đặc quyền ban ơn ấy, nhưng đã bị
Thánh Phêrô quở trách nặng nề như sau: “Tiền bạc của anh sẽ tiêu tan luôn với anh, vì anh
tưởng có thể lấy tiền mà mua ân huệ của Thiên Chúa sao?” (Tđcv 8: 9-24). Nghe thế, anh phù thủy kia sợ hãi và van xin Phêrô và Gioan xin Chúa cho anh khỏi
bị án phạt đó.
Từ câu chuyện này, Giáo Hội đã dùng tên anh phù
thủy Simon này để chỉ một loại tội gọi là “Tội mại thánh = simonia) mà
Giáo Luật đã minh nhiên ngăn cấm qua những điều khoản sau đây:
c.149, triệt 3: ”Sự chỉ định chức vụ nhờ việc mại thánh đương
nhiên vô giá trị”. / c.848: ”Khi ban các Bí Tích,
thừa tác viên không được đòi thêm cái gì khác ngoài số tiền thù lao mà nhà chức
trách có thẩm quyền đã ấn định; và phải cẩn thận đừng để những người nghèo
không được lãnh nhận Bí Tích vì lý do túng thiếu”. / c.947: ”Trong vấn đề bổng lễ,
phải xa tránh hoàn toàn mọi hình thức buôn bán hay thương mại”.
Sách Giáo Lý Công Giáo cũng đề cập đến tội này
và ngăn cấm như sau :
c.2121: ”Tội buôn thần bán thánh (simony) là mua hoặc bán
các thực tại thiêng liêng. Pháp sư Simon muốn mua quyền lực linh thiêng ông ta
thấy tác động nơi các Tông đồ, nhưng Phêrô đã trả lời ông: “Tiền bạc của ngươi
hãy hủy hoại đi với ngươi, vì ngươi đã tưởng lấy tiền bạc mà mua được hồng ân
của Thiên Chúa” (Cv 8, 20). Thánh Phêrô đã hành động đúng như lời Chúa
Giêsu dạy: “Các ngươi đã nhận được nhưng không thì cũng hãy ban tặng nhưng
không” (Mt 10,8).
Không thể chiếm lấy các lợi ích thiêng
liêng làm của riêng mình và tùy ý sử dụng như kiểu một người sở hữu chủ hoặc một
ông chủ, bởi vì các ơn ích thiêng liêng này bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có thể nhận được
từ nơi Thiên Chúa, cách nhưng không.
c.2122: ”Ngoài những khoản dâng cúng do thẩm quyền ấn
định, thừa tác viên không được đòi hỏi gì cho việc ban các bí tích, và phải lo
liệu để những người nghèo túng không mất ơn nhận lãnh các bí tích vì cảnh nghèo
khó của họ. Thẩm quyền ấn định ‘các khoản dâng cúng’ này dựa trên nguyên tắc
dân Kitô giáo phải cấp dưỡng cho các thừa tác viên của Giáo Hội “người thợ đáng
được của nuôi thân” (Mt 10,10). ư
Dựạ trên những điều Giáo Hội dạy và ngăn
cấm trên đây liên quan đến “tội mại thánh”, chúng ta cần hiểu rõ những áp dụng cụ thể để
tránh gương xấu về loại tội này trong thực hành.
I- Lý Do Giáo Hội cho phép Giáo sĩ nhận bổng lễ (missarum)
Trước hết, chúng ta cần hiểu rằng mặc dù việc
phục vụ của giáo sĩ là bổn phận thiêng liêng chính yếu của Sứ vụ và Ơn gọi,
nhưng về mặt tự nhiên, giáo sĩ cũng là người như mọi người, nên phải có những nhu
cầu thiết yếu và chính đáng về ăn, ở, thuốc men, quần áo, phương tiên di chuyển
(đặc biệt là nhu cầu xe cộ cho các giáo sĩ làm mục vụ ở Âu Mỹ, Úc và Canada).
Và để thỏa mãn những nhu cầu tối cần này, thì giáo sĩ phải được chăm sóc xứng
đáng để an tâm chu toàn trách nhiệm thiêng liêng của mình.
Vì thế, ở khắp nơi trong Giáo Hội – trừ Việtnam cho đến nay – giáo sĩ (Giám
mục, linh mục) được trả lương tối thiểu (ngân quỹ của Địa phận hay giáo xứ) để
giúp chi phí cho những nhu cầu thiết yếu về ăn, ở, thuốc men và phương tiện di
chuyển.
Khoản tiền lương tối thiểu này nhiều ít khác
nhau từ địa phận này sang địa phận khác, và từ quốc gia này đến quốc gia kia. (Riêng ở Đức, chánh phủ trả lương cho
các giáo sĩ của mọi Giáo Hội như trả lương cho công chức). Ngoài tiền
lương tối thiểu trên, Giáo Hội còn cho phép giáo sĩ được nhận thêm bổng lễ (missarum) cử
hành theo ý của giáo dân xin. (Ở Mỹ, các linh mục phải
khai và đóng thuế lợi tức cuối năm về tiền lương và những bổng lễ, tiền dâng
cúng nhận được, nếu có, trong các dịp rửa tội, chứng hôn và cử hành nghi thức
an táng).
Giáo Hội chăm lo và cho phép nhận bổng lễ dựa
vào lời Chúa dạy sau đây:
- “... Hãy ở lại nhà ấy và người ta cho ăn uống thức gì
thì anh em dùng thức đó vì thợ đáng được trả công” (Lc 10,7).
- “Đi đường, đừng mang bao bì, đừng mặc hai áo, đừng
đi giầy hay cầm gậy, vì thợ thì đáng được nuôi ăn” (Mt 10,10).
- “Anh em không biết rằng người lo cho các thánh vụ
thì được hưởng lộc Đền Thờ, và kẻ phục vụ bàn thờ thì cũng được chia phần của
bàn thờ sao? Cũng vậy Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ
Tin Mừng” (1Cr 9:
13-14).
- “Những kỳ mục thi hành chức vụ chủ tọa cách tốt đẹp,
thì đáng được đãi ngộ gấp đôi, nhất là những người vất vả phục vụ lời Chúa và
giảng dạy.
Quả vậy, Kinh Thánh có nói: Đừng bịt mõm con bò đang đạp lúa, và làm thợ thì
đáng được trả công” (1 Tim 5
: 17-18).
Trên đây là tất cả nền tảng Kinh Thánh cho việc
chăm lo cho đời sống vật chất của giáo sĩ, trong đó có sự cho phép nhận tiền
dâng cúng trong các dịch vụ thánh được trao ban trong Giáo Hội, cụ thể như sau:
1- Bổng Lễ (Missarum = mass stipends): các linh mục
dâng Thánh lễ cầu nguyện theo ý chỉ (Intentio Missae = mass
intentions) của người xin thì được hưởng một bổng lễ theo mức qui
định của Tòa Giám Mục sở tại. Ở Mỹ, nói chung, thì mức
bỗng lễ này là 5 dollars (có nơi qui định 10 đôla) cho đến nay. Chắc chắn không có nơi nào Giáo Quyền cho phép nhận 20, 30 dollars
cho một ý lễ. Qui định này áp dụng chung cho mọi giáo xứ, cộng đoàn tín
hữu trong Địa phận, chứ không chỉ riêng cho linh mục Mỹ ở các giáo xứ Mỹ. Các
linh mục Việt Nam làm việc trong các giáo xứ hay cộng đoàn Việt Nam cũng phải
theo chung qui định này, nghĩa là không ai được phép tự ý miễn trừ cho mình để
có thể lấy bổng lễ gấp đôi, gấp ba tùy tiện.
Tóm lại, linh mục không được phép tự ý đòi
hỏi người xin lễ trả cao hơn mức qui định trên của giáo quyền địa phuơng, vì
như vậy là trái với khoản Giáo luật số 848. Xin nhấn mạnh: linh mục không đượcc phép đòi
bỗng lễ cao hơn mức Giáo quyền địa phương qui định và cho phép; thí dụ đòi 20,
50 hay 100 dollars để dâng một Thánh Lễ hoặc chê ít tiền để từ chối dâng Lễ
giáo dân xin.
Tuy nhiên, nếu vì hảo tâm mà người xin Lễ
tự ý dâng cúng số tiền cao hơn mức qui định thì linh mục được phép nhận mà
không có lỗi gì. Người
xin Lễ cần hiểu rõ điều này để đừng tự ý đưa nhiều tiền xin một Thánh Lễ, rồi
lại nghĩ tại linh mục muốn đòi như vậy. Thực ra, không phải tất cả các linh
mục đều đòi hỏi như thế, trừ người nào có ý vi phạm
giáo luật vì tham tiền cách trái phép mà thôi.
Mỗi Thánh Lễ, linh mục chỉ được hưởng một bổng lễ
mà thôi, và nếu có nhiều người xin Lễ thì linh mục không được phép gom tất cả ý
lễ lại để hưởng trọn mọi bổng lễ trong một Thánh lễ. Nếu vì nhu cầu mục vụ phải
gom chung trong một thánh lễ ngày Chúa nhật thì sau đó, linh mục phải làm bù
lại cho đủ các ý lễ với bổng lễ riêng như Giáo Luật số 948 qui định: “Phải áp dụng từng Thánh
lễ cho mỗi ý chỉ vì đó mà bổng lễ đã được dâng và nhận, cho dù bổng lễ đã nhận
là bé nhỏ”.
Mặt khác, tuy Giáo luật cho phép linh mục nhận
bổng lễ cho mỗi Thánh Lễ, nhưng nếu giáo dân nghèo túng, không có khả năng dâng
cúng thì linh mục cũng được khuyên nhủ phải dâng lễ cầu theo ý người xin dù
không có bổng lễ. (cf.can.945, triệt 2), nghĩa là không bó buộc phải có
bổng lễ, mới dâng Thánh Lễ, vì Thánh Lễ là vô giá (invaluable) không thể mua được
bằng tiền bạc hay của cải vật chất nào.
2- Ban Bí tích, chủ sự lễ cưới, đám tang, làm
phép nhà, xe cộ, tầu bè, nơi buôn bán v.v.
Không có khoản Giáo luật nào cho phép thừa tác
viên có chức thánh (Giám mục, linh mục, phó tế) đòi tiền dâng cúng để ban một
bí tích như Rửa tội, Xưng tội, Thêm sức, Xức dầu bệnh nhân, truyền Chức Thánh,
hay chứng hôn hoặc cử hành nghi thức an táng. Việc dâng cúng, nếu có, là hoàn
toàn do người lãnh nhận bí tích hay dịch vụ thánh tự nguyện (volunteer)
dâng cho, chứ không bị buộc phải làm như vậy.Linh mục có bổn phận phải nói rõ
điều này cho giáo dân hiểu để những người không có tiền nhiều bỏ ra xin lễ,
khỏi phải mặc cảm hay bất mãn vì nghèo túng nên bị thua thiệt.
Nếu thừa tác viên đòi tiền cho bất cứ dịch vụ
thánh nào thì đã hành động ngược với điều Giáo Hội cho phép và biến thừa tác vụ
(ministry)
của mình thành hoạt động thương mại trần tục, và hiển nhiên mắc tội “mại thánh = simonia”.
Ngay cả khi được yêu cầu làm những dịch vụ thánh
khác, như làm phép nhà, cơ sở buôn bán, xe, tầu v.v., giáo sĩ cũng không được
phép đòi trả công nơi người xin và chỉ được phép nhận tiền hay tặng vật dâng
cúng, nếu có, hoàn toàn do lòng hảo tâm của người thụ hưởng tự ý dành cho mà
thôi. Đây là điểm độc đáo khác biệt giữa Giáo Hội Công Giáo và
nhiều giáo phái ngoài Công Giáo. Thí dụ, các linh mục Công Giáo không
được phép đòi các đôi tân hôn hay tang chủ phải trả thù lao
cho việc chứng hôn hay cử hành nghi thức an táng ở nhà quàn hay nghĩa trang,
trong khi các dịch vụ này đòi hỏi phải được trả thù lao ở các giáo phái khác.
Có thừa tác viên (ministers) của giáo phái kia đã đòi
phải trả 200 đollars cho mỗi nghi thức an táng họ cử hành (tiết lộ của nhân
viên nhà quàn Mỹ ở
Riêng về việc thu lệ
phí của các giáo xứ trong việc chuẩn bị và cử hành các bí tích rửa tội, thêm
sức và hôn phối, cần phân biệt mục đích như sau:
Thông thường, nhiều giáo xứ ở Mỹ có thu lệ phí (10, 15, hay 20 đôla) của mỗi gia đình có con em
rửa tội. Lệ phí này giúp trả phí tổn mua nến và áo trắng để
phát cho các trẻ được rửa tội. Nhưng nếu vì nghèo
túng, ai không thể đóng được lệ phí này thì giáo xứ cũng không được phép từ
chối cho lãnh bí tích, vì bí tích không bao giờ được ban vì tiền bạc cả.
Mặt khác, việc dạy giáo lý cho cha mẹ có con em xin rửa tội
là trách nhiệm mục vụ của cha xứ hay linh mục đặc trách. Không hề có luật nào cho phép đòi tiền trong dịch vụ này. Nếu người thụ hưởng tự ý dâng cúng tiền đãi ngộ thì linh mục được
phép nhận. Nhưng nếu đòi phải trả tiền mới cho học và cho lãnh bí tích,
thì đây lại là hành vi mại thánh và rõ ràng muốn gắn
tiền bạc vào điều kiện để lãnh nhận bí tích.
Việc dạy giáo lý và chứng hôn cũng thế. Nếu làm vì tiền thì chắc chắn
là sai trái. Tuy nhiên, cần phân biệt tiền đòi ở đây, khác với lệ phí
giáo xứ thu để tập dượt (rehearsal) cho đôi tân hôn và
cho sử dụng nhà thờ để cử hành bí tích hôn phối hoặc lệ phí phải trả cho ca
đoàn hát lễ cưới.
II- Tội Mại thánh = Simonia = Simony
Việc nhận bổng lễ theo ý và trong khuôn khổ cho
phép của Giáo Hội, hoàn toàn khác với chủ ý đòi bổng lễ để cử hành Thánh lễ hay
ban các Bí tích và làm các dịch vụ thánh khác. Do đó, trước hết trong nội bộ
Giáo Hội, nếu ai để tiền bạc chi phối trong việc tiến cử người vào các chức vụ
lãnh đạo Gíáo phận, Dòng tu, trong việc tuyển chọn và truyền chức thánh, trong
việc nhận và cho khấn Dòng… thì chắc chắn đã phạm tội simonia, làm gương xấu cho người khác,
và làm ô nhục cho Giáo Hội. Những ai đã và đang còn âm thầm
làm việc bất chính này thì hãy chuẩn bị để trả lời trước Chúa công thẳng về tội
“buôn thần bán
thánh” của mình. Trong thực hành, người xin và người làm các
dịch vụ thánh như xin Lễ, ban Bí tích, làm phép người hay đồ vật, cầu nguyện
cho ai với mục đích lấy tiền, thì đó là tội mại thánh đáng bị lên án trong Giáo Hội.
Phải nói ngay ở đây là tiền bạc hay tặng phẩm
vật chất chỉ có giá trị giúp đỡ cho giáo sĩ có chức thánh thi hành nhiệm vụ
thánh trong tinh thần “người phục vụ Bàn Thánh thì được hưởng lộc bàn thờ” (1 Cr 9:13)
như Thánh Phao lô dạy mà thôi, chứ hoàn toàn không hề có giá trị cứu rỗi hay
lợi ích thiêng liêng nào cho ai, nhất là cho các linh hồn nơi luyện tội. Việc cầu
nguyện hay xin Lễ cầu cho các linh hồn là việc bác ái thiêng liêng cao quí rất đáng
khuyến khích trong Giáo Hội, nhưng đừng ai hiểu lầm rằng hễ bỏ ra nhiều tiền,
xin nhiều lễ, thì linh hồn mau được cứu rỗi. Tiền bạc chắn chắn không thể mua
ơn Cứu độ và Nước Thiên Đàng, vì nếu có như vậy, thì người ta khỏi cần sống Đạo
cho hẳn hoi, cứ việc ăn chơi thỏa thích, rồi tiết kiệm nhiều tiền để khi chết,
nhờ người khác xin Lễ cho là xong.
Ngược lại, chúng ta phải hiểu rằng Ơn Cứu Độ
được ban trước hết do lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa và cậy nhờ công
nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô, cộng thêm phần đóng góp của cá nhân vào Ơn Cứu
Độ này khi còn sống trên đời. Nhưng nếu không có lòng thương
xót và công nghiệp của Chúa Cứu Thế Giêsu thì không ai được cứu rỗi, cho dù
người ta có bao nhiêu tiền của và xin bao nhiêu Thánh lễ, nhờ muôn ngàn người
cầu nguyện cho.
Ngược lại, nếu chỉ dựa vào công nghiệp cứu chuộc
của Chúa Kitô thôi và không cộng tác chút nào vào công nghiệp này bằng nỗ lực
cải thiện đời sống theo tinh thần Phúc Âm và thực hành những giới răn căn bản,
thì Chúa không thể cứu ai được, nói chi đến việc nhờ người khác xin Lễ cầu
nguyện thay cho mình. Đây là căn bản tín lý và thần học về việc cứu rỗi (salvation).
Nhân đây, tôi phải nói đến một việc rất
sai trái, đã và đang được làm ở một vài nơi liên quan đến việc xin Lễ cầu cho
các linh hồn. Đó là việc một vài
nhà Dòng, Tu Hội địa phương, đã đưa sáng kiến xin “Lễ đời đời” cho các linh hồn và
nhận tiền hội viên vào “Hội đời đời”, hay mua “hậu” cho những người còn sống. Tôi quả quyết việc làm này hoàn toàn sai thần học và tín lý Công
giáo và mang tính mại thánh rất trầm trọng.
Thật vậy, trước hết, làm sao ta biết một
linh hồn bị phạt đời đời mà còn cầu nguyện cho họ? Theo giáo lý của Giáo Hội thì một người chết
khi đang mắc tội trọng (mortal sin) không kịp ăn năn thống hối và được tha thứ qua
Bí Tích Hòa Giải, thì phải chịu án phạt đời đời trong nơi gọi là hỏa ngục (hell) (cf GLCG, số. 1033-35).
Mặt khác, theo tín điều các Thánh thông công, thì chỉ có sự hiệp thông (communion)
giữa các tín hữu còn sống trong Giáo Hội lữ hành trên trần thế, với các linh
hồn thánh trong nơi luyện tội và các Thánh trên Thiên đàng (cf. SGLCG, n. 962).
Tuyệt đối không có sự hiệp thông nào với những người bị án
phạt đời đời (eternity)
trong hỏa ngục.
Vậy xin và làm Lễ đời đời để cầu nguyện
cho ai? Các linh hồn thánh (holy souls)
chỉ ở trong Luyện tội (Purgatory) có thời hạn, chứ không ở đó vĩnh viễn đời đời,
nên không có lý do gì để “cầu đời đời cho các linh hồn nơi chốn thanh luyện cuối cùng này”.
Sau hết, làm sao người nhận tiền “Lễ đời đời”
có thể sống mãi trên trần gian này để thi hành lời hứa cầu nguyện đời đời cho
các linh hồn ấy? Như vậy, ý niệm cầu
nguyện đời đời là hoàn toàn không có căn bản thần học và nền tảng tín lý nào.
Việc gia nhập “Hội Ðời Ðời” hay “Mua Hậu” cho
người còn sống, cũng là chuyện dối trá, không có căn bản giáo lý, tín lý nào.
Giáo Hội chỉ khuyến khích việc cầu nguyện cho các linh hồn nơi Luyện tội mà
thôi, chứ không dạy mua “bảo hiểm đời sau” cho bất cứ ai còn sống, cũng như cầu cho
những người trong hỏa ngục vì “họ đã bị xa lìa khỏi Thiên Chúa đời đời” rồi (cf. SGLCG, n.1035).
Đối với những người còn sống trên trần thế, thì
chỉ có giới răn của Chúa và giáo lý của Giáo Hội dạy phải biết sống sao cho phù
hợp với những đòi hỏi của Tin Mừng Cứu Độ là mến Chúa, yêu người và cộng tác
với Ơn thánh để được cứu rỗi, chứ không hề có giáo lý, tín lý, giáo luật nào
đòi hỏi hay khuyên nên “khoán trắng” việc rỗi linh hồn của mình cho người khác cầu
nguyện thay cho qua cái gọi là “Hội Đời Đời” hay “Mua Hậu” do
ai chủ xướng với mục đích buôn thần bán thánh. Tôi quả quyết việc làm này là
hoàn toàn sai trái và có tính chất mại thánh nghiêm trọng, để lưu ý những ai,
vì không biết, nên đã tham gia vào việc dối trá này, nhất là nhắc cho những ai
chủ xướng, hãy chấm dứt ngay dịch vụ mại thánh nghiêm trọng này, vì nó hoàn
toàn đi ngược lại với đức tin và giáo lý Công Giáo tinh tuyền.
Cũng trong phạm trù “mại thánh”, không có giáo lý,
giáo luật nào cho phép giáo sĩ từ chối ban Bí tích cho ai, vì lý do không ghi
tên nhập giáo xứ và đóng góp tiền hỗ trợ giáo xứ. Càng không có giáo lý, giáo luật
nào cho phép từ chối cử hành nghi thức an táng nếu
người chết hay tang gia không phải là giáo dân có ghi tên nhập giáo xứ và đã sử
dụng phong bì dâng cúng tiền (collections envelope) cho nhà thờ. Đây là điểm khác biệt căn
bản giữa Giáo Hội Công giáo và nhiều giáo phái Tin lành. Cụ
thể, giáo phái Baptist khai trừ những thành viên nào đã ghi tên gia nhập mà
không đóng tiền dâng cúng đều đặn. Dĩ nhiên, họ sẽ
không còn trách nhiệm gì đối với các thành viên đã bị khai trừ ra khỏi Cộng
đoàn của họ.
Ngược lại, Cha xứ Công giáo không có quyền đe
dọa ai không vào giáo xứ, không dùng phong bì dâng cúng tiền, thì không được
lãnh nhận bí tích và không được hưởng nghi thức an
táng khi chết. Việc ghi tên nhập giáo xứ (registration for membership) chỉ có mục
đích mục vụ (pastoral
care) mà thôi, chứ không phải là điều kiện để lãnh bí tích, hay được
cử hành nghi thức an táng theo giáo luật. Xin nhớ kỹ điều
này.
Cũng xin nói rõ thêm là việc xin Lễ cầu nguyện
cho các linh hồn được khuyến khích trước hết để nói lên sự hiệp thông giữa các
linh hồn nơi luyện tội (Purgatory) và các tín hữu còn sống trong Giáo Hội lữ hành,
cũng như với các thánh nam nữ trên Trời, như Tín điều các thánh thông công dạy.
Ngoài ra, xin lễ cầu cho kẻ chết cũng nói lên lòng bác ái
thiêng liêng giữa người còn sống và kẻ đã qua đời, và chắc chắn việc bác ái này
có ích lợi cho các linh hồn nơi luyện tội.
Nhưng tuyệt đối không có vấn đề phải xin lể với
bổng lễ to, phải được rao tên trước Cộng đoàn, hay phải kéo nhiều chuông, bật
nhiều đèn thì sẽ được hưởng ơn ích thiêng liêng nhiều hơn là một thánh lễ làm
âm thầm, không bỗng lễ, không rao, không chuông, đèn nến. Nói khác đi, xin một
Thánh lễ với bổng lễ 5 dollars hay 50,000 dollars để cầu cho ai, hay cho việc
gì, thì chỉ có giá trị về mặt trợ giúp vật chất cho Thừa tác viên cử hành, chứ không có giá trị thiêng liêng nào cho người thụ hưởng
lợi ích của Thánh lễ đó. Ơn thánh Chúa ban cho người thụ hưởng nhờ lời cầu
nguyện của Giáo Hội, là nhưng không (gratuitous), nghĩa là không lệ thuộc
vào bổng lễ ít nhiều của người xin.
Như vậy, đừng ai bao giờ nghĩ rằng xin lể hay
xin cầu nguyện với bổng lễ to thì có hiệu lực thiêng liêng nhiều hơn bổng lễ
nhỏ hay không có bổng lễ. Nếu xin với ý này thì đó là “muốn dùng tiền của để
mua ơn thánh”, để mua Nước Trời, và như vậy là mắc tội “mại thánh”
về phía người xin. Ngược lại, về phía người làm (thừa tác viên), nếu
gián tiếp hay trực tiếp gây cho giáo dân ngộ nhận rằng xin lễ xin cầu nguyện
với bổng lễ to, sẽ được nhiều ơn ích thiêng liêng hơn bổng lễ nhỏ, thì cũng
phạm tội mại thánh cách chắc chắn. Việc có rao tên, có kéo
chuông, và đốt nhiều đèn nến, không có giá trị thiêng liêng nào trước mặt Chúa,
mà chỉ có tác dụng phô trương trước mặt người đời mà thôi.
Cũng xin nói rõ là theo
Lễ Qui phụng vụ của Giáo Hội, thì có ba bậc cử hành sau đây:
1- Lễ Trọng (solemnity): dành cho những
dịp đặc biệt như Lễ Chúa Giáng Sinh, Lễ Phục Sinh, Lễ Chúa Ba Ngôi,…Lễ Đức Mẹ
Vô Nhiễm, Đức Mẹ Hồn Xác lên Trời, Lễ Thánh Giuse 19/3, Lể Kính hai Thánh
Phêrô-Phaolô, Thánh Gioan Tẩy Giả (24/6),…
Lễ Trọng có 3 bài đọc, có Kinh Tiền Tụng
(Preface) riêng và phải đọc kinh Sáng Danh (Gloria), Kinh Tin Kinh (Creed).
2- Lễ Kính (Feast): dành để kính các Thánh
quanh năm và một số dịp đặc biệt như kỷ niệm cung hiến Thánh Đường v. v.…
Lễ kính chỉ có bài đọc một và bài Phúc âm,
đọc Kinh Sáng danh, nhưng không đọc kinh Tin kính.
3- Lễ nhớ (memorial): trong mọi dịp ngoài
hai trường hợp nói trên. Lể nhớ không phải đọc kinh Sáng Danh
và kinh Tin Kính, và chỉ có 2 bài đọc.
Sự phân chia này chỉ nhấn mạnh ý nghĩa quan
trọng hay đặc biệt của mỗi dịp cử hành, chứ không nói lên giá trị khác biệt về
phụng tự vì mọi Thánh Lễ đều là Hy Tế của chính Chúa Giêsu và là hành động tạ
ơn, ngợi khen Thiên Chúa Cha mà Giáo Hội nhờ Chúa Giêsu dâng lên Ngài qua việc
cử hành Thánh Lể. Do đó, mọi Thánh Lễ đều có giá trị tuyệt đối và không thể đo
lường được bằng tiền bạc.
Ngoài ba trường hợp đặc biệt nêu trên, mọi lễ
cầu nguyện theo ý người xin đều có chung một bậc là lễ
nhớ, chứ không hề có bậc nhất, bậc nhì, bậc ba với giá tiền khác nhau như đã có
sự lạm dụng ở nhiều nơi từ xưa đến nay. Việc tự ý phân chia bậc
trong lễ cầu cho các linh hồn, kèm thêm nhửng thủ tục như rao tên người xin lể,
kéo chuông trước sau Lễ, đốt thêm đèn nến trong nhà thờ, chỉ là hình thức bề
ngoài, không có giá trị thiêng liêng nào. Tệ hại hơn
nữa, là nếu tạo ra những hình thức này để lấy thêm tiền và gây nhộ nhận về giá
trị thiêng liêng, thì đó chắc chắn là việc làm có nội dung mại thánh cần phải
tránh.
Tóm lại, Thừa tác viên không bao giờ được
phép cử hành thánh lễ hay ban một bí tích nào để lấy tiền cả. Giáo dân cũng không được dùng
tiền của để mua ơn thánh. Do đó, phải lên án và xa tránh mọi việc “buôn thần bán thánh”,
tức tội simoniatrong
việc cử hành các Bí Tích và mọi dịch vụ thánh khác trong Giáo Hội.
Việc dâng cúng tiền bạc hay tặng vật của giáo
dân cho các giáo sĩ thi hành quyền thánh (sacra potestas), phải là hành động tự
nguyện (voluntary)
do lòng biết ơn và hảo tâm, chứ không phải là việc bắt buộc, một sự đổi chác có
tính thương mại. Ai làm với mục đích này thì rõ rệt đã mắc
tội mại thánh (simonia).
Là Dân Chúa trong Giáo Hội, và với thiện chí xây
dựng cho Giáo Hội ngày thêm tinh tuyền, thánh thiện, để phúc âm hóa hữu hiệu
người khác, chúng ta cần lưu ý điều này để tránh gương xấu có hại cho uy tín
của Giáo Hội, của hàng giáo sĩ thừa tác đang xả thân phục vụ cho giáo dân ở trong
nước cũng như hải ngoại. Chắc chắn đây chỉ là gương xấu rất
hạn chế, chứ không phổ biến trong Giáo Hội, vì đại đa số giáo sĩ ở khắp mọi nơi
đều ý thức rõ gương xấu này và không hề dung túng hay lạm dụng trong khi thi
hành sứ vụ thánh của mình.
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn