Micae-Phaolô
Trần Minh Huy pss
NHÀ ĐÀO TẠO TÂM HUYẾT HÔM NAY
(Trao đổi với
Nhóm Huấn Luyện Liên Dòng Nữ
thuộc Tổng Giáo
Phận Hà Nội tại Bùi Chu 23-27/9/2009)
Slideshow
mở đầu: BÀN TAY
Sáng tác: Thanh Thiên Giang - Tiếng hát: Lệ Hằng
Bàn tay, bàn tay chia sẻ áo cơm.
Bàn tay, bàn tay phân phát niềm tin.
Bàn tay, bàn tay xây đắp hòa bình.
Bàn tay, bàn tay xoa dịu vết thương.
Bàn tay em năm ngón kiêu sa.
Bàn tay anh năm ngón đậm đà.
Bàn tay em mềm mại thiết tha.
Đem bác ái rộng tình bao la.
Bàn tay anh chân chất tinh hoa.
Hãy công bằng rộng lượng thứ tha.
Ôi bàn tay bao nét đẹp của chúng ta.
Hãy kết thành trăm triệu bông hoa.
Để dâng lên Thiên Chúa tiếng ca.
Cùng bàn tay đơn hèn tôi tá.
Xin Chúa dùng tay con như là,
Một bản truyện tình yêu bao la.
Bàn tay, bàn tay giúp người bơ vơ.
Bàn tay, bàn tay ôm ấp trẻ thơ.
Bàn tay, bàn tay cho khách trọ nhờ.
Bàn tay, bàn tay rửa sạch vết nhơ.
Bàn tay em năm ngón kiêu sa.
Bàn tay anh năm ngón đậm đà.
Bàn tay em mềm mại thiết tha.
Đem bác ái rộng tình bao la.
Bàn tay anh chân chất tinh hoa.
Hãy công bằng rộng lượng thứ tha.
Ôi bàn tay bao nét đẹp của chúng ta.
Hãy kết thành trăm triệu bông hoa.
Để dâng lên Thiên Chúa tiếng ca.
Cùng bàn tay đơn hèn tôi tá.
Xin Chúa dùng tay con như là,
Một bản truyện tình yêu bao la.
Bàn tay, bàn tay chắp nguyện thiết tha.
Bàn tay, bàn tay xin Chúa dủ thương.
Bàn tay, bàn tay tha thiết van nài.
Lạy Cha, lạy Cha xin Ngài thứ tha.
Bàn tay em năm ngón kiêu sa.
Bàn tay anh năm ngón đậm đà.
Bàn tay em mềm mại thiết tha.
Đem bác ái rộng tình bao la.
Bàn tay anh chân chất tinh hoa.
Hãy công bằng rộng lượng thứ tha.
Ôi bàn tay bao nét đẹp của chúng ta.
Hãy kết thành trăm triệu bông hoa.
Để dâng lên Thiên Chúa tiếng ca.
Cùng bàn tay đơn hèn tôi tá.
Xin Chúa dùng tay con như là,
Một bản truyện tình yêu
bao la.
BỐI CẢNH CỦA CUỘC TRAO ĐỔI
VATICAN SẼ KINH LÝ CÁC DÒNG TU NỮ
CNA ngày 7/8/2009 đưa tin rằng Vatican
sẽ kinh lý các Dòng nữ khắp nước Mỹ. Ngày 28/7/2009, Mẹ M. Clare Millea, người
chỉ đạo cuộc kinh lý, đã gửi Nghị trình làm việc (Instrumentum Laboris). Cuộc
kinh lý nhằm khuyến khích các Dòng suy tư về
lòng trung thành với các đặc sủng nguyên thủy và việc tuân giữ Công Đồng Vatican II. Các chủ đề, các câu hỏi,
các điều tra và các suy tư nhằm:
·
Căn tính đời sống
tu trì
·
Việc cai quản và
quản trị tài chánh
·
Đời sống thiêng
liêng: Thánh Lễ hằng ngày và việc xưng tội
thường xuyên có phải là một ưu tiên?
·
Dòng diễn tả Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch đời sống thiêng liêng và cộng
đoàn ra sao?
·
Phụng Vụ Các Giờ Kinh?
·
Đời sống cộng đoàn:
cách thức ăn mặc của Dòng và những chăm sóc
dành cho các Nữ Tu cao tuổi và đau ốm.
·
Việc xúc tiến ơn
gọi: tiếp nhận và đường lối đào tạo / Tương lai của Dòng
·
Hiểu và biểu hiện
ra sao Ba lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời?
·
Dòng có định chuyển sang một hình thức đời sống tu trì mới không? Nếu có, thì hình thức mới này có liên hệ đặc thù ra sao với sự hiểu biết của
Giáo Hội về đời sống tu trì?
Ba
điỂm nhẤn cỦa cuỘc trao đỔi:
A.
Hướng tới mục tiêu
của con người và sứ vụ đào tạo
B.
Những bất cập và
thái quá trong con người và sứ vụ đào tạo
C.
Tái định hướng đời
sống và sứ vụ đào tạo
A.
HưỚng tỚi mỤc tiêu
cỦa
con ngưỜi và sỨ vỤ đào tẠo
1. Nhận định tổng quát
Một
sự thật thực tế ai cũng phải nhìn nhận: Tất cả chúng ta đang có mặt đây đều là
những người được Bề Trên tín nhiệm giao cho trọng trách đào tạo các thế hệ tu sĩ
tương lai. Chúng ta phải đào tạo họ theo ý muốn của Thiên Chúa, theo giáo huấn
của Giáo Hội, theo đặc sủng và linh đạo riêng, cũng như sứ mệnh tông đồ của
Dòng mình.
Nhưng
trước khi là nhà đào tạo, chúng ta đã trải qua những thời gian dài được đào
tạo, với đủ mọi tình huống đa dạng, có những lúc rất bình an hạnh phúc, nhưng
cũng có những lúc rất khó khăn, tùy ở tính khí và cách thức của các nhà đào
tạo. Chúng ta đã cảm thấy có cái gì đó “trắc trở” về cả hai phía, có những kỷ
niệm ngọt ngào an ủi, nhưng cũng có những kỷ niệm đắng cay nặng lòng. Nhưng một
điều chắc chắn là các nhà đào tạo đi trước muốn đào tạo chúng ta nên những con
người tốt, những tín hữu tốt, những tu sĩ tốt. Và đó cũng chính là điều chúng
ta hôm nay muốn mang lại cho những người được trao phó cho chúng ta, mà chúng
ta không muốn để những nỗi đau đã qua làm lòng mình xơ cứng và trở nên vô cảm
trước những nỗi đau của những người thụ huấn của chúng ta.[1]
Một
khi có trách nhiệm và đã bắt tay vào việc, chúng ta cảm thấy việc đào tạo người
trẻ hôm nay khó hơn việc chúng ta được đào tạo ngày trước. Và có những người dự
đoán rằng việc đào tạo càng ngày càng khó hơn vì ảnh hưởng của tâm thức thời
đại, của các điều kiện và hoàn cảnh xã hội bên ngoài, về phía các nhà đào tạo
cũng như về phía các ứng sinh.
Có
thể nói thời bấy giờ khả năng và phẩm chất của các nhà đào tạo có trọng lượng
và uy tín trên ứng sinh hơn bằng một khoảng cách rất lớn (magis-ter: hơn ba
lần). Thêm vào đó, phương pháp đào tạo được áp dụng dựa trên luật lệ rất nghiêm
minh, tạo nên một khoảng cách rõ rệt biểu lộ một niềm tôn kính cao, kèm theo sợ
hãi. Trái lại, ngoài các yếu tố tâm thức và xã hội tự do bình đẳng thế tục,
người trẻ hôm nay được học hành và khả năng chuyên môn cao hơn, có người còn
cao hơn cả chúng ta, nhưng lòng đạo đức và tinh thần siêu nhiên kính trên
nhường dưới có thể lại kém đi (mặt bằng tri thức rộng nhưng thiếu chiều sâu đạo
đức). Phương pháp đào tạo hôm nay lại hướng về đồng hành, gần gũi, đối thoại,
trao đổi, “thương lượng”... đang khi chúng ta còn thiếu cái “tâm đào tạo”,
thiếu trọng lượng của uy tín được tâm phục và nhiều lúc chúng ta vẫn bị cám dỗ
hành xử quyền bính.
Công
cuộc đào tạo vốn đã khó khăn thì ngày nay càng khó khăn phức tạp hơn nữa. Nhưng
những khó khăn đó có thể vượt qua được, khi mỗi người và mỗi thế hệ quyết định
biến những giá trị lớn lao trong quá khứ thành của mình và đổi mới bản
thân bắt nhịp với bước đi của Ơn Thánh và khoa sư phạm tân tiến. Chúng ta hãy
khích lệ nhau rằng việc càng khó càng có giá trị. Hơn nữa, chúng ta sẽ không
đơn độc, vì công cuộc đào tạo là việc của muôn người và của muôn đời, trong nỗ
lực cộng tác với ơn trợ giúp không thể thiếu của Chúa. Chính Ngài mới là nhà
đào tạo đích thực và gương mẫu cho chúng ta noi theo, để tự đào tạo chính mình
thành nhà đào tạo có khả năng và tâm huyết, có cái tâm đào tạo như Chúa Giêsu,
và có cả những kỹ năng cần thiết, để cho sứ vụ của chúng ta được hiệu quả hơn.
Chúng
ta phải chấp nhận giới trẻ ngày nay không giống như chúng ta hồi còn trẻ và
nhìn nhận ứng sinh có quyền có được người đồng hành tốt nhất giúp họ tự biết
mình là ai, hầu trở thành người tu sĩ quân bình và bền vững qua mọi tình huống
đời sống và sứ vụ.
Nhà
Dòng được lập ra để đón nhận và đào tạo những con người muốn trở thành tu sĩ
của Thiên Chúa, nên việc đào tạo phải diễn ra trong đức tin và lòng nhân hậu.
Việc đào tạo ngày nay tuy làm chung với nhiều người và cho nhiều người, nhưng
phải chú trọng đến từng cá nhân, với từng hoàn cảnh cụ thể, để hướng họ tới đời
sống cộng đoàn tốt hơn (x. Tiến trình mài giũa của những viên đá trơn tru bóng
láng dưới các dòng suối).
Những
ai tin vào Chúa Kitô càng có thêm động lực mạnh mẽ để không sợ hãi, vì Thiên
Chúa không bỏ rơi chúng ta, và tình yêu của Ngài luôn đến với chúng ta trong
trách nhiệm và trong thân phận yếu đuối con người của chúng ta, để giúp chúng
ta đào tạo nhân sự tương lai của Hội Dòng và của Giáo Hội.
Quả
thế, Chúa Giêsu là người đầu tiên được Chúa Cha sai đi chia sẻ tình thương cứu
độ và qui tụ toàn thể thế giới tạo thành về lại cho Chúa và Ngài đã chu toàn sứ
vụ của mình. Nay Giáo Hội và mỗi người chúng ta được mời gọi tiếp tục sứ vụ của
Chúa Giêsu, liên tục từ thế hệ này qua thế hệ khác, làm cho Ngài được nhận biết
và yêu mến.
Làm nhà đào tạo
phải là một ơn gọi đặc biệt Chúa ban xuyên qua tiến trình:
·
Chúa mời gọi và
chúng ta được xác nhận qua sự trạch cử của Thẩm quyền hữu trách;
·
Chúng ta sẵn sàng
đáp lại ơn gọi và sự trạch cử khó khăn và tế nhị này, không hề có miễn cưỡng,
về phía chúng ta cũng như về phía thẩm quyền;
·
Chúng ta cam kết đi
theo mẫu gương và đường lối đào tạo của Chúa Giêsu Mục tử nhân hậu;
·
Chúng ta dần dần
biến đổi và điều chỉnh chính mình cho phù hợp với giáo huấn của Chúa, Giáo Hội
và linh đạo Dòng trong việc đào tạo các ứng sinh;
·
Chúng ta quyết tâm
kiên trì chu toàn sứ vụ đã nhận lãnh trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Song
song với việc thực thi nhiệm vụ đào tạo ứng sinh các cấp, chúng ta còn có một
nhiệm vụ kép:
- Lưu ý tuyển chọn và tài bồi những
nhà đào tạo tương lai sẽ thay thế chúng ta, qua tiến trình: dạy cho họ làm, giúp
họ làm, để họ làm, mình rút lui vì đã hoàn thành sứ mệnh;
- Vừa cập nhật việc đào tạo chính
mình, nâng cao phẩm chất con người và sư phạm bằng khiêm tốn học hỏi với người
trên, với đồng nghiệp và với cả những người đang được chúng ta đào tạo, khi
khơi gợi và lắng nghe những thao thức và trông đợi của họ, dù còn nhiều chủ
quan, phiến diện và sai lầm.
Chúng
ta cố gắng chia sẻ với nhau về những khí cụ cần thiết của con người và sứ vụ
của chúng ta để đạt tới mục tiêu đào tạo mọi người mong muốn.
2. Cần những nhà đào tạo
phẩm chất
Ngoài
đời, người ta đầu tư rất lớn cho việc đào tạo nhân sự của họ. Nhà tu chúng ta
cũng cần đào tạo các nhà đào tạo chất lượng để đào tạo nhân sự của mình. Và nhà
đào tạo phải có lòng khiêm nhường ý thức giới hạn và yếu đuối của mình để tin
tưởng vào Chúa, trong tinh thần hài hước rộng lượng để sẵn lòng đào tạo những
con người bất toàn.
Tìm
người dạy học tốt đã khó, tìm nhà đào tạo phẩm chất còn khó hơn nhiều, nhất là
trong lãnh vực đời sống thánh hiến, nhà đào tạo phải sống gương mẫu vì “lời nói
lung lay, gương bày lôi kéo”: dạy điều mình tin và sống điều mình dạy[2],
trong tinh thần hiệp thông và vâng phục đối với đặc sủng và linh đạo của Hội
Dòng, đối với Giáo Hội và kế hoạch của thánh ý Chúa, như ĐTC Phaolô VI đã nói:
“Người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào
thầy dạy là vì các thầy dạy đó là những chứng nhân.”
Nhiều
nhà đào tạo tự cảm thấy mình chưa được trang bị đầy đủ và thích hợp cho việc
đào tạo người trẻ hôm nay, cả về phương diện kỹ năng lẫn phương diện phẩm chất,[3]
vì người trẻ hôm nay rất lý tưởng và đòi hỏi, nhưng rất thiếu kinh nghiệm trưởng thành, lại dòn
mỏng, dễ bị hoàn cảnh xã hội bên ngoài tác động lôi cuốn. Tu sĩ trẻ bây giờ
chịu sức ép lớn hơn, nhưng sức đề kháng cũng mong manh hơn. Tuy nhiên, họ không
thích chúng ta so sánh thời xưa của chúng ta với thời nay của họ, dù để chê bai
hay để làm mẫu. Họ không thích lấy tiêu chuẩn của thời trước để đánh giá thời
này, dù không biết có còn hợp hay không.
Nơi
nhà đào tạo có hai nhiệm vụ khác biệt nhưng liên đới với nhau: giảng dạy và đào
tạo. Giảng dạy nhằm soi sáng trí tuệ, chuyển giao kiến thức chuyên môn, trong
khi đào tạo nhằm biến đổi tận thâm sâu ứng sinh, giúp họ có khả năng đáp ứng
lại những đòi hỏi của ơn gọi đời sống thánh hiến. Vì thế, nhà đào tạo được mời
gọi chu toàn các nhiệm vụ này:
·
Làm
chứng nhân của Chúa
·
Hiệp
thông và cộng tác với nhóm đào tạo
·
Quí
ơn gọi và thương ứng sinh với con tim mục tử
·
Làm
cho ứng sinh thấy sức hấp dẫn của ơn gọi
·
Khích
lệ ứng sinh chấp nhận những đòi hỏi của ơn gọi
·
Giúp
ứng sinh nhận ra con người thật của mình với những điểm mạnh điểm yếu, thuận
lợi và cản trở; đồng thời chỉ đường dẫn lối giúp họ vượt thắng và trung thành.
Một
người dạy học tốt (có trình độ và bằng cấp chuyên môn cao) không hẳn là một nhà
đào tạo tốt. Nhưng một nhà đào tạo dày kinh nghiệm đào tạo có thể đồng thời
cũng là một người dạy học tốt. Công việc đào tạo là một nghệ thuật, và là một
ơn ban của Chúa, đòi hỏi những khả năng tự nhiên và những khả năng sư phạm thủ
đắc nhờ kinh nghiệm và học hỏi liên tục. Nói tóm lại là cần có “cái tâm đào
tạo.”
Làm
sao kiến tạo sự hiệp nhất nơi một cộng đoàn có nhiều cá tính, có khi đối lập và
xung đột? Làm sao góp ý mà người nghe vui vẻ sửa mình? Làm sao biết dùng người
đúng chỗ hầu phát huy được toàn bộ tiềm năng của họ? Làm sao cộng đoàn giữ
nghiêm kỷ luật mà không bị căng thẳng? Làm sao cộng đoàn đang nguội lạnh được
lửa nhiệt tình hâm nóng? Những câu hỏi đó thúc đẩy các nhà đào tạo cần được
huấn luyện và tự huấn luyện nghiêm túc, hiểu biết về tâm lý, sinh lý, thiêng
liêng, linh đạo, triết học, thần học, Thánh Kinh và cả khoa học nữa. Tầm hiểu
biết càng rộng càng dễ đưa ra những nhận xét quân bình hơn về một con người, về
một biến cố, về một tình huống.
3. Tâm hồn đào tạo
Người
có tâm hồn đào tạo yêu người và yêu nghề đào tạo, giống như Chúa Giêsu: cứu
giúp người chứ không loại bỏ người, có cắt tỉa là để sinh nhiều hoa trái hơn:
tha thứ lỗi lầm, nâng đỡ đứng dậy, giúp bền vững tiến lên, tin tưởng vào sự
biến đổi tốt đẹp trong tương lai... “Hãy học với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm
nhượng thật trong lòng... Người sẽ không cãi vã, không la lối, chẳng ai nghe
thấy tiếng Người giữa phố phường. Cây
lau bị giập, Người không đành bẻ gãy; tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt đi,
cho đến khi đưa công lý đến toàn thắng, và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh
Người” (x. Mt 12, 19-21).
Người
có tâm hồn đào tạo luôn tạo điều kiện và cơ hội cho cái tích cực lớn dần lên
mãi cho đến khi thành nhân đức và cái tiêu cực nhỏ dần xuống mãi cho đến khi bị
triệt tiêu. Người có tâm hồn đào tạo giúp giết chết dần dần con người trần tục
trong ứng sinh để con người thiêng liêng lớn dần lên trong chính họ, một đàng
phải lớn lên và đàng kia phải nhỏ lại: “Chúa Kitô phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ
lại.”
Nhà
đào tạo có một thiên hướng bẩm sinh, một ơn gọi đặc biệt Chúa ban và một lòng
yêu thương cũng đặc biệt đối với người thụ huấn. Một khi có được những thứ đó
và được Bề trên trao trọng trách đào tạo, nhà đào tạo sẵn sàng đáp lại với lòng
yêu nghề, chứ không miễn cưỡng nhận nhiệm vụ, và Bề trên cũng không nên ép buộc
nhận, kẻo họ sẽ không hết lòng mà để gặp chăng hay chớ, trực tiếp thiệt hại cho
ứng sinh, để tự đào tạo chính mình theo gương mẫu Chúa Giêsu, là nhà đào tạo
tuyệt hảo và vị mục tử nhân lành, với một sự nhạy bén khiêm tốn để học hỏi với
Bề trên, với đồng nghiệp, và học hỏi với cả các người thụ huấn của mình nữa,
dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần. Càng làm việc đào tạo, người ta càng trở
nên nhà đào tạo hơn, khi biết vận dụng cả những thành công lẫn những thất bại
của chính mình, cũng như của người thụ huấn.
Người
có tâm hồn đào tạo quan tâm nỗ lực làm lớn lên mãi phần thiên hướng đào tạo bẩm
sinh của mình, tuy nhỏ bé. Người có tâm hồn đào tạo luôn nỗ lực khởi động cái
“nhân chi sơ tính bản thiện” của ứng sinh. Socrate dùng kích biện pháp, hay nói
nôm na là phương pháp hộ sinh: không phải vị y/bác sĩ mang thai và sinh con, mà
chính là người thiếu phụ; vị y/bác sĩ giúp người thiếu phụ cho ra đời đứa con
của chính mình; nhà đào tạo đóng vai vị y/bác sĩ đối với tư duy, chọn lựa, và
quyết định của ứng sinh. Còn cha Gioan Bosco dạy phải lôi ra những điều ứng
sinh có trong lòng mà chính họ không biết, lôi ra những đức tính cao cả, đánh
thức những tiềm năng đang ngủ, những bí mật thâm sâu của tâm hồn con người để
đào tạo ứng sinh thành con người trưởng thành toàn vẹn vừa nhân bản (trần thế)
vừa thiêng liêng (thần linh).
4. Hai mô hình đào tạo[4]
a. Mô hình đào tạo dựa trên luật lệ:
Nói
đến luật lệ là làm người ta thường nghĩ ngay đến quyền lực, đến khả năng đạt
được những gì mình muốn và ngăn chận những gì mình không muốn. Và mặt trái của
quyền lực là có thể trở nên cưỡng bức, áp đặt, độc tài để đạt được nhiều kết
quả hơn dựa vào đe dọa và thao túng người khác bởi mánh khoé và thủ đoạn hầu
bảo đảm thắng lợi, hoặc ít nhất để khỏi bị thất bại. Do đó, con người thường
tìm kiếm quyền lực cá nhân cho mình trong khi điều khiển và kiểm soát những
người khác, cũng như tiền bạc và các nguồn thông tin.
Theo
mô hình này, nhà đào tạo đưa ra những luật lệ rất rõ ràng chi tiết, kèm theo
những hình phạt tương xứng cho những ai vi phạm. Ứng sinh cứ thế mà thi hành
dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt của nhà đào tạo. Sự hiện diện của nhà đào tạo và
các cộng sự viên có tính cách nhắc nhở giữ luật và đe dọa hình phạt. Họ luôn
mang bộ mặt nghiêm nghị, cư xử cứng rắn, lời nói đanh thép. Quả thế, có những
hiện diện mang lại bình an và an toàn, nhưng cũng có những hiện diện gây thương
tích và mất mát, mất cả không gian và thời gian sống, có khi mất mát cả cuộc
đời của ai đó. Có những hiện diện như kẻ xa lạ, vì sống bên nhau mà không quan tâm, không để ý
đến nhau, không hiểu nhau, không thương nhau, không cần đến nhau, như nước mây
hửng hờ... Có những hiện diện dò xét, soi mói, gây xáo trộn, lo âu, sợ hãi,
khiến người khác không còn hưởng được một cuộc đời bình an.
Nhưng
mô hình đào tạo dựa trên luật lệ này dễ hấp dẫn nhà đào tạo vì thấy kết quả tức
thời trước mắt, mọi việc đều xuôi chảy ngăn nắp, trật tự đâu vào đấy, tất cả
đều răm rắp nghe theo và thi hành luật lệ, nhà đào tạo đỡ vất vả và tốn công
sức. Có một khoảng cách rõ rệt ngăn cách giữa đôi bên. Ứng sinh nhìn nhà đào
tạo với ánh mắt sợ sệt, tránh né, không mấy tự nhiên và thiện cảm khi phải đến
gần. Mọi việc làm vì luật buộc hay vì sợ phạt, nên tìm cách luồn lách, tránh
khỏi bị bắt quả tang lỗi phạm. Do đó từ sợ hãi có thể đi đến xa cách, kính nhi
viễn chi, oán ghét khi bị bắt lỗi và bị phạt với nhục hình, xấu hổ; nhất là khi
bị loại, bị đuổi thì không bao giờ trở lại nữa, vì “xấu quá hóa giận, giận quá
hóa thù.”
b. Mô hình đào tạo đồng hành yêu thương:
Chớ
gì đừng ai hiểu rằng mô hình đào tạo đồng hành không có luật lệ, qui tắc. Không
thể có điều đó, vì dù chỉ có hai người thôi thì đã phải có qui ước ràng buộc để
có thể sống hòa điệu tốt đẹp với nhau được. Điều khác biệt ở đây là luật lệ và
qui tắc không có tính cách áp đặt mà là tự nguyện, được thiết lập, giải thích
và thuyết phục, cùng đồng thuận chấp nhận và thi hành. Có thể nói sức mạnh của
quyền lực chuyển về tình yêu tự nguyện.
Kitô
giáo biến đổi quan niệm về quyền lực: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ, ai muốn làm đầu
anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10, 43-44). Chúa Giêsu làm nổi bật cái nghịch lý đó: Lúc Ngài thực sự
đầy quyền lực là khi quỳ xuống rửa chân cho môn đệ và khi bị treo trên thập
giá.
Chúng
ta học được cách này từ Thiên Chúa, Ngài luôn lấy tình yêu để dạy dỗ, chữa lành
và cứu vớt; Ngài sai chính Con Ngài đến trần gian không phải để luận phạt, nhưng
để cứu chữa và nuôi sống (x. Ga 3,16-17; 10,10). Thiên Chúa đi bước đầu trong
giao ước với con người, không áp đặt, không bó buộc, mà là một lời mời gọi chờ
lời đáp trả với tự do và tình yêu, một đối thoại và đồng thuận của đôi bên.
Chúng ta có thể lấy ví dụ cách cư xử của Thiên Chúa đối với tiên tri Giona và
dân thành Ninivê; nhất là với cuộc nhập thể của Chúa Giêsu, Đấng Emmanuel,
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, để hiểu thấu tính cách đồng hành gần gũi, thân
tình.
Mô
hình đào tạo đồng hành này khó và rất vất vả, phải có tâm huyết và nhiều kỹ
năng sư phạm, nhiều kinh nghiệm và nhẫn nại, chịu khó và hy sinh, nhất là ơn
Chúa và tình thương của Chúa mới có thể theo đuổi được. Bởi vì để biến đổi và
thăng tiến ứng sinh, trước hết nhà đào tạo phải biến đổi chính mình, phải đi
vào tiến trình phản tỉnh, suy tư về chính mình nhằm làm cho chính mình được lớn
lên trong sự đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, Đấng luôn đồng hành với mỗi
người.
Đồng
hành là cùng đi, là luôn có mặt, là luôn hiện diện, và sự hiện diện của nhà
đào tạo phải như một quà tặng cho ứng sinh. Thật thế, giữa đêm tối trên
biển cả, các tông đồ hoảng sợ, Chúa Giêsu lên tiếng “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ !” (Mc 6,50). Sự hiện diện của
Chúa đem lại an lòng, ấm áp, hạnh phúc và bình an. Sự hiện diện của nhà đào tạo
như một quà tặng khi biết để ý tới niềm vui, nỗi buồn, nỗi lo, niềm thao thức,
hy vọng hay cả những thất vọng của ứng sinh, khi sống có tấm lòng, có tình
nghĩa với họ, luôn biểu lộ sự hiền lành, tươi cười, niềm nở qua lời nói, nét mặt.
Chúa Giêsu mời gọi “Hãy học cùng Ta vì Ta
hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11, 29).
Phương
pháp đào tạo đồng hành cần có sự thân tình, tin tưởng và yêu thương. Như Chúa
Giêsu đi bước trước tới nhà ông Gia-kêu, nhà đào tạo sẵn sàng đi bước trước đến
với ứng sinh để tạo bầu khí thân tình, gần gũi, đối thoại, lắng nghe, nhờ đó mà
đưa tới sự biến đổi, vốn là mục tiêu của đào tạo: biến đổi người xấu thành
người tốt, biến đổi người tốt thành người tốt hơn, và thành thánh nhân. Cuộc
đồng hành “tiếp lửa” của Chúa Giêsu với hai môn đệ trên đường Êmau cũng là một
kiểu mẫu cho phương pháp đào tạo đồng hành giữa nhà đào tạo và ứng sinh. Phương
pháp này đòi hỏi nhà đào tạo cùng tham dự vào tất cả các sinh hoạt hằng ngày
của ứng sinh, khiến ứng sinh không còn sợ hãi, xa cách.
Nhà
đào tạo đồng hành đem lại tin tưởng và an toàn cho ứng sinh, hay nói cách khác,
nhà đào tạo phải tin tưởng ứng sinh sẽ được biến đổi tốt đẹp trong tương lai.
Chính Chúa Giêsu đã tỏ rõ điều đó khi Ngài đồng bàn với những người thu thuế và
tội lỗi, hay khi không kết án người nữ ngoại tình. Quả thế, dù một người có hư
hỏng đến đâu đi nữa thì cũng còn có vài điểm tốt. Nhà đào tạo biết rút ra vài
điểm tốt đó để phát huy. Baden Powell, ông tổ của phong trào giáo dục Hướng
đạo, bảo rằng dù gặp một con người chỉ có 5% tốt còn 95% xấu thì phải nhìn 5%
tốt nơi con người để giúp họ phát huy, rồi 95% xấu kia sẽ được thay thế. Còn
thánh Gioan Bosco bảo một trái táo thối vẫn còn có một cái hạt có thể nẩy mầm
trở thành một cây và đơm bông kết trái. Ứng sinh sẽ tin tưởng vào nhà đào tạo
nào tin tưởng mình. Sự tin tưởng này luôn có tính hỗ tương.
Sự hiện diện đầy yêu
thương của nhà đào tạo mang lại nhiều kết quả tốt
trong công cuộc đào tạo hơn luật lệ, nguyên tắc, chương trình, kiến thức; nhất
là khi yêu thương như Chúa Giêsu yêu thương (x. Ga 13, 34): Ngài cất bước đi
tìm và đón nhận tất cả những ai đến với Ngài. Nhà đào tạo phải chấp nhận những
khác biệt với mình của ứng sinh, phải quyết tâm vượt qua những bức tường ngăn
cách thiện cảm hay ác cảm tự nhiên, để có thể trao ban và lãnh nhận lẫn nhau.
ĐTC Biển Đức XVI viết về vấn đề giáo dục ngày 23/2/2008 như sau: “Nền giáo dục này trước tiên cần có sự gần
gũi và tín nhiệm nảy sinh từ tình thương: tôi nghĩ đến kinh nghiệm đầu tiên và
cơ bản về tình thương mà các trẻ em cảm nhận nơi cha mẹ. Mỗi nhà giáo dục đích
thực đều biết rằng để giáo dục thì phải trao hiến một cái gì đó từ chính bản
thân mình và chỉ như thế mới có thể giúp các học sinh của mình khắc phục những
ích kỷ và trở thành người có khả năng yêu thương đích thực.”
Quả
thế, bí quyết thành công trong việc đào tạo chính là dùng tình thương xoa dịu
các tâm hồn, khám phá cái tốt nơi mỗi ứng sinh, làm cho họ tỏa sáng và dẫn đưa
họ đến cùng Chúa: “Hôm sau, ông Gioan
đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông, thấy Chúa Giêsu đi ngang
qua, ông lên tiếng nói: ‘Đây là Chiên Thiên Chúa.’ Hai môn đệ nghe ông nói,
liền đi theo Chúa Giêsu.” Nhà đào tạo phải dọn đường để Chúa đến với ứng
sinh và đưa ứng sinh đến với Chúa.
c.
Hai mặt bổ sung quyền lực của nhà đào tạo[5]
Quyền lực hay uy tín của nhà đào tạo
là một tiến trình phát triển liên tục bao gồm quyền lực bên ngoài do chức vụ,
địa vị, tài năng, chuyên môn và quyền lực bên trong do tấm lòng yêu thương,
linh đạo, suy tư khôn ngoan, mục đích và động lực chính trực. Quyền lực bên
trong phát triển do sự hướng nội, đấu tranh bản thân, sự tiến hóa từng trải của
kinh nghiệm cuộc đời, việc chấp nhận và đánh giá đúng đắn về chính mình, cũng
như về ứng sinh (x. Trường hợp Nathanael). Nhà đào tạo và lãnh đạo giỏi là
người có khả năng nối kết hòa điệu khả năng tư duy bên trong với khả năng hành
động bên ngoài.
Quyền lực bên ngoài của nhà đào tạo
được biểu lộ nơi sự tự tin, năng lực, chuyên môn, địa vị, bằng cấp, chức vụ,
tiền bạc, thành công và được mọi người biết đến. Trong khi quyền lực bên trong
phát xuất từ con người nội tâm, từ tâm hồn, từ các giá trị sâu xa liên hệ đến
bản thân và cuộc sống, có thể truyền lửa và sức mạnh cho người khác.
Phẩm chất của nhà đào tạo là yếu tố
nội tại bền vững thực sự quyết định của việc đào tạo, hơn là do chức vụ quyền
bính. Đào tạo liên hệ chặt chẽ với ý niệm người môn đệ đi theo thầy
(discipleship) và người có thể thúc đẩy, hướng dẫn người khác [bạn hãy theo sát
Chúa Giêsu và Chúa Giêsu sẽ theo sát người thụ huấn của bạn].
5. Một số điều kiện khác
của nhà đào tạo[6]
a. Tự do nội tâm và nội
lực mạnh
Nhà
đào tạo không để mình dễ bị chi phối
bởi những đam mê hay tình cảm, yêu hay ghét, thích hay không thích, ác cảm hay thiện
cảm, thù oán hay ghen tỵ... Nói chung là người trưởng thành về tình cảm, không
có khuynh hướng lệch lạc, lạm dụng người dưới quyền, nhưng luôn giữ được sự
chính trực và công bằng.
Nhà đào tạo còn phải trưởng thành về đời sống thiêng liêng, thanh thản và
siêu thoát, không tìm bám víu vào ý riêng và kế hoạch của mình, nhưng chỉ mong
tìm và thực hiện ý Chúa, chỉ tìm ích chung cho cộng đoàn, cho sự lớn lên thực
sự của từng thành viên trong căn tính người tu sĩ của Dòng (đào sâu và sống đặc
sủng và linh đạo của Dòng).
b. Sống thánh thiện
Ứng
sinh rất mong gặp được nơi nhà đào tạo một mẫu mực bằng xương bằng thịt đang
sống trọn vẹn đặc sủng và linh đạo Dòng mình, được thể hiện nơi Hiến Chương,
Nội Qui và Luật Sống của Dòng để thấy rằng sự thánh thiện là một lý tưởng có
thể đạt được với ơn Chúa: kết hiệp với Chúa liên tục trong mọi tình huống, gặp
thấy Ngài và đọc được ý nghĩa đức tin trong mọi biến cố cuộc đời,[7]
cùng tìm kiếm ý Chúa và can đảm thực hiện, chứ không phải áp đặt ý mình trên
người khác, lại biết nhận định cách khôn ngoan để phân biệt tác động của tà
thần và của Thánh Thần.
Nhà đào tạo dạy dỗ và hướng dẫn không chỉ bằng lời nói, nhưng bằng gương
sáng thống nhất đời sống giữa các mặt khác nhau và đối nhau như chiêm niệm và
hoạt động, vâng phục và tự do, sống điều mình dạy, chứ không phải nói mà không
làm, để ứng sinh có thể noi theo. Nói cách khác, nhà đào tạo là người có lửa và
sẵn sàng chia lửa cho ứng sinh và cộng đoàn, được bộc lộ ra qua mọi đức tính
nhân bản đã tập được (Ph 4, 8-9). Sự giả hình, che đậy và dối trá quanh co là
những điều người ứng sinh tu sĩ trẻ hôm nay khó chấp nhận, dù họ cũng không
tránh khỏi tệ nạn này của xã hội.
c. Yêu thương từng ứng
sinh
Tình
yêu ấy phải được diễn tả làm sao để ứng sinh nhận ra qua việc quan tâm đến sức
khỏe, gia đình, đời sống tình cảm, học tập, cầu nguyện, đặc biệt trong thời
gian ứng sinh gặp thử thách khủng hoảng. Tình yêu ấy cũng phải được bộc lộ qua
cả những lúc phải dùng đến hình phạt nữa (vì thương mà phải phạt). Hỏi thăm
trực tiếp ứng sinh là hình thức đơn sơ nhất, miễn là biết cách để không có vẻ
soi mói, điều tra. Con người ứng sinh phải được đặt lên trên công việc hay của
cải vật chất.
Mỗi ứng sinh có một lịch sử riêng, hoàn cảnh riêng, vấn đề riêng, và ở từng
giai đoạn đào luyện khác nhau nên cách gặp gỡ từng người cũng có phần khác
nhau, để từ đó việc đồng hành được thích hợp và không đòi hỏi quá đáng những
điều mà ứng sinh còn non trẻ chưa thể có được. Đồng hành là cùng đi với ứng
sinh, đi cùng một nhịp nhanh chậm với ứng sinh, hơn là đi trước mở đường/dẫn
đường, nhưng trở nên bạn đi chung với người ấy.
Nhà đào tạo dành thời giờ để gặp riêng từng ứng sinh sẽ tạo được sự thông
cảm, hiểu biết nhau, nhờ đó việc huấn luyện sẽ tốt hơn và dễ dàng hơn. Sự hiện
diện thường xuyên của nhà đào tạo là điều cần thiết, (đặc biệt với Nhà Tập, như
“Những chỉ dẫn việc huấn luyện trong các Dòng tu” yêu cầu), vì nó cho thấy mình
coi trọng ứng sinh và việc huấn luyện họ hơn các việc tông đồ hay những mối bận
tâm khác (trong thời gian Nhà Tập, đời sống thiêng liêng trỗi vượt hơn đời sống
tông đồ). Đào tạo là việc tông đồ ưu tiên của dòng tu vì qua việc này mà sinh
ra những nhà tông đồ mới để đáp ứng nhu cầu tông đồ của Giáo Hội.
Tích cực tham dự các sinh hoạt cộng đoàn (cùng lao động, giải trí, cầu
nguyện, học tập, tĩnh tâm, dã ngoại, nghỉ hè, thăm nhà nhau) cũng giúp tạo ra
sự gần gũi và thấy được con người thật của ứng sinh, vì chính cuộc sống thực tế
mỗi ngày mạc khải đúng nhất về mỗi con người.
d. Lắng nghe và Đối thoại
Lắng
nghe là một hành vi của trái tim và chỉ trái tim yêu thương mới nghe được những
điều nằm ẩn sau lớp vỏ của ngôn từ. Luôn lắng nghe để thấu hiểu một người từ
bên trong mới có thể đào tạo người ấy. Ngày nay cần nỗ lực lắng nghe nhiều mới
hy vọng hiểu được lối suy nghĩ, lối nói và lối phản ứng của ứng sinh hầu tránh
nguy cơ hiểu lầm, gây đau khổ và quyết định sai lầm. Nhà đào tạo tránh xét đoán
và kết luận vội vã; một lời nói của người có quyền rất quan trọng, có thể cứu
sống hoặc có thể giết chết (miệng người sang có gang có thép). Trái lại phải
đối thoại để kiểm chứng từ nhiều nguồn trước khi kết luận, nhất là cần nghe ý
kiến giải thích biện hộ của ứng sinh. Ngay cả những điều nhìn thấy tận mắt cũng
chưa thể khẳng định, vì chúng ta không lường hết được mọi tình huống. Nhớ câu
chuyện của Khổng Tử và Nhan Hồi: “Có những việc chính mắt mình thấy vậy mà
không phải vậy.”
Lắng nghe tích cực là dám hỏi và nghe góp ý của người khác, dù rất khó nghe
và đòi mình phải thay đổi. Càng ít tự ái khi nghe những lời phê bình, càng ít
tự mãn về hiểu biết của mình, thì càng dễ lắng nghe và tôn trọng chuyên môn của
ứng sinh: “Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư.” Lắng nghe là tin Thiên Chúa nói
với mình qua ứng sinh và cùng với ứng sinh tìm ra con đường riêng tư mà Chúa
muốn ứng sinh đi. Chúa Giêsu cũng đã hỏi các tông đồ: “Các con nghĩ Thầy là
ai?” và Phêrô đã tuyên xưng Ngài là con Thiên Chúa. Biết ứng sinh nghĩ về mình
thế nào cũng giúp nhà đào tạo thăng tiến chính mình.
e. Tôn trọng ứng sinh
Nhà
đào tạo không dùng quyền một cách vội vã, dù chính đáng. Cần cân nhắc, đắn đo
trước khi hành động. Phải xem nên làm gì, khi nào, nơi nào và làm cách nào
thuận tiện để đạt kết quả tốt nhất. Càng ít ra lệnh thì lệnh càng nghiêm. Nhà
đào tạo góp ý, tránh mắng nhiếc, mạt sát, làm nhục một người được Chúa chọn gọi
(x. Câu chuyện trò Trang). Sửa lỗi ứng sinh cách bình tĩnh, không la lối, không
nổi giận, nhưng kín đáo, tế nhị, thận trọng; phê phán hành vi sai lỗi hơn là
phê phán người phạm sai lỗi.
Nhà đào tạo nên cho ứng sinh được tự do trong những gì không mấy quan trọng,
để họ được đưa ra sáng kiến, được thể hiện chính mình. Chấp nhận để họ mạo hiểm
áp dụng những cách xử lý mới, dù họ có thể vấp váp, sai sót trong bước đầu; từ
đó giúp họ biết điều chỉnh và rút kinh nghiệm hơn là đưa ra những chỉ dẫn quá
chặt chẽ, chi li, bóp chết mọi suy nghĩ và sáng tạo. Tin tưởng ứng sinh và cho
họ có một không gian riêng tư để thở, để là mình, để lớn lên. Họ cũng cần được
tôn trọng và có không gian riêng với nhau ở một mức độ nào đó. Là khí cụ của
Thiên Chúa, nhà đào tạo tôn trọng Ngài, vì Ngài đào tạo xuyên qua những biến cố
Ngài cho phép xảy ra trong cuộc đời ứng sinh. Nhà đào tạo phải thấy được và tôn
trọng lối đào tạo của Chúa cho từng con người.
f. Lạc quan và hy vọng
Thời
gian đào tạo là thời gian không dễ dàng, vì thế niềm vui và nụ cười trên khuôn
mặt nhà đào tạo làm vơi nhẹ đi rất nhiều lo âu cho ứng sinh. Bầu khí cộng đoàn
chịu ảnh hưởng bởi tính khí của nhà đào tạo. Lạc quan là có cái nhìn tích cực,
lời nói tích cực và việc làm tích cực đối với ứng sinh. Lạc quan là nhìn ra
những điểm sáng giữa bóng tối, là tin tưởng và hy vọng không ngơi vào lòng tốt,
sự phục thiện và quyết tâm sửa đổi của ứng sinh. Lạc quan là giũ bỏ mọi thành
kiến để nhìn ứng sinh bằng cái nhìn mới, là không kể tội quá khứ, là cho họ một
cơ hội nữa để làm lại từ đầu sau những vấp ngã. Thái độ bi quan có thể bóp chết
những cố gắng lật sang trang và bước một bước mới của ứng sinh, đồng thời làm
cho họ ở trong tình trạng căng thẳng và chán nản thường xuyên.
g. Nhẫn nại, bao dung, cảm
thông và uyển chuyển
Nhà
đào tạo không để mình dễ nóng giận, có giận cũng biết làm chủ cơn giận của
mình, và giận có lý do chính đáng tương xứng: Nhà đào tạo nhẫn với ứng sinh như Chúa đã nhẫn
với mình. Nhẫn đòi phải chờ đợi, có
khi trong thời gian dài, tưởng như vô ích: Việc nhỏ không nhẫn nhục sẽ làm hư
việc lớn. Mà có việc gì lớn hơn việc đào tạo con người?: “Kế một năm không gì
bằng trồng lúa, kế mười năm không gì bằng trồng cây, kế trăm năm không gì bằng trồng
người.” Nhà đào tạo muốn nhẫn nại cần phải khiêm tốn, vì nhẫn là chấp nhận
thua, chấp nhận chịu đau khổ do người dưới quyền, chấp nhận không dùng quyền dù
có thể dùng. Đừng sợ nhẫn quá sẽ làm hư ứng sinh. Thực tế họ sẽ bị đánh động
nhiều và sâu xa trước sự nhẫn nại vô bờ của nhà đào tạo, và họ sẽ quyết tâm
sống thật tốt để đền đáp lại.
Bao
dung là không chấp nhất những điều nhỏ mọn, chi li, không bắt bẻ những thiếu
sót vô ý, không nhớ dai và hay nhắc lại chuyện cũ. Cái gì đã qua thì nên cho
qua đi luôn, vì chẳng ai có thể thay đổi được những gì đã xảy ra trong quá khứ.
Quảng đại là cư xử rộng rãi hơn mức ứng sinh dám mong, là cho đi điều mà họ
không dám đòi. Họ mong được nhà đào tạo cảm thông, thấu hiểu những thách đố,
cám dỗ mà họ phải gánh chịu. Họ cũng mong được tha thứ những vấp ngã của họ.
Uyển chuyển, mềm mại, nhu thuận: Biết lúc cương lúc nhu, biết thích nghi
với tình huống cụ thể, không cứng nhắc, chấp nhận nguyên tắc chung phải theo,
nhưng cũng chấp nhận ngoại lệ cho cá nhân. Không đào tạo theo lối đúc gạch (x.
1 Cr 13, 4-7)[8]
h. Khả năng lãnh đạo
Mục
tiêu nhà đào tạo nhắm tới là sự triển nở nhân cách của người sống đời thánh
hiến nên cần coi trọng sự đóng góp độc đáo của từng người, tùy theo khả năng
Chúa ban. Nguyên tắc bổ trợ hay phân quyền[9]
có thể được áp dụng ở một mức nào đó trong đời tu. Các công việc trong cộng
đoàn cần được chia ra để mỗi người đều có trách nhiệm. Nhà đào tạo tôn trọng
người đảm trách công việc, cho họ chút tự do để suy nghĩ xem làm sao có kết quả
tốt nhất, đó cũng là cách làm họ trưởng thành và gắn bó với cộng đoàn.
Trong
tinh thần ấy, ĐTC Gioan-Phaolô II trong Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến (ban hành
ngày 25/3/1996) khẳng định: “Các tu hội
được mời gọi hãy can đảm tìm lại tinh thần xông xáo dám nghĩ dám làm, óc sáng
tạo và sự thánh thiện của các đấng sáng lập, để đáp trả những ‘thời điểm’ đang
xuất hiện trong thế giới ngày nay. Lời mời gọi này tiên vàn nhắm đến việc kiên
trì trên đường nên thánh, giữa những khó khăn vật chất và tinh thần gặp phải
trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng đó cũng là lời mời gọi hãy thủ đắc cho được
một khả năng chuyên môn trong việc làm, và trung thành năng động trong sứ mệnh
của mình, bằng cách biết thích nghi các hình thái, khi cần, với những hoàn cảnh
mới và những nhu cầu khác nhau, trong thái độ hoàn toàn tuân phục sự soi sáng
của Thiên Chúa và sự biện phân của Giáo Hội.
Phải xác tín vững chắc
rằng việc cố gắng ngày càng nên đồng hình đồng dạng với Chúa hơn, là điều kiện
đích thực của mọi cuộc canh tân trung thành với linh ứng nguyên thủy của mỗi tu
hội. Trong tinh thần này, mọi tu hội phải canh tân lối nhìn về luật dòng, vì
một lộ trình đã được phác họa trong luật dòng và hiến chương để thực hiện việc
đi theo Chúa Kitô, tương ứng với đặc sủng riêng đã được Giáo Hội chuẩn nhận.
Càng trân trọng luật dòng, người tận hiến càng có những tiêu chuẩn chắc chắn,
để tìm ra những phương thức thích đáng cho sứ vụ đáp ứng những đòi hỏi của thời
đại mà không xa rời linh ứng nguyên thủy” (Vita Consecrata, số 37).
“Các con không những phải
nhớ và kể lại một lịch sử huy hoàng, mà còn phải kiến tạo một lịch sử vĩ đại
nữa. Hãy hướng về tương lai, tới chỗ mà Thánh Thần đang sai các con đi để làm
những việc trọng đại. Các con hãy biến cuộc đời các con thành cuộc trông đợi
sốt sắng Chúa Kitô… Hãy sẵn sàng luôn luôn, hãy trung thành với Chúa Kitô, với
Giáo Hội, với tu hội của mình và với con người thời đại này. Nhờ thế, ngày qua
ngày, các con sẽ được Chúa Kitô đổi mới, và nhờ Thánh Thần trợ giúp, các con sẽ
kiến tạo những cộng đoàn huynh đệ,…và góp phần độc đáo của các con vào sự biến
hình của thế giới… Mong sao cho thế giới đã được trao vào tay con người sẽ được
nhân đạo hơn, công bằng hơn, trở nên dấu chỉ và hình ảnh báo trước thế giới sắp
đến…” (Vita Consecrata, số 110).
i. Tận tâm phục vụ
Nhà
đào tạo vừa lãnh đạo vừa phục vụ cộng đoàn như Chúa Giêsu: “Thầy ở giữa anh em
như người phục vụ” (Lc 22, 27), mới có thể huấn luyện ứng sinh trở thành người
phục vụ. Phục vụ đòi phải đứng mũi chịu sào, chấp nhận con dại cái mang “trên
đe dưới búa”, và đón lấy thánh giá không thể tránh khỏi mỗi ngày. Xin lỗi, cám
ơn, khen ngợi, an ủi, giúp đỡ, cộng tác, chia sẻ, sẵn sàng dành thời giờ để gặp
gỡ, hiện diện thường xuyên trong cộng đoàn… là những cách diễn tả việc tận tâm
phục vụ của nhà đào tạo hôm nay. Có thể nói, nhờ phục vụ mà nhà đào tạo theo
sát được các ứng sinh của mình để đào tạo (x. Kiểm soát bằng cách phục vụ).
6. Các
giai đoạn đào tạo tu sĩ[10]
Tiến
trình đào tạo tu sĩ qua các giai đoạn liên tục nhằm sự đồng hình đồng dạng với Chúa
Kitô, cho cả nhà đào tạo lẫn ứng sinh.
Trước
hết nhà đào tạo phải theo mẫu gương của Chúa Giêsu. Ngài đã sống với các môn đệ
liên tục không gián đoạn trong ba năm cuộc đời công khai cho đến khi chết trên
thập giá. Ngài đã đồng hành cùng họ với tình yêu bao dung, nhẫn nại và săn sóc
ân cần để họ được lớn lên trong đức tin và trưởng thành, thiêng liêng lẫn nhân
bản. Ngài biết rõ mỗi người, những cá tính, những điểm mạnh và những điểm yếu
của họ. Ngài nhẫn nhục chịu đựng những khuyết điểm, những bất toàn, những tham
vọng trần tục, những bướng bỉnh, thiếu lòng tin và chậm hiểu của họ về các mầu
nhiệm Nước Trời; và Ngài kiên trì chờ đợi Thánh Thần đến kiện toàn công cuộc
đào tạo họ: “Thầy còn nhiều điều để nói
với anh em, nhưng bây giờ anh em không thể hiểu. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ
hướng dẫn anh em biết tất cả sự thật” (Ga 16,12-13). Chúa Giêsu cũng hằng
cầu xin Chúa Cha giữ gìn bảo vệ các môn đệ: “Con không xin Cha cất họ ra khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ
khỏi tay ác thần” (Ga 17,15).
Các giai đoạn đào tạo tuy khác nhau
nhưng phải có sự liên tục tiệm tiến và tổng thể, ăn khớp mắt xích với nhau
trong chiều hướng canh tân tìm kiếm một phương thức thể hiện mới để Hội Dòng
hiện diện hữu hiệu trong hoạt động dưỡng giáo lẫn truyền giáo của Giáo Hội.
Phương thức này đòi hỏi canh tân các giá trị, các tâm thức, các quan điểm, các
mối quan hệ, cách suy nghĩ và hành động, lối sống và cách thi hành sứ vụ, nghĩa
là một cuộc canh tân sâu sắc và toàn diện.
Công
cuộc đào tạo này là trách nhiệm của mọi thành phần trong Dòng, và được Hội Dòng
ủy thác cách riêng cho các nhà đào tạo, từ giai đoạn đào tạo khởi đầu Đệ tử
viện, Nhà Thử, Nhà Tập mà cao điểm là việc tuyên khấn lần đầu, qua giai đoạn
Học viện được kết thúc với việc tuyên khấn trọn đời, đến giai đoạn đào tạo
thường xuyên diễn ra trong suốt cả cuộc đời mỗi tu sĩ, với những hình thức rất
đa dạng và thích hợp cho từng hoàn cảnh và độ tuổi, phản ánh nổi bật đặc sủng
và linh đạo Dòng thể hiện trong Hiến Chương, Nội Quy và Luật Sống.
Việc
đào tạo ngày nay được thực hiện với nhiều người và cho nhiều người, nhưng phải
chú trọng đến sự hợp tác của từng cá nhân, với từng hoàn cảnh cá biệt, nghĩa là
phải được cá nhân hóa và nội tâm hóa, tức vừa được đào tạo vừa tự đào tạo,
trong một tổng thể liên tục qua các giai đoạn đào tạo và tự đào tạo.
a. Giai
đoạn đệ tử viện
Đệ
tử viện là nơi Dòng tiếp nhận và đào
tạo các em muốn thử tìm hiểu và sống ơn gọi tu trì. Các em được hướng dẫn sống
chung với nhau, cùng tham gia mọi sinh hoạt do Dòng tổ chức hướng về việc tìm
hiểu hỗ tương (các em tìm hiểu Dòng và Dòng tìm hiểu các em) xem có thích hợp
với Dòng không, nếu không hợp thì ra về hoặc đi Dòng khác.
Vì hoàn cảnh, ngày nay không có trường Dòng
riêng hoặc trường công giáo, nên các em đệ tử vẫn đi học trường ngoài đời. Điều
này có những thuận lợi và bất thuận lợi, những tích cực và tiêu cực của nó
trong việc đào tạo tu sĩ, nhất là trong lãnh vực tương quan tình cảm và giới
tính, cần có những nhà đào tạo kỹ năng và tâm huyết đồng hành với các em, vừa
phòng bệnh vừa chữa bệnh, để khảo sát và chữa lành hầu đạt được sự ổn định cần
thiết; những gánh nặng nội tâm cần được tháo gỡ và giải quyết nhờ sự trợ giúp
của vị linh hướng.
Việc đào tạo trong giai đoạn này nhằm giúp
các em tìm hiểu các loại hình ơn gọi, kể cả ơn gọi hôn nhân, để các em tự do
quyết định chọn đời tu, chứ không đưa các em vào thế “bó buộc” phải đi tới.
Tiếp đến tiệm tiến nhập môn cho các em về đặc sủng, linh đạo, mục đích, sứ mệnh
của Dòng, đối chiếu với đặc sủng ân ban cá nhân của các em. Phải có sự thích và
hợp với Dòng thì ơn gọi đó mới triển nở bền vững được. Việc đào sâu và sống đặc
sủng và linh đạo của Dòng phải được tiến hành dần dần theo từng giai đoạn đào
tạo, càng lâu càng thấm, càng lên cao càng nhấn mạnh.
Để vun trồng và nuôi dưỡng ơn gọi, nhà đào
tạo phải nhắm tới một tiến trình đào tạo toàn diện cho các em, vừa nhân bản,
thiêng liêng, tri thức và tông đồ. Cần để ý khả năng sống cộng đoàn của các em,
vì đời sống huynh đệ cộng đoàn là một trong bốn cột trụ căn bản chống đỡ đời
tu, đặc biệt trong việc sống ba lời khuyên Phúc Âm (Chúa Giêsu, Phúc Âm, Đời
sống huynh đệ cộng đoàn, Sứ vụ chứng tá). Tập cho các em ham thích đời sống cầu
nguyện, cử hành phụng tự và bí tích. Giúp các em học văn hóa và chuyên môn
thích hợp để trở nên người tốt và hữu dụng. Có thể hướng nghiệp cho các em phù
hợp với sứ mệnh của Dòng. Giúp các em có ý thức trách nhiệm trong việc tổ chức
đời sống mình, dễ nhận thấy nhất là trong công việc được giao phó.
Trách nhiệm của Chị Giáo và những trợ tá là
tìm hiểu, xem xét và đánh giá tất cả các bối cảnh gia đình, môi trường và động
lực của các em hầu đi đến kết luận một cách tương đối là các em khả dĩ có ơn
gọi hay không để đưa lên giai đoạn đào tạo tiếp theo. Đừng vội có kết luận dứt
khoát, vì tiến trình ơn gọi còn lớn lên, triển nở và được khẳng định với thời
gian và ơn Chúa. Cũng hãy để cho Chúa làm công việc của Ngài nữa.
Như
thế, để thẩm định ơn gọi cần có một sự hợp tác giữa đôi bên, Nhà Dòng và các
em, các em và Nhà Dòng, theo tiến trình ơn gọi 5 bước:
·
Chúa gọi (trực tiếp
hay gián tiếp)
·
Các em quảng đại
đáp lại.
·
Các em cam kết theo
chính Chúa Kitô toàn thể với vinh quang và thập giá, nghĩa là khi vui cũng như
khi buồn, lúc thành công cũng như lúc thất bại, khi sướng cũng như khi khổ, đều
luôn trung thành theo chính Chúa Kitô, chứ không phải ai khác.
·
Các em dần dần biến
đổi và điều chỉnh đời sống mình cho phù hợp với đời tu trong linh đạo Dòng.
·
Kiên trì chu toàn
bổn phận hằng ngày hôm nay và sứ vụ Dòng sẽ giao phó mai sau.
b. Giai đoạn Tiền Tập viện
Thời kỳ đi trước và chuẩn bị giai đoạn Tập viện là
giai đoạn thử thách (Nhà Thử) nhằm tìm bảo đảm rằng ứng sinh đã đạt tới sự
trưởng thành khả dĩ về nhân bản và kitô chứng tỏ có khả năng đảm đương dần dần
tất cả những đòi buộc của đời sống thánh hiến. Việc
đào tạo ở Nhà Tập tùy thuộc vào phẩm chất của các ứng sinh đã được nhận vào.
Thời kỳ này để ứng sinh nghiêm chỉnh bắt đầu khám
phá ơn gọi đời sống thánh hiến của mình và thực hiện cuộc điều chỉnh tiệm tiến
về mặt thiêng liêng cũng như tâm lý để chuẩn bị một sự cắt đứt cần thiết nào đó
với môi trường xã hội, cũng như các mối tương quan không thích hợp của mình ngõ
hầu tham gia trọn vẹn tiến trình đào tạo và tự đào tạo.
“Hầu hết những khó khăn gặp phải ngày nay
trong việc đào tạo các tập sinh thường do sự kiện khi họ được nhận vào nhà tập
thì họ chưa có được sự trưởng thành đòi buộc” (Những chỉ dẫn về đào tạo
trong các Dòng tu số 42). Tuy vậy, không được đòi hỏi một ứng sinh vào đời sống
thánh hiến phải có ngay lập tức khả năng đảm trách tất cả mọi bó buộc của đời
sống thánh hiến, mà là có khả năng làm việc ấy cách tăng tiến dần dần.
Xác
định và đánh giá ứng sinh để thâu nhận vào Nhà Tập là mục đích của giai đoạn
này. Việc này có thể tóm tắt trong bốn động từ sau đây: xác minh, làm sáng tỏ, không
rút ngắn vô lý, không kéo dài quá mức: “Phải
làm thế nào để thời gian này chứng minh và làm sáng tỏ một số điểm giúp các Bề
trên định đoạt về sự thích hợp và thời điểm để thâu nhận vào Nhà Tập. Không nên
rút ngắn hoặc kéo dài vô lý giai đoạn này, miễn làm sao có được một phán đoán
chắc chắn về tư cách xứng đáng của ứng sinh” (sd số 43).
Những
điểm lợi ích đặc biệt của việc biện phân cần được thẩm tra nơi các ứng sinh vào
đời sống thánh hiến là:
·
Trình độ trưởng
thành về nhân bản và kitô;
·
trình độ văn hóa
phổ thông cơ bản;
·
sự quân bình tình
cảm và giới tính, bao hàm việc chấp nhận sự khác biệt của tha nhân và tôn trọng
quyền bảo vệ bí mật của họ;
·
và khả năng sống
cộng đoàn.
Ba
hình thức thực hiện giai đoạn tiền tập viện:
·
Đón tiếp ứng sinh
vào một cộng đoàn Dòng;
·
Các thời kỳ giao
tiếp với một cá nhân hay cộng đoàn;
·
Cuộc sống chung
trong một nhà nơi các ứng sinh được đón nhận.
Điều
đó nói rõ rằng các thỉnh sinh chưa phải là những thành viên đầy đủ của Dòng. Một
sự kết nạp tiệm tiến được bảo đảm. Phải nhớ rằng con người đang được đồng hành
thì quan trọng hơn các động lực hay cơ cấu tiếp nhận (sd số 44)
Giai
đoạn Tập viện là thời kỳ của việc kết nạp toàn diện; là một thời gian đặc ân để
cầu nguyện và chiêm niệm để biện phân ơn gọi đích thực vào đời sống thánh hiến
(x. GL 652,5). Việc trau dồi các giá trị và hòa nhập thực tại kêu gọi/đáp trả
qua cầu nguyện, suy nghĩ, học hỏi, đặc biệt về đặc sủng và linh đạo Dòng, mở ra
và phục vụ lẫn nhau.
Mục
đích của tập sinh được mô tả bởi GL 646 trong 4 động từ nhận biết, kinh nghiệm, được đào tạo và được thử thách (sd số 45):
·
Tập sinh phải nhận
biết tốt hơn ơn gọi của Chúa, phù hợp với Dòng mình;
·
Tập sinh phải được
đào tạo trí óc và con tim theo tinh thần Dòng qua việc đào sâu và sống đặc sủng
và linh đạo của Dòng;
·
Tập sinh phải kinh
nghiệm lối sống của Dòng bằng việc thực hành Hiến Chương, Nội Quy và Luật Sống
của Dòng;
·
Các động lực của
Tập sinh (phương diện chủ quan) và tính thích hợp (phương diện khách quan) phải
được thử thách, kiểm chứng.
Việc
khai tâm để kết nạp quan trọng hơn nhiều việc dạy dỗ đơn thuần. Nó dần dần dẫn
dắt tập sinh đi vào những thành phần khác nhau cấu tạo nên đặc sủng đời sống
thánh hiến (sd số 46-47):
·
Khai tâm vào một sự
hiểu biết sâu xa và sống động về Chúa Kitô và Cha Ngài (qua Thánh Kinh, Phụng
vụ, Cầu nguyện cá nhân và Lectio Divina);
·
Khai tâm vào Mầu
nhiệm Phục sinh (các lời khuyên Phúc Âm, sự khổ chế vui tươi, chấp nhận can đảm
mầu nhiệm thập giá);
·
Khai tâm vào đời
sống huynh đệ Phúc Âm;
·
Khai tâm vào lịch
sử, sứ mệnh đặc biệt, đặc sủng và linh đạo của Dòng (các thời kỳ hoạt động tông
đồ ở bên ngoài cộng đoàn)
Mấy
điều kiện tập sinh phải thực hiện (sd số 49-50):
·
Tính mềm dẻo và
thận trọng;
·
Một khung cảnh riêng
và bầu khí thanh bình để có thể cắm rễ sâu vào cuộc sống với Chúa Kitô;
·
Sự cắt đứt và tước
bỏ chính mình (một điều kiện cần thiết cho những chọn lựa mới có ý nghĩa);
·
Lồng ghép tập sinh
vào các cộng đoàn là tuyệt đối không nên (x. GL 647-649).
·
Trong thời gian tập
viện, đời sống thiêng liêng trổi vượt hơn đời sống tông đồ.
Chị
giáo tập (sd số 51) là người trách nhiệm chính chăm sóc các tập sinh, nhưng ở
dưới quyền của Bề trên thượng cấp (x. GL 650). Để chu toàn cách thích hợp sứ vụ
đào tạo của mình: Chị giáo tập phải được tự do khỏi mọi bó buộc khác có thể cản
trở việc chu toàn trách nhiệm của mình; các cộng tác viên phải lệ thuộc chị
giáo tập, nhưng họ có một vai trò quan trọng trong việc biện phân và quyết định
liên quan đến tập sinh; chị giáo tập là người đồng hành của mỗi người và tất cả
các tập sinh: tập sinh là nơi chốn thừa tác vụ của chị. Giáo tập trong các Dòng
giáo sĩ thường không cho các tập sinh xưng tội, trừ khi gặp hoàn cảnh phải thu
xếp như vậy.
d. Giai đoạn Học viện
Là
thời kỳ đào tạo giữa thời gian tiên khấn và vĩnh khấn. Đào sâu sự cam kết với
Chúa Kitô và sứ vụ của Ngài, đồng thời sống cao độ bốn sự trung thành:
·
Trung thành với Chúa Kitô và Phúc Âm;
·
Trung thành với Giáo Hội và sứ mệnh của Giáo Hội;
·
Trung thành với đời sống thánh hiến và đặc sủng của Hội Dòng, cụ thể
trong việc sống Hiến Chương, Nội Quy và Luật Sống của Dòng;
·
Trung thành với các thời triệu qua đó thánh ý Chúa được biểu lộ.
để biện phân cho sự cam kết
suốt đời với Chúa Kitô và sứ vụ của Ngài trong tinh thần và đặc sủng của Dòng.
Những gì Giáo Hội truyền
dạy (sd số 58):
GL
659 nói rõ ràng: trong mỗi Dòng, việc đào tạo tất cả các thành viên phải được
tiếp tục, nhờ đó họ có thể sống đầy đủ hơn cuộc sống thích hợp với Dòng mình và
chăm lo sứ vụ của mình cách phù hợp hơn.
GL 660 thêm rằng công cuộc đào tạo này phải:
·
Có hệ thống, chứ
không theo lối phân mảnh;
·
được thích nghi với
khả năng của các thành viên;
·
có tính cách thiêng
liêng và tông đồ; vừa giáo thuyết vừa thực hành, với nhiều trình độ khác nhau.
·
Đàng sau những chỉ
thị đó là nguyên lý hội nhập và quân bình.
Nội dung và phương tiện đào tạo (sd số 60 – 61). Mỗi Dòng được yêu cầu cung ứng cho ứng sinh:
·
Một cộng đoàn đào tạo: Đời
sống cộng đoàn mang lại thực tiễn cho ứng sinh; giúp ứng sinh trưởng thành cá
nhân, tự trọng và kích thích tinh thần đồng trách nhiệm.
·
Các nhà giáo dục/đào tạo, đồng hành thành thạo.
·
Chương trình học nghiêm túc
·
Cam kết dấn thân làm việc tông đồ và xã hội (sd số. 62) phải theo đặc sủng và linh đạo của Dòng,
lưu tâm đến năng khiếu và ước vọng cá nhân, nỗ
lực thực
thi sự thống nhất đời sống trong tương quan với bốn diều phải trung thành (với
Chúa Kitô và Phúc Âm, với Giáo Hội và sứ mệnh của Giáo Hội, với đời sống thánh
hiến và đặc sủng Dòng, với nhân loại và thời đại chúng ta)
·
Vị linh hướng (sd số 63): Ngoài những người có trách nhiệm đồng hành thiêng liêng (Bề trên, chị
giáo), mỗi Dòng đều nên có những người có khả năng và thành thạo nên được chỉ
định giúp linh hướng/cố vấn về lương tâm cho tu sĩ, dù không giải tội. Các
phương pháp sư phạm tâm lý không thể thay thế việc linh hướng, và Vat. II đòi
phải để một “tự do thích đáng” (x. GL 220). Liên quan đến việc chọn vị linh
hướng, điều quan trọng là phải giúp ứng sinh cảm thấy được tự do trong lương
tâm để chọn một người mà ứng sinh cho là thích hợp hơn. Đàng khác, người làm
tác vụ này phải có ơn đặc biệt và làm cho mình có khả năng để làm việc đó.
e. Giai đoạn đào tạo tiếp tục (thường huấn)
Vì
các giới hạn nhân loại, con người không bao giờ hoàn toàn đạt tới cuộc sống của
“một tạo vật mới” phản ánh được thần trí Chúa Kitô trong mọi hoàn cảnh sống (VC
69). Do đó, tu sĩ cần được đào tạo và tự đào tạo thường xuyện, với nhiều trình
độ và tuổi tác khác nhau (tuổi tu và tuổi đời). Đào tạo thường xuyên là một chương trình tổng quát nhằm canh tân mọi
chiều kích của cá nhân cũng như của cả nhà Dòng.
Đào
tạo thường xuyên giúp tu sĩ lớn lên trưởng thành tự mình đứng vững: Những năm
đầu tiên dấn thân trọn vẹn trong việc tông đồ, đi từ một cuộc sống được trông
nom đến một tình trạng chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc mình làm, từ lúc cần
có người đồng hành trong cuộc sống đến lúc triển nở đầy đủ về tình yêu và lòng
nhiệt huyết cho Chúa Kitô.
Tuổi
trung niên là thời gian tìm kiếm những gì là căn bản: Sự nổi bật của con người
thật và thách đố để hòa nhập mọi cực của cuộc sống. Thời kỳ cho sự cô đơn sáng
tạo và sinh hoa kết trái thiêng liêng. Hành trình hướng nội để sống mầu nhiệm
Phục sinh. Tuy nhiên, tu sĩ trong độ tuổi này cũng có thể liều mình vấp phải
thói quen. Cần có sự thúc đẩy và các động lực tươi mới, sự hiểu biết và chấp
nhận mùa vọng của tiến trình tuổi già.
Vị
tu sĩ tiến dần đến giai đoạn cuối đời, tuổi của trưởng thành và trọn vẹn. Người
thánh hiến nhận diện được hơn bao giờ cả những gì là thật, căn bản và không thể
bị phá hủy trong đời sống. Đây là giai đoạn vị tha, biết ơn, khôn ngoan và bình
an, hướng tới sự hòa nhập tích cực của sự sống và sự chết nhằm đến đời sống
sung mãn và hiệp thông với Chúa.
Tuy
nhiên cũng không thiếu người cảm thấy những hụt hẫng, nặng lòng vì bất lực, trở
nên vô dụng hay bị bỏ quên... cần được nâng đỡ, chăm sóc giúp nhớ lại và sống
tình yêu hăng say của buỗi ban đầu “một lần đã quảng đại thì cố quảng đại cho
đến cùng.” Cần quan tâm đặc biệt về chế độ chăm lo cho những người hưu dưỡng.
Đó cũng là một cách “làm yên lòng” cho lớp đàn em hăng say phục vụ hết mình.
Các
lý do của thường huấn: Người có sáng
kiến là Thiên Chúa, Đấng vẫn tiếp tục kêu gọi trong thời gian và những
hoàn cảnh mới. Cần phải đi theo Chúa Kitô, luôn đặt mình lên đường. Đặc sủng là
một quà tặng phải được đón nhận trong những điều kiện mới mẻ.
Việc thường huấn đòi hỏi:
·
Trí thông minh để
đọc được các hoàn cảnh, những dấu chỉ thời đại và những dấu chỉ của Chúa Thánh
Thần;
·
Ý chí dấn thân
trong Giáo Hội;
·
Tính táo bạo trong
sáng kiến;
·
Tính kiên trì trong
cam kết;
·
Lòng khiêm tốn để
chấp nhận và vượt qua mâu thuẫn;
·
Chức năng biểu
tượng cánh chung phù hợp với đời sống thánh hiến;
·
Thách đố do tương
lai đặt ra cho đức tin công giáo, kể cả tương lai của các Dòng Tu.
Ngoài
ra cũng có dữ liệu tâm lý về nhu cầu đào tạo trong các hoạt động chuyên nghiệp.
Đào tạo khởi đầu có mục tiêu chính là giúp ứng sinh đạt được đủ tự lập để sống
những cam kết trong sự tín trung. Đào tạo thường xuyên có mục tiêu giúp các ứng
sinh hội nhập với lòng trung thành. Sự thống nhất giữa đòi hỏi đào tạo thiêng
liêng và đời sống nội tâm luôn phải được đặt lên địa vị ưu tiên. Đào tạo thường
xuyên phải đề cập tới các vấn đề thiêng liêng, tham dự vào đời sống Giáo Hội
như những tác nhân canh tân giáo thuyết và nghiệp vụ, cũng như hiện tại hóa đặc
sủng của Hội Dòng.
B. NhỮng bẤt cẬp và thái quá trong con ngưỜi và
sỨ vỤ đào tẠo.
Chúng
ta chân thành cám ơn Chúa, biết ơn các Bề Trên
Giáo Hội và Hội Dòng, cùng các nhà đào tạo đi trước đã dày công đào tạo
và vun đắp cho đời sống tu trì của chúng ta có được ngày hôm nay. Các ngài đã
chưa lấy thế làm đủ mà còn tín nhiệm giao phó cho chúng ta trách nhiệm đào tạo
thế hệ tu sĩ tương lai. Những nỗ lực và kinh nghiệm của quá khứ là bàn đạp, là
đà bẩy và là bệ phóng giúp chúng ta hướng tới tương lai.
Cho
đến nay, người trước kẻ sau, chúng ta đã cố gắng rất nhiều. Nhưng bên cạnh
những ưu điểm và ý hướng tốt, chúng ta cũng cần thẳng thắn nhìn lại đôi nét
cách thức đào tạo mà chúng ta đã và đang làm có thể không thích hợp với huấn
quyền Giáo Hội và khoa sư phạm đồng hành của thời đại hôm nay, một thời đại
đang đổi mới từng ngày. Hy vọng một khi nhận ra được những bất cập hay thái quá
của mình, chúng ta sẽ tự cải thiện bản thân và cải tiến cách đào tạo của mình,
sao cho phù hợp với đường lối đào tạo của Giáo Hội trong giai đoạn mới (x. Huấn
thị Xuất phát lại từ Chúa Kitô ngày
19.5.2002).
1. Óc nệ cổ
Vì
nệ theo truyền thống “xưa bày nay làm”, nhiều khi chúng ta áp dụng lại cách thức
mình đã được đào tạo trước đây mà không cập nhật, thay đổi và cải tiến theo
những chỉ dẫn của Huấn quyền Giáo Hội, cũng như của khoa sư phạm thời nay. Ngày
xưa làm như vậy là tốt, nhưng ngày nay không còn thích hợp nữa (vd. Làm vỡ cái
bát bị phạt đội cái bát vỡ quỳ giữa lối đi, hay phạt nằm sấp giữa lối đi cho
mọi người bước qua, phạt ngồi ăn cơm muối một mình dưới sàn trong nhà cơm
chung, v.v… làm tổn thương tự ái, tự trọng và nhân phẩm).
2. Điều tra ứng sinh về ứng sinh khác
Để
nắm bắt sâu sát tình hình các ứng sinh hầu công cuộc đào tạo được hiệu quả, một
số nhà đào tạo trong chúng ta hay hỏi các ứng sinh về những ứng sinh khác, lấy
lý do “họ ở với nhau, biết nhau hơn mình” và đơn sơ tin vào các “báo cáo” đó mà
không chắt lọc và lắng nghe cả hai phía, khiến có những trường hợp bị oan uổng,
gây nghi ngờ, cảnh giác, sợ hãi, và có khi thù oán nhau nữa.
3. Bắt ứng sinh nhận xét nhau
Vì
muốn giúp đỡ các ứng sinh sửa chữa và hoàn thiện bản thân, một số nhà đào tạo
trong chúng ta yêu cầu mỗi ứng sinh nhận
xét về các ứng sinh khác, nhưng lại làm lộ tên người viết, nhất là khi nhận xét
gây thiệt hại lớn cho người bị nhận xét, khiến có sự buồn lòng và mâu thuẩn
giữa các ứng sinh (có khi giận thù nhau, tẩy chay nhau, không thèm nhìn mặt
nhau). Việc này cũng khiến họ giảm bớt lòng tín nhiệm và trở nên dè dặt đối với
nhà đào tạo, tổn thương bầu khí bình an, huynh đệ và thăng tiến của cả cộng
đoàn. Thật ra, về những điều tiêu cực, chỉ nên nói đến một tình trạng
chung, không nêu đích danh người nào, để người có trách nhiệm đào tạo nhắc nhở
chung, ai có liên hệ bản thân thì tự mình lo sửa chữa cho nên tốt.
4. Lẫn lộn tòa trong và tòa ngoài
Một
số nhà đào tạo trong chúng ta chưa phân biệt đủ tương tác tòa trong và tòa ngoài,
không giữ kín mà lại đem nói ra điều ứng sinh tín nhiệm tâm sự hay lỗi lầm thầm
kín của họ mà mình biết được khi đồng hành thiêng liêng hay linh hướng, khiến
họ bị thiệt hại, đau khổ rồi từ đó đóng lòng lại vì mất tin tưởng ở nhà đào
tạo. Thật ra linh hướng thuộc bí mật tòa trong, và tương quan linh hướng
là tương quan bí mật khép kín tay ba giữa Chúa Thánh Thần, người thụ hướng và
vị linh hướng (x.GL 220). Bí mật linh hướng có cùng qui chế với ấn tòa giải
tội.
5. Tin thư nặc danh
Một
số nhà đào tạo trong chúng ta đơn sơ dễ tin thư nặc danh và áp dụng biện pháp
không thích đáng cho người bị tố cáo, trong khi đáng ra phải vứt bỏ thư nặc
danh và tìm trừng trị kẻ hèn nhát không dám ký tên chứng thực điều mình viết,
coi như một thứ gian lận cần phải loại trừ; đồng thời quan tâm tìm hiểu thực hư
thế nào để giúp đỡ các đương sự sống tốt hơn.
6. Dùng “ăng-ten” theo dõi báo cáo
Nhằm
tính hiệu quả trong việc hiểu biết mọi thành viên, một số nhà đào tạo trong
chúng ta dùng một số ứng sinh tin tưởng (có khi khéo xu nịnh và a dua) làm tay
chân theo dõi và báo cáo về các ứng sinh khác. Việc này gây rối loạn trong cộng
đoàn, bao phủ bởi bầu khí nghi ngờ, sợ sệt, lo âu, thù hằn, mất bình an,… rất
tác hại cho công cuộc đào tạo, và vô tình bị chính những tay sai của mình lèo
lái và điều khiển theo ý họ, theo lối “lừa thầy phản bạn.” Nhà đào tạo không
nên dùng lối đó, mà chính mình sẽ đích thân kiểm soát bằng sự phục vụ đầy chăm
sóc và gần gủi yêu thương, vì cuộc sống mỗi ngày sẽ mạc khải đúng con người
thật: “Đi lâu mới biết đường dài, ở lâu mới biết con ngài phải chăng.” Nhờ đó
sẽ phát hiện kịp thời và có cách thích hợp nhất để uốn nắn, đào tạo với lòng
cảm thông.
7. Lạm dụng Thần quyền
Cũng
nhằm tính chắc chắn tuyệt đối, một ít nhà đào tạo trong chúng ta lạm dụng biện
pháp thánh thiêng để điều tra sự việc như bắt ứng sinh đặt tay trên Phúc Âm mà
thề, đứng trước thánh giá hoặc qùy trước Thánh Thể để nói lên sự thật nào đó.
Làm như thế, lắm khi thay vì đạt được sự thật mong đợi thì lại tạo cớ cho họ
phạm tội thề gian. Chắc Chúa chẳng chứng giám cho lời thề ấy và chẳng bằng
lòng việc làm đó đâu, vì chính Chúa Giêsu dạy đừng thề chi cả, mà con cái Chúa
hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không, thêm bớt là do ma qủi.
8. Thương riêng cách lộ liễu
Dù
có thể có thiện cảm với người này hơn người kia là chuyện bình thường, không ai
có thể cân đo đong đếm được tình cảm, nhưng một số nhà đào tạo trong chúng ta
biệt đãi, thương riêng cách lộ liễu một vài ứng sinh, trong khi lại thiếu công
bằng với những người khác như xếp loại, in trí và định kiến, phân biệt đối xử
giàu nghèo, tốt xấu... khiến cộng đoàn bị phân hóa, mất bình an và do đó một số
người vượt không được đành mất ơn gọi.
9. Óc cầu toàn
Cũng
vì mong muốn cái gì cũng phải hoàn hảo, một số nhà đào tạo trong chúng ta quá
cầu toàn, đòi hỏi ứng sinh phải thế này thế nọ vượt quá trình độ nhận thức và
tu luyện còn non nớt của họ. Làm như vậy là đốt giai đoạn và đốt giai đoạn là
đốt cháy luôn cả đời người, vì nhân đức hay tội ác cũng cần có thời gian để
hình thành, không ai một sớm một chiều mà nên thánh hay thành ác quỉ được
đâu.
10. Vội kết án và sử dụng biện pháp
Cũng
vì bị thúc đẩy bởi ý muốn có những ứng sinh tốt, một số nhà đào tạo trong chúng
ta vội kết luận về lỗi lầm và nghiêm khắc sử dụng biện pháp ngay, nhưng lại
không cho ứng sinh biết lỗi lầm, giải thích và biện minh, cũng như cơ hội và
thời gian để thực hiện sự hoán cải và đổi mới cần thiết (x. Cvtđ 25, 13-16).[11] Nếu
chỉ tìm giữ lại người hoàn hảo thôi thì chỉ có rất ít, hoặc không thể có, như
thánh Phaolô nói “Không có chi hoàn hảo trên trần gian này cả.” Loại đi người
có lỗi, người đó thất bại đã đành, mà nhà đào tạo và chính bản chất của công
cuộc đào tạo (biến đổi người xấu thành người tốt) cũng thất bại.
11. Hay nhắc lại lầm lỗi cũ
Vì
muốn cho ứng sinh nhớ bài học quá khứ để sửa mình, một số nhà đào tạo trong
chúng ta hay nhắc lại lỗi lầm cũ, trong khi người có lầm lỗi đã sửa chữa, không
còn tái phạm nữa, khiến họ rất khổ tâm và nhụt chí. Đáng ra quá khứ qua rồi thì
thôi, không ai thay đổi được cái đã xảy ra, cố gắng giúp lật qua trang đời mới,
cho người ta vui vẻ tiến về tương lai: Mỗi vị thánh đều có một quá khứ và
mỗi tội nhân đều có một tương lai. Cha ông chúng ta cũng từng nói rằng
đã là người thì không ai mà không có lỗi gì, nhưng có lỗi thì sửa, và sau khi
sửa rồi thì không còn lỗi nữa (x. Câu chuyện Mẫu tự ST).
12. Làm việc cách độc đoán
Một
số nhà đào tạo trong chúng ta quên nguyên lý bổ trợ, thi hành nhiệm vụ thiếu
hài hòa, thiếu phân cấp trách nhiệm rõ ràng, “dẫm chân lên nhau” dẫn tới tình
trạng xung đột quyền bính, tranh chấp uy tín, ảnh hưởng và quyền hạn với nhau,
gây ảnh hưởng xấu tác hại trên việc đào tạo ứng sinh: “hai con trâu đánh
nhau, con ruồi chết oan”![12]
13. Lạm dụng việc đánh giá
Vì
ý hướng tốt muốn phát triển trách nhiệm tập thể cao, một số nhà đào tạo trong
chúng ta áp dụng phương thức cả cộng đoàn bỏ phiếu đánh giá quyết định ơn gọi
của nhau. Việc này vừa giảm nhẹ trách nhiệm của Bề Trên và Hội đồng đào tạo là
những người có trách nhiệm, ơn đoàn sủng và nghiệp vụ để làm việc đó, vừa trao
quyền quyết định quá lớn cho phán đoán của các thành viên không có trách nhiệm,
ơn đoàn sủng và nghiệp vụ đào tạo, chưa đủ trưởng thành để cân nhắc trách nhiệm
lương tâm khi sử dụng phiếu bầu theo cảm tính hay đầu óc phe nhóm, để cất nhắc
người cùng phe và trù dập người của phe đối lập, đang khi ý kiến hay phiếu bầu
đó chỉ nên có giá trị tham khảo để biết tình hình chung hầu xây dựng phương
hướng đào tạo thích hợp mà thôi.
Kết luận
Tóm
lại, lắm khi tính khí, quan điểm và cách làm việc bất cập hay thái quá của một
số nhà đào tạo trong chúng ta đã gây nên những thách đố, thử thách, và đau khổ
không vượt qua được đối với một số ứng sinh làm cho Giáo Hội mất đi một số ơn
gọi, mà càng ngày sẽ càng ít đi, nhất là ở các thành phố lớn và những khu vực
mới phát triển.
Ước
gì không ai trong chúng ta sẽ phải ân hận vì mình mà một hay nhiều ơn gọi đích
thực đã phải ra đi, hay đã bất cẩn cất nhắc những người mà Chúa không chọn gọi.
Chúng ta cần biết mình để tự điều chỉnh cho đúng với chức năng và tâm hồn đào
tạo. Nếu chúng ta không tự mình làm được việc đó, thì hãy xin Bề trên cho rút
lui khỏi trách nhiệm đào tạo vì lợi ích lớn hơn của các ứng sinh, của Nhà Dòng
và của Giáo Hội Chúa. Cần phải biết tự mình thay đổi trước khi bó
buộc phải thay đổi do thời thế, do người ta không thể chịu nổi và do những
thiệt hại mình gây nên.
C.
Tái đỊnh hưỚng đỜi sỐng và sỨ vỤ đào tẠo: Chúa Giêsu, kiỂu mẪu đích thỰc cỦa nhà đào TẠO.[13]
1. Theo
gương mẫu của Chúa Giêsu
Cả
chúng ta là nhà đào tạo, cả các người thụ huấn của chúng ta đều phải luôn tâm
niệm và sống tiến trình ơn gọi năm bước này:
·
Chúa gọi (trực tiếp
hay gián tiếp).
·
Con người mau mắn
và quảng đại đáp lại, vì ơn gọi “không phải là một chọn lựa luân lý hay một lý tưởng
cao quý, nhưng là sự gặp gỡ với một biến cố, một con người; một cuộc gặp gỡ
trao ban cho cuộc sống một chân trời mới, và qua đó là một hướng đi có tính
cách quyết định” (Deus Caritas Est, số 1).
·
Cam kết theo chính
Chúa Kitô, chứ không phải vì ai khác, một Chúa Kitô toàn thể với vinh quang và
thập giá, nghĩa là khi vui cũng như khi buồn, lúc thành công cũng như lúc thất
bại, khi sướng cũng như khi khổ, đều luôn trung thành theo chính Chúa Kitô.
·
Dần dần biến đổi và
điều chỉnh đời sống mình cho phù hợp với đời tu trong đặc sủng và linh đạo
Dòng.
·
Kiên trì chu toàn
bổn phận hằng ngày hôm nay và sứ vụ Dòng sẽ giao phó mai sau, trong bất cứ
trạng huống nào của cuộc sống.
Nếu
công cuộc đào tạo nhằm làm cho ứng sinh càng ngày càng nên đồng hình đồng dạng
với Chúa Kitô, thì trước hết nhà đào tạo sẽ nỗ lực nên đồng hình đồng dạng với
Chúa Kitô, kiểu mẫu đích thực của nhà đào tạo: suy nghĩ như Chúa Kitô suy nghĩ,
nhìn thấy như Chúa Kitô nhìn thấy, hành động như Chúa Kitô hành động, cầu
nguyện như Chúa Kitô cầu nguyện, hướng dẫn như Chúa Kitô hướng dẫn và yêu
thương như Chúa Kitô yêu thương, nhất là nhà đào tạo ra sức giúp ứng sinh trực
tiếp cam kết mật thiết theo chính Chúa Giêsu, để một khi “thần tượng nhà đào
tạo” có sụp đổ hay hoàn cảnh cuộc sống và sứ vụ có thế nào đi nữa thì họ vẫn
bền vững với lý tưởng ơn gọi đã lựa chọn.
1. Nhân hậu như Chúa Giêsu
Nhà
đào tạo quyết tâm theo gương mẫu hoàn hảo là Chúa Giêsu, Đấng đã rửa chân cho
các môn đệ, yêu thương và đối xử với họ như bạn hữu; sống và đồng hành với họ
trên hành trình trưởng thành đức tin và thiêng liêng. Bằng yêu thương nhẫn nại,
tận tâm săn sóc, Ngài biết rõ họ từng người một, tính tình, phẩm chất, những
điểm mạnh điểm yếu của họ. Ngài nhân hậu và bao dung trước yếu đuối, khuyết
điểm, tham vọng trần thế, cứng đầu cứng cổ, yếu lòng tin và chậm hiểu mầu nhiệm
Nước Trời của họ, và Ngài kiên nhẫn chờ đợi sự giáo dục bổ túc của Chúa Thánh
Thần cho họ.
2. Cầu nguyện cho ứng sinh
Trước
khi chọn và huấn luyện 12 tông đồ để thiết lập Giáo Hội và sai đi rao giảng Tin
Mừng, Chúa Giêsu đã cầu nguyện suốt đêm với Chúa Cha cho họ, và trao họ cho Cha
trên trời gìn giữ bảo vệ: “Bây giờ con bỏ thế gian mà về cùng Cha, nhưng họ còn
phải ở trong thế gian, con không xin Cha cất họ ra khỏi thế gian, nhưng xin Cha
gìn giữ họ cho khỏi sự dữ.” Nhà đào tạo luôn cầu nguyện cho các ứng sinh được
giao phó cho mình đào tạo, vì chỉ có Chúa biết rõ từng con người, và chỉ có
Chúa mới thay đổi được một con người, đồng thời làm cho người đó được mãi bền
vững trung kiên: “Nếu không có Thầy, các con chẳng làm gì được.”
3. Nêu gương sáng
Chúa
Giêsu đã nêu gương phục vụ rửa chân cho các tông đồ: “Thầy đã làm gương cho các
con...” Gương sáng của nhà đào tạo rất hiệu quả, như Ca dao nói “Lời nói
lung lay gương bày lôi kéo.” Chính vì thế, ĐGH Phaolô VI nói “Thế giới
ngày nay tin vào chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là
bởi vì thầy dạy đó là chứng nhân.”
Nhà
đào tạo không nhất thiết phải hoàn hảo hay là thánh, nhưng cố gắng là chứng tá một
đời sống tu trì đích thực, từ những giới hạn rất người của mình. Các người trẻ
sẽ nhạy cảm đối với gương sáng của một nhà đào tạo khiêm tốn và chân thực, theo
đúng đặc sủng và linh đạo riêng của Dòng mình, nhờ đó họ thấy nỗ lực trở thành
tu sĩ thánh thiện của họ trong Dòng là điều hoàn toàn có thể. Đó cũng là
lý do ngày nay người ta trình bày Chúa Kitô “từ bên dưới”, từ một người
Nazareth, con bà Maria và bác thợ mộc Giuse, gần gũi với mọi người, như mọi
người, để mọi người có thể cùng Ngài vươn lên với Thiên Chúa.
4. Cùng ứng sinh tìm ý
Chúa
Chúa
Giêsu suốt đời tìm thực hiện ý Chúa Cha, nhưng cũng không thoát khỏi những lúc
trăn trở, giằng co với ý riêng mình (“Lạy Cha, nếu có thể được, xin cất chén
đắng này xa con...”). Nhà đào tạo khiêm tốn biết chấp nhận những nghịch
cảnh và trái ý, lại không tự phụ cả dám đồng hóa ý mình với ý Chúa và áp đặt
lên ứng sinh. Trái lại, nhà đào tạo dẫn dắt ứng sinh và cùng với ứng sinh cầu
nguyện tìm thánh ý Chúa để thực thi, bằng cách nỗ lực khám phá điều Chúa Thánh
Thần muốn nói với ứng sinh qua mình, và cũng
khiêm tốn tìm biết điều Chúa Thánh Thần muốn nhắc nhở mình qua ứng
sinh.
5. Không nản lòng vì thất bại
Chúa
Giêsu cũng có những nỗi buồn thất bại (“Linh hồn Thầy buồn có thể chết được…
Một người trong các con sẽ phản nộp Thầy… ”). Nhà đào tạo cũng biết khiêm
tốn chấp nhận thất bại, nghịch cảnh và trái ý, không phải lúc nào ứng sinh cũng
được như ý mình muốn cả đâu… Trái lại, nhà đào tạo luôn tin tưởng mãnh liệt
rằng đào tạo là thay thế và biến đổi, thay thế cái xấu bằng cái tốt, biến đổi
người chưa tốt thành người tốt và biến đổi người tốt thành người tốt hơn, trong
tiến trình thành nhân rồi mới thành thánh nhân.
Trong
chiều hướng ấy, nhà đào tạo luôn quý chuộng và ra sức gìn giữ các ơn gọi Chúa
gửi đến cho mình, như người chăn chiên lành để lại 99 con chiên trong đàn đi
tìm con chiên lạc: Những kẻ Cha đã ban
cho con, con không để một ai phải hư mất, trừ ra kẻ phải hư hỏng để Lời Kinh
Thánh được nên trọn.
6. Mở rộng con đường trở
về
Chúa
Giêsu thừa nhận tội của Madalêna, nhưng Ngài không đóng chặt bà lại ở tội quá
khứ, mà đã mở rộng con đường biến đổi tương lai cho bà trở thành vị thánh nữ
loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Nhà đào tạo nhìn xa tin tưởng và hy vọng vào sự
biến đổi tốt đẹp trong tương lai của ứng sinh, nhờ ơn Chúa: “mỗi vị thánh
đều có một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương lai.” Thấu cảm, độ
lượng và tha thứ, gạn đục khơi trong theo gương lòng nhân hậu của Chúa: “Cây
sậy đã rạp xuống Ngài không bẻ gãy, ngọn đèn còn leo lét khói Ngài không dập
tắt.”
Nhà
đào tạo nhân từ không quên dụ ngôn người chăn chiên lành đi tìm con chiên lạc
vác trên vai đưa về mở tiệc ăn mừng. Người nào còn cứu được, hãy cố cứu: người
được tha nhiều sẽ cảm nhận hạnh phúc và sẽ cố gắng bền vững (Hạnh phúc kẻ được
tha nhiều, sẽ lo yêu mến trăm chiều trung kiên). Phêrô đã chối Thầy vì yếu
đuối, dù Chúa đã báo trước. Ngài nhìn lại để thấy nước mắt ăn năn của ông
và vẫn tiếp tục thương tín nhiệm trao cho nhiệm vụ chăn dắt toàn thể Giáo
Hội.
7. Không nhắc lại lầm lỗi
quá khứ
Trong
dụ ngôn đứa con hoang đàng, người cha khoan hậu không màng đến lời xin lỗi của
đứa con trở về, một chỉ vui mừng “vì con ta đã mất nay tìm thấy, đã chết nay
sống lại.” Nhà đào tạo bao dung không nhắc lại lầm lỗi quá khứ của ứng sinh
và hành xử căn cứ vào lầm lỗi cũ; mọi sự đã đổi mới, cố gắng giúp họ lật qua
trang đời mới: Chiếc đồng hồ bị hư, sau khi sửa rồi không ai còn gọi nó là đồng
hồ hư nữa; và nếu ai còn coi đó là đồng hồ hư là không đúng. Vì thế, cha ông
chúng ta đã nói: “Nhân thùy vô quá, hữu quá tắc cải, thị vị vô quá.”
8.Kín đáo cẩn mật về lầm lỗi cá nhân của ứng sinh
Dù
Giuđa toan tính phản nộp Ngài với giá chỉ bằng một phần mười bình dầu thơm
người phụ nữ xức chân Chúa, Chúa Giêsu vẫn luôn kín đáo nhắc khéo Giuđa nhiều
lần, cho ông cơ hội sửa mình (“một người trong các con sẽ nộp thầy; việc gì
con tính làm thì hãy làm mau đi; Giuđa, con dùng cái hôn để nộp Con Người sao?…”).
Nhà đào tạo khéo léo sẽ kín đáo, không đem lỗi lầm hay tâm sự của ứng sinh và
của người khác nói ra công khai với mọi người, gây thiệt hại và làm mất lòng
tín nhiệm của đương sự cũng như của những người nghe. Người ta sẽ đóng lòng lại
và không ai dám nói gì với mình nữa.
9. Gợi ý thúc đẩy sáng
kiến và quyết tâm
Nhiều
lần trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng lối hỏi gợi ý để dạy dỗ (“Các con nghĩ
sao?... Ông Simong, tôi có điều này muốn nói với ông…”). Nhà đào tạo dày
kinh nghiệm dùng phương pháp này để giúp ứng sinh nhận ra thực trạng của mình
để tự đào tạo, tự đưa ra sáng kiến và quyết tâm chọn lựa, như thế mới bền. Nhờ
Chúa hỏi mà Phêrô tuyên xưng đức tin và Chúa có cơ hội để dạy điều quan trọng
hơn được chính Chúa Cha mạc khải cho. Nhà đào tạo khéo léo triệt để vận dụng
phương pháp này, trong tinh thần đối thoại, kể cả trong “vâng lời đối thoại” liên
quan đến quyền bính mà Vatican II đề xướng. Cùng nhắm đến một mục tiêu, nhưng
gợi ý thì hiệu quả hơn là truyền lệnh và bắt buộc: “Ông nói đúng, hãy đi và làm như vậy.”
10. Thương người lầm lỗi
Chúa
Giêsu dạy chúng ta giới răn mới đặc biệt của Ngài: “Các con hãy yêu thương
nhau, như Thầy đã yêu thương các con”. Chúng ta thế nào thì Chúa vẫn yêu
thương chúng ta như thế ấy, và Ngài sẽ yêu thương chúng ta cho đến cùng. Nhà
đào tạo tốt luôn biểu lộ lòng yêu thương; không có lòng yêu thương độ lượng
không thể đào tạo được: Loại bỏ lỗi lầm nhưng thương yêu người lầm lỗi và tạo
cơ hội cho họ hoán cải nên tốt. Chính tình yêu thương ấy làm cho cộng đoàn
triển nở hạnh phúc, và nhờ đó mà phát triển thêm nhiều ơn gọi mới: “Xem kìa,
họ yêu thương nhau là dường nào!”
11. Không thử thách quá
sức ứng sinh
Thánh
Phaolô căn dặn Timôthê về việc tuyển chọn các trợ tá: “Họ phải được thử
thách trước đã, rồi mới được thi hành chức vụ...” (1 Tm 3,10). Thử thách là
cần thiết và có nhiều thứ, nhưng nhà đào tạo nhân từ không đưa ra những thử
thách không cần thiết, hay vượt quá sức ứng sinh, nhất là không bao giờ “gài
bẫy” cho họ mắc phải để có cớ trừng trị. Chúa không để thử thách nào vượt
quá sức con người: Sau khi loan báo về cuộc khổ nạn, Phêrô đã ngăn cản và bị
Chúa Giêsu quở là Satan vì ông chỉ biết việc của con người, mà không biết việc
của Thiên Chúa. Nhưng tiếp đó, Ngài đã biến hình trên núi trước mắt các tông đồ
thân tín hầu nâng đỡ đức tin yếu kém của các ông trước thử thách thập giá. Và
khi Phêrô yếu đuối sa ngã chối Ngài, Chúa Giêsu đã nhìn lại với ánh mắt nhân từ
thương yêu khiến ông đủ sức chỗi dậy.
12. Cho biết lỗi, lắng nghe lời giải thích biện hộ
Cvtđ
25,16 dạy để cho bị cáo được đối chất với nguyên cáo, và được cơ hội biện hộ
về lời tố cáo. Ở đời ai mà chẳng có lúc lầm lỗi. Tội thì tha, lỗi thì sửa.
Nhà đào tạo nhân từ và nhẫn nại cho ứng sinh biết lỗi, nghe họ giải thích, cho
họ cơ hội và thời gian để sửa chữa, nhất là khi lỗi lầm còn kín đáo; khi họ
không sửa được và lỗi lầm trở nên bản chất nghiêm trọng rồi hẵng hay. Và
cho họ ra về cũng với sự tôn trọng, (chẳng hạn như “vì không thích hợp với đời
tu”), chứ không rêu rao là họ bị loại, bị đuổi vì lầm nọ lỗi kia làm tổn thương
nhân phẩm và danh dự của họ, khiến họ ra đi mà hận trong lòng chẳng bao giờ
quay trở lại nữa. Làm gì thì cũng nên để lại một chút tình, để sau còn nhìn sửa
mặt nhau.
Nhà
đào tạo tâm huyết nhìn về tương lai nỗ lực khắc phục sự mất mát đó. Các cựu ứng
sinh nầy cũng là kho tàng của Nhà Dòng, họ sẽ cộng tác vào công cuộc của Hội
Dòng cách này hay cách khác. Hãy tạo cơ hội cho họ đền đáp những ân huệ đã lãnh
nhận bằng cách góp phần cách tích cực và hữu hiệu vào đời sống và sứ mệnh của
Hội Dòng nói riêng, và của Giáo Hội nói chung, về nhân lực cũng như vật lực.
Các Hội Dòng thiết lập được Hội cựu tu sinh hiểu rõ sức mạnh và lợi ích của
lòng tôn trọng đó.
13. Hiện diện mang lại bình an và an toàn
Trong
những lúc các tông đồ bị dao động và sợ hãi trên biển cả trong đêm tối, bán tín
bán nghi tưởng nhìn thấy ma, Chúa Giêsu lập tức có mặt: “Các con đừng sợ,
chính Thầy đây! Bình an cho các con!” Nhà đào tạo lịch lãm tỏ ra có khả
năng kiến tạo bầu khí bình an và an toàn, đồng thời đem lại sự bình an cho các
ứng sinh, nhất là trong những lúc họ gặp thử thách, bất hòa, nghi nan, do dự,
tiến thối lưỡng nan trước con đường lý tưởng cao cả nhưng nhiều yêu sách một
bên, và bên kia là sức con người dòn mỏng yếu đuối đối diện với những dao động,
chiến đấu cũng như những khó khăn trái ý, đau khổ, và nghịch cảnh đa dạng
khác.
14. Nhẫn nại chấp nhận
những giới hạn
Chúa
Giêsu nói với các tông đồ: “Thầy còn nhiều điều cần nói với các con, nhưng
bây giờ các con thể hiểu được, chờ đến khi Thần Chân Lý đến...” (x. Ga
16,12-13). Thánh Phaolô cũng đã viết: “Tôi đã cho anh em uống sữa, chứ không
phải đồ ăn cứng, bởi khi ấy anh em chưa sao chịu nổi, mà cả bây giờ anh em cũng
chưa chịu nổi đâu!” (1 Cr 3,2). Nhà đào tạo có sư phạm và tâm lý sẽ nhẫn
nại, không đòi hỏi những tiêu chuẩn đánh giá quá cao, so với trình độ tuổi tác,
kiến thức, sự trưởng thành nhân bản và thiêng liêng của ứng sinh: Không đốt
giai đoạn, vì đốt giai đoạn là đốt cháy một đời người.
Nhà
đào tạo từng trải kinh nghiệm và nhân hậu luôn nhớ hai sức mạnh đối nghịch mà
thánh Phaolô nói đến khiến con người không làm được điều tốt mình muốn làm,
nhưng lại làm điều xấu mình không muốn làm.[14]
Chấp
nhận những giới hạn yếu đuối bất toàn và bất lực của mình khiến ta ngày càng
khiêm tốn hơn. Chấp nhận những giới hạn yếu đuối bất toàn bất lực của người
khác khiến ta ngày càng cảm thông, độ lượng, tha thứ và bỏ qua lầm lỗi thiếu
sót của người hơn. Nhà đào tạo cảm thông áp dụng điều ấy vào tương quan của
mình với ứng sinh sẽ tìm thấy một con đường rộng mở và mở rộng một con đường
cho ứng sinh tiến bước.
15. Tiến trình chỉ bảo huynh đệ và lòng cảm thông
Nhà
đào tạo khéo léo dung hòa được lòng cảm thông với lầm lỗi của ứng sinh luôn nhớ
tiến trình chỉ bảo huynh đệ mà Chúa Giêsu dạy trong Phúc âm: “Nếu anh em ngươi trót phạm tội, thì hãy đi
sửa lỗi nó, riêng ngươi với nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, ngươi đã lợi được người
anh em. Nếu nó không nghe ngươi, ngươi hãy kèm theo một/hai người nữa, để tất
cả công việc được đoán định do miệng hai/ba nhân chứng. Nếu nó không màng nghe
họ, hãy thưa với cộng đoàn…” (x. Mt.18, 15-17).
Một người có thể phạm lỗi cố tình hay
vô ý, biết rõ hay không biết gì. Nhà đào tạo có thể có hai thái độ hành xử: -
hoặc là phòng bệnh, - hoặc là chữa bệnh. Nhà đào tạo cảm thông phòng bệnh đi
bước trước, ngăn ngừa những ảnh hưởng tác hại từ bên ngoài, hay dập tắt ngay từ
trứng nước cái mầm từ bên trong, để lỗi lầm không thể xảy ra. Như người làm
nông năng thăm vườn cây, khi phát hiện cây bị sâu bệnh liền phun thuốc diệt sâu
bệnh hại cây, nhà đào tạo cảm thông đón trước và khuyến cáo ngay lỗi lầm có
thể, ngăn ngừa các ảnh hưởng và nguyên nhân từ bên ngoài, hay những yếu đuối từ
bên trong thân phận con người để lỗi lầm không xảy ra.
Nhà
đào tạo cảm thông tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai, cho người
phạm lỗi biết lỗi, lắng nghe lời giải thích biện hộ, kết luận xác định đúng lỗi
lầm, gợi ý đương sự tự ra hình phạt, cho đương sự cơ hội và thời gian sửa chữa,
và nhẫn nại giúp đương sự tập nhân đức ngược lại, hy vọng vào kết quả sẽ có
trong tương lai: “xin cứ để nó lại năm
nay nữa, tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó, may ra sang năm nó có
trái chăng; nếu không thì ông hẳng chặt” (x. Lc 13, 6-9)
Nhà
đào tạo thiếu cảm thông mới khám phá thấy lỗi lầm đã có biện pháp ngay, vì óc
cầu toàn đòi hỏi và đốt giai đoạn, coi ứng sinh như đã đạt tới trình độ cao của
người đã tu tập thành đạt. Hoặc khá hơn, nhà đào tạo thiếu cảm thông sẽ chờ đợi
lỗi lầm trở nên rõ ràng để có biện pháp, nhất là khi người có lỗi che đậy, giấu
giếm vì một lý do nào đó.
Do
thái độ ngoan cố, ngang bướng và thiếu tinh thần phục thiện của ứng sinh lầm
lỗi, nhà đào tạo thiếu cảm thông thường âm thầm theo dõi hoặc tệ hại hơn là cho
người theo dõi, có khi còn “gài bẩy” cho mắc phải để đương sự không thể cãi
lại, chữa mình hay chối cãi được nữa. Thật ra nhà đào tạo nên tìm một lối khác,
chứ loại chiến thắng này không đem lại lợi ích cho ai cả. Người chiến bại chẳng
còn gì, mà kẻ chiến thắng cũng chỉ chiến thắng trên một đỗ vỡ tan nát. Người
thiệt hại nhất là Hội Dòng, Giáo Hội và chính Chúa; trong khi kẻ hưởng lợi nhất
là Satan và những kẻ nghịch thù cùng Hội Thánh.
Nhà
đào tạo khéo léo sử dụng kỹ thuật chỉ bảo huynh đệ “feed-back”, áp dụng vào đào
tạo và tự đào tạo, cả về chiều dọc lẫn chiều ngang: Người và ta, trên và dưới
cảm thông nhau, gặp được nhau, hiểu được nhau trong mọi quan điểm thì mọi việc
đều được giải quyết dễ dàng và tốt đẹp. Tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong
tương lai, với ơn Chúa và sự cố gắng của mỗi người.
Tóm
lại, nhà đào tạo tốt phải theo sát mẫu gương Chúa Giêsu, thực hiện cho thụ huấn
sinh của mình như Chúa Giêsu đã làm:
-
suy nghĩ với đầu óc
của Chúa Giêsu,
-
nhìn sự việc với
con mắt Chúa Giêsu,
-
hành động với sức
mạnh của Chúa Giêsu,
-
phán đoán với sự
khôn ngoan của Chúa Giêsu,
-
sử dụng biện pháp
với lòng nhân hậu của Chúa Giêsu,
-
yêu thương với con
tim của Chúa Giêsu,
-
đào tạo với sư phạm
của Chúa Giêsu...
Nếu
nhà đào tạo làm được như vậy, công cuộc đào tạo sẽ thành công mỹ mãn, tương lai
của Hội Dòng, của Giáo Hội và Nhân Loại sẽ tốt đẹp hơn.
2. Định Hướng Phương Cách
Đào Tạo
Con
người cần một môi trường để hình thành và tồn tại trong cái “trở thành” của
mình. Môi trường đào tạo tu sĩ là một cộng đồng liên nhân vị, mà mỗi người đều
sống cùng, sống với và sống cho người khác. Sau đây, chúng ta sẽ nói đến bối
cảnh trong đó các nhà đào tạo tự đào tạo và đào tạo ứng sinh, để trở thành nhà
đào tạo mỗi ngày một tốt hơn.
a. Cộng đoàn giáo dục
Các
nhà đào tạo và những người đang được đào tạo, trong mối tương quan liên nhân
vị, làm nên một cộng đoàn có tính cách đào tạo và có khả năng đào tạo. Cộng đoàn
giáo dục phải luôn cho thấy một hướng đi, một cái nhìn rõ ràng thế nào là đời
tu, qua việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm, diễn tả ra nơi Hiến pháp, Nội
qui và Luật sống chiếu theo đặc sủng và linh đạo của vị sáng lập mà Dòng đã kế
thừa, bổ sung và kiện toàn qua dòng thời gian do các nhu cầu tông đồ đề xướng;
cũng như sẽ bổ sung và thích nghi sao cho phù hợp với nhu cầu tông đồ của thời
đại mới, mà vẫn giữ căn tính của Dòng mình (x. Những Bước Chân Gieo Yêu Thương, đúc kết của Học viên Liên tu sĩ
Bùi Chu niên khóa 2008-2009 về đặc sủng và linh đạo Dòng).
Ứng
sinh có quyền đòi hỏi các Bề trên và nhà đào tạo khai tâm cho họ đặc sủng và
linh đạo Dòng ngay từ những bước tập tễnh đầu tiên vào Dòng, đồng thời cho họ
chứng tá sống động trong thực tế về đặc sủng và linh đạo của Dòng, là những yếu
tố làm cho người tu sĩ càng ngày càng gắn bó với Dòng mình hơn, để họ tự trắc
nghiệm, cũng như nhà đào tạo phải xem họ có thích hợp với đặc sủng và linh đạo
Dòng không, nếu không thì nên thay đổi sớm sẽ tốt hơn cho cả đôi bên. Và đến
lượt họ, các tu sĩ trẻ sẽ phải là chứng tá về đặc sủng và linh đạo Dòng để củng
cố ơn gọi Dòng cho các thế hệ tiếp theo sau họ: “Dập dìu kẻ trước người sau,
sức riêng một ít góp vào lợi chung.”
Cộng
đoàn giáo dục loại trừ sự sợ hãi, kiến tạo bầu khí bình an và an toàn, kiên
định và bền vững, thích hợp cho việc phát triển toàn diện nhân bản và thiêng
liêng, qua việc chỉ bảo lẫn nhau, chấp nhận nhau, ý thức về lợi ích và niềm vui
chung trong việc tìm kiếm và phục vụ Chúa.
Cộng
đoàn giáo dục thể hiện trách nhiệm tập thể trong việc đào tạo, trong đó ứng
sinh được mời đảm nhận trách nhiệm hàng đầu tự đào tạo chính họ, đồng thời cộng
tác vào việc đào tạo các bạn đồng môn.
Cộng
đoàn giáo dục này cũng phải mở ra với các cơ cấu khác của Giáo Hội Địa phương,
để đào tạo ý thức tông đồ, giúp ứng sinh khám phá ra tính cấp bách của việc
loan báo Tin Mừng, ý nghĩa và những đòi hỏi của cuộc đời trọn vẹn hiến dâng
phục vụ Nước Chúa.
b. Đội ngũ đào tạo hiệp nhất
Trách
nhiệm tập thể của các nhà đào tạo đóng vai trò tiên quyết trong việc đào tạo,
nên phải có một đội ngũ hiệp nhất các nhà đào tạo, sẵn sàng cộng tác huynh
đệ, đồng trách nhiệm, chia sẻ đời sống và đối thoại chân thành. Chính sự hiệp
nhất của các nhà đào tạo với Chúa Kitô là nền tảng, khuôn mẫu và keo sơn cho sự
hiệp nhất tinh thần và hành động của họ với nhau.
Mỗi
nhà đào tạo chỉ đóng một phần vai trò trong việc đào tạo. Chính công việc của
cộng đoàn giáo dục và đội ngũ hợp nhất các nhà đào tạo mới có tính cách đào tạo
toàn diện. Các nhà đào tạo tìm được sự nâng đỡ không thể thiếu từ anh chị em
đồng nghiệp. Không có tình liên đới này, sứ vụ sẽ trở nên nặng nề và mất đi
hiệu năng. Tính tập đoàn (collégialité) vừa nâng đỡ trách nhiệm tập thể của các
nhà đào tạo vừa tránh cho các ứng sinh khỏi những thiệt hại do quyết định khắt
khe và độc đoán của một số cá nhân, vì bên cạnh ông ác vẫn còn có ông thiện (x.
Câu chuyện bỏ phiếu 2/10), nhờ có sự bàn bạc, cân nhắc và lấy biểu quyết bằng
phiếu kín của mọi thành viên Hội đồng, chứ không để cho ý kiến cá nhân mạnh thế
nào áp đặt.
Tính
tập đoàn và đồng trách nhiệm của các nhà đào tạo còn là gương mẫu và động lực
đào tạo cho các ứng sinh có ý thức cộng đồng, biết quan tâm đến người khác,
biết hợp tác với người khác làm việc chung, biết nhượng bộ ý kiến chủ quan của
mình cho ý kiến khách quan của tập thể vì lợi ích chung.
c. Nhà đào tạo
Các
ứng sinh sẽ bắt chước hạnh kiểm và noi theo lời dạy của các nhà đào tạo: họ
chịu ảnh hưởng những gì họ đã thấy và đã nghe từ các nhà đào tạo.
Nhà
đào tạo tốt cần hai điều kiện rất quan trọng này: một là lòng khiêm nhường ý
thức giới hạn và yếu đuối của mình để tin tưởng vào Chúa; hai là tinh thần hài
hước rộng lượng ý thức rằng ứng sinh không hoàn hảo như mình mong muốn, nhưng
là những con người bất toàn để mình đào tạo.
Nhà
đào tạo trung thực nhận biết các điểm mạnh điểm yếu trong cách xử sự, các thái
độ, các tình cảm, các động lực và ngộ nhận cơ bản của mình. Chính nhờ kinh
nghiệm bản thân mà nhà đào tạo giúp ứng sinh cách hữu hiệu. Nhà đào tạo phải
phát huy nghiệp vụ giảng dạy bằng cách cập nhật hóa kiến thức theo kịp với
những nhu cầu hiện tại của Giáo Hội giữa một thế giới đang đổi thay nhanh
chóng, đồng thời cải tiến phương pháp giảng dạy trong sự trung thành với Mạc
khải và Huấn quyền.
Phẩm
chất của nhà đào tạo hết sức quan trọng: Người ta cần giáo sư giỏi để dạy học,
nhưng lại cần hơn nhà đào tạo tốt để huấn luyện con người toàn diện. Họ
phải là những con người của đời sống cầu nguyện sâu xa, khiêm tốn và khôn
ngoan. Họ cần “được tuyển chọn giữa những người ưu tú, được chuẩn bị kỹ lưỡng
bởi một nền giáo lý vững chắc, một kinh nghiệm mục vụ thích hợp, được huấn
luyện đặc biệt về thiêng liêng và sư phạm.”[15]
Nhà đào tạo phải không ngừng tự đào tạo mình bằng chính công cuộc đào tạo của
mình: càng sống và làm việc đào tạo, càng trở nên nhà đào tạo hơn, như chúng ta
thường nghe nói “người ta trở thành thợ rèn bằng cách rèn”
d. Chính ứng sinh và việc tự đào tạo
Việc
đào tạo sẽ mất đi hiệu quả của nó, nếu nó không bao hàm sự tham gia cá nhân của
ứng sinh, nghĩa là sự tự đào tạo của ứng sinh. Chính vì thế, Đức Gioan Phaolo
II đã nhắc nhở rằng chính ứng sinh là nhân tố cần thiết và không thể thay thế
được trong việc đào tạo của chính mình: “Tự
đào tạo là tối quan trọng trong tất cả mọi công cuộc đào tạo. Không ai có thể
thay thế ứng sinh trong sự tự do có trách nhiệm mà ứng sinh có được như là
những nhân vị độc đáo” (x. JP. II, Pastores Dabo Vobis 69).
Tự
đào tạo là yếu tố quyết định đưa tới thành công trong việc đào tạo, nhất là đào
tạo thiêng liêng. Mặc dù Chúa Thánh Thần là tác nhân tuyệt hảo trong việc đào
tạo này, ứng sinh phải hoàn toàn tự do đón nhận tác động định hình Ngài. Cũng
thế, hoạt động của các nhà đào tạo khác nhau sẽ chỉ trở nên thực sự và đầy đủ
hiệu quả, nếu ứng sinh cống hiến sự cộng tác chân thành và xác tín của mình vào
công cuộc đào tạo này.
Quan
niệm Á Châu “không thầy đố mầy làm nên” được hiểu trong một tầm cao mới là thầy
phải kích thích cho được tính chủ động của trò: nếu không có sự thực hành của
trò thì những giáo huấn và lý thuyết của thầy chỉ là những lời hoa mỹ thôi.
Điều rất quan trọng là việc đào tạo phải cung cấp cho ứng sinh cách suy nghĩ
mới, cách sống mới, cách hành động mới, cách yêu thương mới và cách làm chứng
mới cho Tin Mừng. Nhưng điều còn quan trọng hơn nữa là việc tự đào tạo này phải
đem sự hiểu biết hữu ích đó ra thực hiện. Sự cộng tác chặt chẽ giữa hai phía,
đào tạo và tự đào tạo, là điều kiện tiên quyết cho mọi thành công, và dĩ nhiên
với ơn Chúa nữa. Vì thế, Pastores Dabo Vobis đòi hỏi: “Các ứng sinh... phải hết
sức ý thức chuẩn bị chính mình để đón nhận ơn Chúa và đem ra thực hành, biết
rằng Giáo Hội và thế giới đang rất cần đến họ” (JP. II, Pastores Dabo Vobis số
82).
e. Nhóm bạn đồng môn
Ngày
xưa người ta hay nói “học thầy không tầy học bạn.” Ngày nay người ta nhấn mạnh
nhiều đến tính năng động nhóm. Nhà đào tạo phân chia ứng sinh thành nhiều nhóm
nhỏ, tự bầu lên người trách nhiệm nhóm, nhằm thăng tiến tinh thần tập đoàn
(collégialité) và đời sống cộng đoàn. Phải nhắm đến cả hai, các cá nhân và
nhóm, như một toàn thể, ngõ hầu bảo đảm được sự trưởng thành của cả hai, cá
nhân và tập thể.
Đời
sống trong nhóm gồm có những lúc cầu nguyện, gặp gỡ hàng tuần về một đề tài
thuộc đời sống thiêng liêng (chia sẻ đức tin), những giờ giải trí, các hoạt
động mục vụ, trách nhiệm phụng vụ và các dịch vụ hàng ngày. Sự tương tác trong
những nhóm như thế giúp phát triển sự tin tưởng lẫn nhau, truyền thông và chia
sẻ, góp phần xây dựng một cộng đoàn đúng nghĩa.
Nhóm
nhỏ này có thể trở thành một nhóm bạn thân có thể dễ dàng thực hành việc “chỉ
bảo huynh đệ.”[16]
Thường người ta không dám sửa lỗi người khác, phần vì con người ai cũng yếu
đuối và bất toàn, phần vì tế nhị hay sợ phản ứng tiêu cực từ phía người kia,
hay ít nhất để tránh hiểu lầm nhau, mâu thuẫn và xung đột có thể có. Vậy, cách
tốt hơn và dễ hơn là mọi người đồng ý thỏa thuận với nhau rằng nếu một người
trong nhóm thấy người khác có lỗi, thì người này sẽ nói với người đó về lỗi ấy.
Trong
bối cảnh cuộc gặp gỡ hàng tuần chia sẻ Phúc Âm và kiểm điểm đời sống, mỗi người
có thể góp ý phản hồi cho người khác và giúp nhau tiến bộ hơn trong tiến trình
được đào tạo và tự đào tạo, hy vọng tiến tới tình huynh đệ cộng đoàn đích thực
(x. Tv 133, 1). Tiến trình này đòi hỏi phải có ý ngay lành, sự sẵn sàng để thay
đổi, lòng can đảm, tình bác ái, và nhất là ơn Chúa.
Trong
cấp độ đời sống nhóm này, mỗi người phải học biết chăm chú lắng nghe và cho
người khác ý kiến phản hồi cách thích hợp. Mỗi người cũng phải học biết chấp
nhận chính mình và chấp nhận người khác: càng biết nhìn nhận lỗi lầm, thiếu
sót, giới hạn, yếu đuối và bất lực của mình, chúng ta càng trở nên khiêm tốn
hơn; và khi càng biết chấp nhận những bất lợi đó của người khác, chúng ta càng
trở nên độ lượng và cảm thông hơn với họ.
Đời
sống nhóm giúp mỗi thành viên khám phá và phát triển những tài năng, tài năng
tự nhiên và tài năng đạt được từ kinh nghiệm cuộc sống. Mỗi người có trách
nhiệm tìm biết và phát triển những ân huệ ấy. Chẳng ai sở hữu được mọi ân huệ
của Thiên Chúa, nhưng những ân huệ cần thiết cho sứ mạng luôn hiện diện trong
cộng đoàn, và cộng đoàn là nơi cần thiết để nhận ra các ân huệ của mỗi thành
viên (x. 1Cr 12-14).
Tuy
nhiên, nhiều khi người ta phải chịu đựng những khó khăn và xung đột do ghen tị
hay thèm muốn ân huệ của người khác (x. Gal 5,26). Nếu biết chú ý tới những
khác biệt của tha nhân, đánh giá sự độc đáo của người khác với sự hiểu biết
tích cực, coi những xung đột chỉ là một phần cần thiết trong tiến trình tôi
luyện trưởng thành, thì mọi sự sẽ được giải quyết, cộng đoàn sẽ tiến triển tốt
đẹp, và sứ mạng loan báo Tin Mừng của Hội Thánh sẽ được hiệu quả hơn (Gl 6,2).
f. Sự thích nghi cần thiết
Nhà
đào tạo phải bắc được nhịp cầu nối này: Ứng sinh mới đến đôi khi khó hội nhập
vào cộng đoàn, trong lúc những người đã sống ở đó thấy thế giới của mình bị xáo
trộn bởi những người mới đến. Những người lớn tuổi muốn rằng người mới vào phải
có tư tưởng, tình cảm, khát vọng và trông đợi như họ, mà quên đi khoảng cách
văn hóa và giáo dục của các thế hệ. Do đó cần phải lắng nghe và nỗ lực cảm
thông nhiều lắm để thích nghi với nhau. Nét đẹp của cuộc đời đến từ sự đổi mới
không ngừng, và cuộc đời sẽ phong phú khi mọi người được từ từ biến đổi ăn nhịp
với sự hiểu biết, cách làm, cách sống và cách suy tư mới mẻ của nhau.
Nhà
đào tạo phải tôn trọng và đón nhận sự khác mình của ứng sinh, đồng thời phải
thích nghi phương pháp đào tạo của mình, dù đôi khi khó khăn. Trong đời sống
gia đình, đôi vợ chồng phải thay đổi cuộc sống khi đón nhận đứa con đầu lòng,
tự điều chỉnh và thích nghi với các nhu cầu và chỗ đứng của đứa con. Với mỗi
đứa con ra đời, cha mẹ và cả gia đình phải tái điều chỉnh cách xử sự. Công cuộc
đào tạo cũng tương tự như thế. Người mới vào phải học biết kinh nghiệm và khôn
ngoan của người đi trước bằng cách niềm nở lắng nghe, hòa nhịp cùng với bước đi
của cộng đoàn và hội nhập vào cách sống đã được thiết lập và cấu trúc. Người cũ
cũng không quá nại vào nề nếp để làm khó cho những người mới đến, bắt họ phải
mau chóng đi vào thế giới của mình và điều chỉnh ngay theo nhịp sống và tư
tưởng của mình.
g. Trách nhiệm đào tạo
Nhà
đào tạo không nhất thiết phải hoàn hảo hay là thánh, nhưng phải là chứng tá một
đời sống tu trì trung thực, theo đúng đặc sủng và linh đạo của Dòng. Tính trung
thực làm nên sự thành công của nhà đào tạo. Các người trẻ sẽ nhạy cảm đối với
gương sáng của một nhà đào tạo khiêm tốn và chân thực.
Các
ứng sinh sẽ rất tín nhiệm uy quyền của các nhà đào tạo được thực hiện hài hòa
theo nguyên tắc căn bản này: Trách nhiệm đòi phải có quyền bính tương ứng và
phải luôn theo nguyên lý bổ trợ, chứ không qua mặt các cấp độ trách nhiệm, dẫn
đến tình trạng mâu thuẫn “trống đánh xuôi kèn thổi ngược”, ứng sinh không biết
phải theo ai.
Cần
có sự trao đổi thống nhất đường lối và hành động: bề trên không bao giờ bỏ qua
người có trách nhiệm đào tạo để trực tiếp điều chỉnh các người dưới quyền của
người đó, và người trách nhiệm cấp dưới không làm điều gì quan trọng mà không
thông qua ý kiến và sự chấp thuận của cấp trên.
Nhà
đào tạo không thể chuyên môn trong mọi sự, nhưng phải luôn giữ trách nhiệm đồng
hành cho từng cá nhân ứng sinh. Cần phải xây dựng tương quan hợp tác giữa các
giáo sư và nhà đào tạo, vì việc đào tạo là một toàn thể và các môn học phải góp
phần vào việc đào tạo toàn diện, nhân bản và thiêng liêng, tri thức và tông đồ
cho ứng sinh.
h. Tương quan đào tạo
Trong
tương quan đào tạo, tiến trình giáo dục phải đi trước. Giáo dục là giúp ứng
sinh nhận diện cái tôi sâu thẳm của mình để rồi khai thông và biến cái tôi này
thành cái tôi mà nó phải trở thành. Nếu không hiểu được chính mình, khám phá ra
các động cơ còn nằm trong tiềm thức và nhận ra các phân mảnh của mình để biến
đổi thì không thể nào đạt được sự trưởng thành và thống nhất nội tâm.
Nhà
đào tạo phải cố gắng đi vào khoảng không gian kín ẩn của từng ứng sinh, hiểu rõ
các ước muốn tốt cũng như những tổn thương sâu xa thường được che giấu của họ,
giúp họ hiểu biết chính mình và tin tưởng để ân sủng Chúa tác động, thì họ mới
tiến bộ thực sự được. Nếu không làm như thế thì sự tiến bộ đó chỉ có bề ngoài.
Nội dung đào tạo sẽ không bén rễ sâu trong ứng sinh, và kết quả đào tạo sẽ chỉ
biểu hiện trên cách ứng xử của đương sự trong một thời gian nào đó mà không kết
hợp được với các động lực sâu xa của họ.
Việc
thiếu hụt các nhà đào tạo có chất lượng ảnh hưởng không chỉ đào tạo tri thức,
mà cả đào tạo nhân bản và thiêng liêng: nhà đào tạo không có cả thời gian và
nghị lực để lắng nghe, thấu hiểu và cảm thông, cung cấp sự đào tạo hữu hiệu cho
ứng sinh; và các ứng sinh cũng bị tước mất nhu cầu chia sẻ và trình bày những
vấn đề thực tế phức tạp của họ.
Điều
đáng ao ước là có nhà đào tạo thích hợp cho từng giai đoạn huấn luyện: nhân
cách và tài năng của nhà đào tạo được thi thố tốt, và các ứng sinh sẽ được đào
tạo tốt hơn trong từng giai đoạn liên hệ. Mỗi giai đoạn phải nhằm một mục tiêu
đặc biệt, chẳng hạn giai đoạn Nhà Tập phải là thời gian trong đó đời sống
thiêng liêng vượt trổi hơn đời sống tông đồ (x.GL 652,5). Nhưng tất cả các giai
đoạn phải nằm trong một tổng thể nhất quán và liên tục.
Nhà
đào tạo cần gần gũi, nhưng nên tránh tình trạng “quen quá hóa nhờn”, nghĩa là
phải có một mức độ thân mật đủ để trao đổi hầu ứng sinh biết mình và cái
mình phải “trở thành.” Một liên hệ quá quen thuộc nhàm lờn liều mình tạo nên
một sự thông đồng cản trở những tương quan lành mạnh. Những xung đột liên nhân
vị có thể dễ dàng sản sinh ra những mối ác cảm rất mạnh và nguy hiểm, có thể
trở nên không chịu nổi cho người này lẫn người kia.
Lòng
khiêm tốn của nhà đào tạo mở ra với đối thoại và cảm thông. Sự khác biệt tâm
thức giữa các thế hệ có thể sẽ ảnh hưởng đến tính đáng tin cậy của nhà đào tạo
đối với những ai được giao phó cho họ. Đừng để những điều đáng tiếc đi vào tiềm
thức và ở lại mãi trong lãnh vực không nói lên lời đó, hầu tránh những nỗi thất
vọng không lường trước được.
i. Việc linh hướng
Ngoài
việc đồng hành thiêng liêng như chúng ta thường hiểu và thực hành để giúp ứng
sinh khám phá ra ý Chúa và đi theo, còn có một mức độ sâu xa và bí mật liên hệ
tới tòa trong, đó là việc linh hướng không thể thiếu trong tiến trình đào tạo.
Vị linh hướng là dụng cụ của Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần mới là vị
linh hướng đích thực. Ngài dẫn dắt mỗi người theo một đường lối độc đáo. Cả vị
linh hướng lẫn người thụ hướng đều phải tìm khám phá và điều chỉnh cuộc đời
người thụ hướng theo đúng con đường đó của Chúa Thánh Thần.
Vị
linh hướng phải khơi dậy lòng tín nhiệm nơi người thụ hướng bởi thái độ sẵn
sàng, cởi mở, đón tiếp và chân thành, đồng thời nuôi dưỡng tinh thần tin cậy
nhờ lòng cẩn mật của mình. Có thế thì người thụ hướng mới có thể tự do nói hết
những trăn trở riêng tư, những bí mật của cuộc đời mình, đặc biệt trong lãnh
vực giới tính.
Vì
việc linh hướng thuộc về tòa trong, nên khi đánh giá ứng sinh (tòa ngoài), vị
linh hướng không bao giờ được lên tiếng, dù để bảo vệ hay để kết án người thụ
hướng của mình. Sự bảo mật này nhằm bảo đảm tự do nội tâm của ứng sinh trong
việc biện phân và quyết định chọn lựa ơn gọi. Nhưng nhờ nghe trong hội đồng
đánh giá những nhận xét khác nhận xét của mình, vị linh hướng có thêm được
thông tin về những yếu tố khác, nhờ đó mà phân định được tốt hơn, đồng thời
chọn lựa sự giúp đỡ thích hợp và hữu hiệu hơn cho người thụ hướng của mình.
Quyết
định dứt khoát ở tòa trong ăn khớp với lương tâm ứng sinh: tự mình đối diện,
trắc nghiệm bản thân, lượng lấy sức và tự mình chủ động giải quyết. Do đó vị
linh hướng dự phần trong việc đào tạo lương tâm trưởng thành của ứng sinh.
Nhưng ở tòa trong, vị linh hướng không chỉ thụ động lắng nghe, song phải có khả
năng thách đố và đối đầu, khi sự việc đòi hỏi, để giúp ứng sinh trải qua một
tiến trình phân định ơn gọi đích thực, như Chúa và Giáo Hội mong muốn.
Việc
linh hướng và phân định thiêng liêng rất tế nhị và khó khăn. Nó bao gồm mọi
chiều kích của cuộc đời ứng sinh: nhân bản và thiêng liêng, tự nhiên và siêu
nhiên. Vì thế vị linh hướng phải cập nhật các kỹ năng linh hướng, những hiểu
biết về tâm sinh lý, khả năng tư vấn, biết vận dụng các khám phá hữu ích của
tâm lý học, y học và xã hội học hiện đại. Các trao đổi với đồng nghiệp, cũng
như những khóa học huấn luyện các vị mới và cập nhật cho các vị cũ, sẽ liên tục
gia tăng khả năng của vị linh hướng, mà ngày nay có thể là linh mục và nam nữ
tu sĩ, miễn là được Chúa Thánh Thần kêu gọi, thẩm quyền Giáo Hội trạch cử và
được đào tạo thích đáng, vì đây là việc của Chúa, và chỉ có Chúa biết đầy đủ
một con người và biến đổi tận gốc con người đó.
KẾT LUẬN
Nói
về đào tạo, nhất là ở đây lại nói về đào tạo các nhà đào tạo nữa thì không thể
nào thấu tình đạt lý hết được. Tôi xin hết lòng cám ơn toàn thể chị em đã chịu
khó nghe, và thành thật xin lỗi chị em vì có khi phải nghe cả những điều khó
chịu nữa.
Giờ
đây, xin được kết thúc với mấy tư tưởng này: “Nhà đào tạo tầm
thường thì thích nói, nhà đào tạo tốt thì giải thích, nhà đào tạo giỏi thì
chứng minh, và nhà đào tạo khéo léo thì gợi hứng.”
Các
vị đại thánh thường đủ khiêm tốn để nhìn nhận mình là kẻ có tội. Chúng ta nhìn
nhận mình không hoàn hảo và không ảo tưởng chờ đợi các bảo đảm của việc đào tạo
của mình, mà hoàn toàn ký thác cho Chúa. Không thể thấy trước được những gì sẽ
xảy ra trong đời một con người về lâu về dài. Lòng khiêm tốn sẽ giúp chúng ta
tìm đến với khôn ngoan và quyền năng của ơn Chúa.
Hãy
thực thi lòng nhân hậu và để Chúa Thánh Thần làm phần còn lại. Như thế chúng ta
sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn, tự tin hơn, và có thể làm công việc đào tạo tốt hơn.
Hãy để ân sủng Chúa làm việc trong chúng ta, dẫn dắt chúng ta, và hãy tin tưởng
vào Chúa và tha nhân.
Và
nếu chúng ta có cảm thấy mình nhiều khuyết điểm, cũng hãy tạ ơn Chúa. Có lẽ
điều đó sẽ giúp chúng ta trở nên nhà đào tạo khéo léo và tâm huyết. Cái quan
trọng chính là tấm lòng của chúng ta: Ai không yêu thương thật sự không thể làm
nghề đào tạo được, ta sẽ khổ và làm các người chúng ta đào tạo khổ.
Chúng
ta có thể nói rằng làm nhà đào tạo là một ơn gọi và một ân sủng. Chúng ta cho
bao nhiêu thì chúng ta nhận bấy nhiêu, càng cho đi chúng ta càng nhận lãnh. Đón
tiếp và đào tạo người trẻ hôm nay là một cơ may để chúng ta đáp lại lời mời gọi
đặc biệt của Chúa Giêsu: “Hãy đến và theo Ta... Các con là bạn hữu của
Thầy.” Đồng thời chúng ta cũng không phụ lòng hay làm thất vọng những trông
đợi mà Giáo Hội, Hội Dòng và Thế giới kỳ vọng nơi các nhà đào tạo.
Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
Slideshow kết thúc: BÀI HỌC QUÉT LÁ
Thơ: Diệu Nhân - Nhạc: Võ Tá Hân – Ca sĩ: Xuân
Phú
Vâng
lời Thầy, con đi quét lá, lá vàng rơi lả tả khắp nơi. Lá khô rơi như kiếp một
con người, giờ phút cuối là về cùng cát bụi. Con vừa quét sạch một gốc cây,
quay trở lại đã thấy đầy rơi rụng. Con hỏi nếu như gió đừng rung động thì lá
kia hẳn còn trên cành. Một kiếp người cũn thế, quá mong manh, một hơi thở nếu
đi rồi không đến nữa. Thầy đã cho con bài học quét lá thâm sâu như một triết lý
không cùng. Con ra về lòng luống những bâng khuâng: Lá và con cũng trong vòng
sinh diệt. Lá vừa sinh đã có mầm huỷ diệt, con vừa sinh đã hẹn có ngày đi.
Suy tư: Có ai biết chốc
lát nữa mình sẽ chết mà còn ham hố những sự đời này, còn gieo rắc bất công hận
thù, còn ghen ghét tranh chấp hơn thua, mà không trái lại, an hòa với mọi
người, tôn trọng lương tâm kẻ khác, giao phó cho lòng nhân từ của Chúa lời phẩm
bình cuối cùng và sự xét đoán chung thẩm, nỗ lực chuẩn bị tâm hồn để ra đi
trong bình an về với Chúa?
Một
làn gió có sức mạnh gì đâu, mà lá rơi không thể nào cưỡng lại? Hơi thở con cũng
giống như làn gió ấy, nếu không về thì con sẽ đi đâu? Đã lâu rồi vẫn lặn hụp
chìm sâu trong mê mải con đi tìm sự nghiệp: Con vẫn mơ có một căn nhà rộng đẹp,
con vẫn mơ con cái học thành tài. Con vẫn mong, vẫn đợi một ngày mai lũ con cháu
trở nên người thành đạt. Con vẫn chưa có gì cho con hết làm hành trang khi cất
bước lên đường. Tạ ơn Thầy đã cho con chút tư lương, là bài học quét lá vàng
rơi rụng. Lá và con cũng có cùng số phận: đi về đâu do con chọn lấy con đường.
Tạ ơn Thầy đã cho con chút tư lương, là bài học quét lá vàng rơi rụng. Lá và
con cũng có cùng số phận: đi về đâu do con chọn lấy con đường. ĐI VỀ ĐÂU, DO
CON CHỌN LẤY CON ĐƯỜNG!
PHỤ LỤC
NHÀ ĐÀO TẠO
DƯỚI GÓC NHÌN CỦA CÁC TU SĨ TRẺ
(Đúc kết thảo luận Nhóm của
LỚP THẦN HỌC LIÊN TU SĨ BÙI CHU
2008-2009)
LỜI NÓI ĐẦU
Chúa Giêsu là người đầu tiên được Chúa
Cha sai đi chia sẻ tình thương cứu độ và qui tụ toàn thể thế giới tạo thành về
lại cho Chúa và Ngài đã chu toàn sứ vụ của mình. Nay Giáo Hội và mỗi người chúng
ta được mời gọi tiếp tục sứ vụ của Chúa Giêsu, liên tục từ thế hệ này qua thế
hệ khác, làm cho Ngài được nhận biết và yêu mến.
Thế hệ đi trước cũng đã thực thi sứ vụ
của họ và họ đã hoàn thành trách nhiệm khi chuyển giao lại cho thế hệ chúng ta
trách nhiệm tiếp tục sứ vụ của Chúa Giêsu và chuẩn bị nhân sự tương lai cho sứ
vụ ấy. Làm nhà đào tạo phải là một ơn gọi đặc biệt Chúa ban xuyên qua tiến
trình:
Song
song với việc thực thi nhiệm vụ đào tạo ứng sinh các cấp, chúng ta còn có một
nhiệm vụ kép:
·
Lưu ý tuyển chọn và
tài bồi những nhà đào tạo tương lai sẽ thay thế mình, qua tiến trình: dạy cho
họ làm, giúp họ làm, để họ làm, mình rút lui vì đã hoàn thành sứ mệnh;
·
vừa cập nhật việc
đào tạo chính mình, nâng cao phẩm chất con người và sư phạm bằng khiêm tốn học
hỏi với người trên, với đồng nghiệp và với cả những người đang được mình đào
tạo, khi khơi gợi và lắng nghe những thao thức và trông đợi của họ, dù còn
nhiều chủ quan, phiến diện và sai lầm.
Trong
ý hướng của nhiệm vụ thứ hai này, tôi đã gợi ý cho các nhóm chị em học viện
ngồi lại với nhau, chia sẻ, trao đổi, đúc kết, để rồi thuyết trình cho cả lớp
học hỏi nhắm về tương lai, theo đề tài:
FVới tư cách là chị Giáo và Bề Trên trong tương lai, Chị sẽ làm gì và không
làm gì cho các ứng sinh và bề dưới của chị? Chị trông đợi gì hay không trông
đợi gì ở họ?
Đáng
ra phải có một bản đúc kết chung, cô đọng các ý kiến và quan điểm cách khoa
học; nhưng vì quá nhiều lớp học, không có đủ thời giờ nên tôi xin gom lại tất
cả các bài thuyết trình. Tuy nhiên, việc này cũng có cái hay của nó là tập sách
được đa dạng và phong phú hơn. Kính mong các đồng nghiệp và những ai quan tâm
đào tạo không buồn lòng vì những “lời nói vụng dại, ăn chưa no lo chưa tới” của
con em chúng ta, mà tôi hữu ý không ghi tên để khỏi gắn kết trách nhiệm cá nhân
ngõ hầu họ được an tâm. Những trăn trở, ước mong, và quyết tâm của thế hệ trẻ
sau chúng ta cũng có thể giúp chúng ta là những nhà đào tạo trong hiện tại có
cơ hội kiểm điểm và điều chỉnh chính mình, đồng thời giúp họ uốn nắn những quan
niệm sai lầm và hình thành những định hướng tốt nhất cho công cuộc đào tạo các
thế hệ đang tới vốn sẽ còn khó khăn phức tạp hơn.
Còn
đối với các ứng sinh sau này sẽ là các chị giáo và bề trên tương lai, chắc chắn
chị em sẽ cố gắng thực hiện tốt những gì chị em đã nhận được từ các nhà đào tạo
tâm huyết hôm nay mà chị em ngưỡng mộ, cũng như những đức tính và cách thức đào
tạo mà chính chị em đã dự phóng cho mình; đồng thời chị em cũng sẽ tránh những
gì tiêu cực hay không phù hợp mà chị em đã phải trải nghiệm trong đau khổ và
nước mắt, gây nên bởi những nhà đào tạo không thích hợp và thiếu tâm hồn đào
tạo theo gương của Chúa Giêsu.
Nhưng
trong mọi hoàn cảnh, chúng ta sẽ không sợ lạc đường khi luôn luôn theo sát Chúa
Giêsu, “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.”
Nếu
thiện ý và việc làm của tôi được cảm thông ghi nhận thì tôi đã rất vui mừng tạ
ơn Ba Đấng và biết ơn tất cả mọi người. Còn nếu nó có mang lại lợi ích nào
trong công cuộc trồng người này, thì xin Chúa Thánh Thần tác động để nó mang
lại hoa trái cho sứ mệnh đời tu trong Giáo Hội và Thế giới. Xin chúc lành và
cầu nguyện cho tôi.
Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
CÁC BÀI THUYẾT TRÌNH
[1]
Dẫn Nhập
Đào
tạo là nghệ thuật trên hết các nghệ thuật, và rất ít người có được nghệ thuật
này. Người ta có thể nói rằng tai họa khủng khiếp cho một cộng đoàn không phải
là thiếu những tu sĩ tốt, cho bằng do không có người lãnh đạo xứng đáng và có
khả năng lãnh đạo.
Trong
cuộc sống ai cũng có bổn phận, có trách nhiệm đối với chính mình và với người
khác. Nhưng mỗi người có trách nhiệm và quyền hành to nhỏ khác nhau tùy theo
địa vị của từng người được trao phó. Vậy với tư cách là Bề Trên / Chị giáo, ta
cần có những đức tính nào? Các việc ta sẽ làm và không làm cho bề dưới của mình
là gì? Và ta mong đợi gì hay không mong đợi gì ở họ?
1. Những
đức tính của người lãnh đạo tốt
Trước
hết với tư cách là Bề Trên, ta cần có các đức tính:
·
Công bằng không
thiên vị
Công
bằng là trả cho mỗi người những gì ta mắc nợ người đó, nghĩa là chu toàn các
bổn phận của mình theo trật tự mà Chúa muốn. Công việc Bề Trên làm cho chị em:
trước hết là lo cho các linh hồn chị em, thứ đến là lo cho sức khỏe chị em và
lo cho các công việc của Hội Dòng. Bề Trên cần giữ đúng luật của đức công bằng
để thi hành những công việc đó, ngài là người được Chúa đặt lên để hướng dẫn,
nâng đỡ và giúp đỡ bề dưới. Ngài hãy dùng hết mọi khả năng và phương tiện để
thực hiện công trình này. Ngài chính là người phụ tá của Thiên Chúa và trong
khi thi hành, ngài không được thiên vị. Và một khi có đức công bằng đối với mọi
công việc và cho mọi người thì sẽ loại trừ được tính thiên vị.
·
Khiêm nhường nhưng
không nhát đảm
Khiêm
nhường phát xuất từ Thiên Chúa, và theo Thánh Thoma thì khiêm nhường là
biết nhìn nhận đúng sự thật, nói và thực hành phải đi đôi với nhau. Khiêm tốn
là lắng nghe mọi ý kiến của người khác với sự trân trọng. Vì thế ta không được
đàn áp ý kiến của người khác bằng uy tín, bằng chức vụ hay bằng bất cứ áp lực
nào khác. Nếu ta có thái độ “nghe nhau nói, nói nhau nghe” thì những quyết
định của cộng đoàn sẽ được tốt hơn. Nếu một Bề Trên mà thiếu đức khiêm nhường
thì quyền hành người đó nắm trong tay chỉ là bạo lực. Chỉ có đức khiêm nhường
là phương thế thần diệu chữa lành các bất đồng, chống đối của cấp dưới và giúp
mình đón nhận cái hạn chế của mình và tha nhân một cách thiết thực hơn.
Theo
sự thường càng làm lớn thì càng khó khiêm tốn hơn. Tại sao vậy? Vì sợ mất uy
tín, sợ bị người khác xem thường, chẳng vậy mà Thánh Benađô đã từng
nói: « khiêm tốn trong một đời sống tầm thường thì tốt và không có
khó khăn lắm, nhưng giữ được khiêm tốn giữa quyền cao chức trọng mới là một
nhân đức họa hiếm và cao đẹp »
Một
trong những phương cách tập đức khiêm nhường là trọng kính người khác cho dù
người ta kém tuổi, kém tài, kém đức hơn mình. Đặc biệt là tôn trọng quyền bính
của người có trách nhiệm trong cộng đoàn, dù người ấy có nhiều khuyết điểm hay
không có khả năng bằng mình.
Với
cương vị là Bề Trên, nếu thiếu đức khiêm nhường khi dẫn đầu các công việc thì
quả là tai hại. Nhưng cũng không nên khiêm nhường quá, vì khiêm nhường quá là
tính nhát đảm thì cũng không nên. Quả vậy, có những Bề Trên khiêm nhường quá
đến nỗi mất hết can đảm khi phải quở trách hoặc sửa lỗi chị em. Những Bề Trên
đó ý thức sâu xa về sự bất tài và bất xứng của mình đến nỗi không bao giờ dám
nói và hành động. Tu sĩ này có những khuyết điểm về tính nết, ngài không dám
nhắc nhở, vì ngài cũng có những khuyết điểm như vậy. Tu sĩ kia lỗi phạm đức bác
ái tỏ tường, ngài không dám khuyên răn. Ngài im lặng đối với các chị em không
chu toàn bổn phận. Có những chị em tâm sự với ngài, xin lời khuyên.... thì ngài
không làm gì được cho họ, vì ngài nghĩ mình ít học và ít được ơn soi
sáng !... Dầu do đâu mặc lòng, sự nhút nhát này là yếu đuối, là tai vạ cho
Hội Dòng. Chúa đặt Ngài làm Bề Trên để coi sóc, khuyên răn, sửa lỗi, quở trách
nếu ngài giữ im lặng và do sự im lặng của ngài mà một linh hồn bị mất thì ngài
phải chịu trách nhiệm.
·
Khôn ngoan nhưng
không đa nghi
Nhân
đức khôn ngoan là số một đối với Bề Trên, người khôn ngoan là biết nghi ngờ
chính mình, phải coi chừng tính khí và các đam mê của mình, tránh sự cố chấp,
hấp tấp... Hãy tìm hiểu để biết lòng con người nói chung, đặc biệt những thành
phần thuộc quyền bính mình nói riêng. Người lãnh đạo cần khôn ngoan để phân
biệt phải trái, đúng sai trong những quyết định, phải luôn lắng nghe ý kiến của
mọi người bề dưới, sẵn sàng bỏ ý riêng, nếu ý kiến của bề dưới phù hợp hơn,
sáng tạo hơn để xây dựng cộng đoàn tốt hơn.
Sự
khôn ngoan đòi nơi Bề Trên sự kín đáo. Ai không có khả năng giữ bí mật thì
không thể cai trị được. Trong nhiều trường hợp. Bề Trên có bổn phận lương tâm
phải giữ kín những gì mình biết được do chức vụ của mình. Có như thế chị em mới
dễ dàng tin tưởng bày tỏ những khúc mắc hay lỗi phạm của mình. Trong đời sống
có những chuyện cần phải «sống để dạ chết mang theo», chỉ cần một sự «bất tín»
thì sẽ có vạn sự «bất tin». Vì thế những tâm tư của thụ huấn sinh thổ lộ với
mình, mình không thể đem đi phơi bày cho toàn dân thiên hạ biết. Nếu thế thì ta
không mong người thụ huấn đó sẽ đến với ta lần thứ hai.
Như
vậy sẽ thất bại trong giáo dục và đào tạo con người. Để trở nên khôn ngoan như
thế, không cần phải trở nên chính trị hay sử dụng các mưu mẹo và mánh lới. Hoặc
luôn có vẻ giữ gìn và bí hiểm. Nhưng là hãy tỏ ra cởi mở, chân thành ngay thật,
biết lặng thinh không nói những điều cấm, không nói dối, luôn tỏ ra tin tưởng
nơi các bề dưới của mình. Khôn ngoan nhưng không dễ dãi, dễ tin tưởng. Nếu dễ
tin rất dễ bị bề dưới lạm dụng, nên phải biết nghi ngờ chính bản thân và cẩn
trọng đối với những người mà ta gặp gỡ
hay tiếp xúc.
·
Kỷ luật mà không
khuôn khổ cứng nhắc
Theo
Thánh Bonaventura nói rằng đời sống gương mẫu là ưu điểm hàng đầu của người
lãnh đạo. Trong hết mọi sự, ở khắp mọi nơi, Bề Trên luôn là người dẫn đầu cộng
đoàn của mình, để sau cùng ngài có thể
nói với anh em trong nhà như Ông Giêđêôn đã nói với quân lính của mình rằng
«Anh em hãy bắt chước những gì tôi đã làm». Bề trên hãy khuyến khích chị em trung thành giữ kỷ luật về lời khấn và tinh
thần Dòng. Luôn làm gương sáng cho chị em về việc giữ kỷ luật. Bề Trên không
thể mong các thuộc cấp của mình sẽ tuân phục hay tuân giữ kỷ luật của Hội Dòng,
nếu như chính mình lại không tuân phục những chỉ thị và mệnh lệnh của thượng
cấp. Chúng ta thường thấy ở các tổ chức, những tập thể mà ở đó tinh thần kỷ
luật bị coi nhẹ, không phải vì các khoản luật thiếu trong sáng nhưng vì người
Bề Trên chỉ biết nhắc cho người dưới mà chính mình lại không thi hành. Vì thế
Bề Trên luôn phải đứng đầu trong việc giữ kỷ luật để chị em noi theo.
·
Tinh thần đạo
đức
Bề
Trên cần sống thân mật với Chúa qua tinh thần cầu nguyện. Ngài cần luôn tham
khảo ý Chúa để được sự hướng dẫn, nhất là trong các quyết định quan trọng phải thi
hành. Vai trò của ngài là chuyển đạt thánh ý Chúa đến các tu sĩ. Làm sao ngài
có thể làm việc này, nếu như ngài không biết các ý định của Thiên Chúa? và ngài
sẽ tìm biết các ý định đó ở đâu, nếu không phải là trong việc cầu nguyện, khi
giao tiếp với Chúa?
Nếu
ngài muốn có ánh sáng, sức mạnh và lòng can đảm cần phải có, để hướng dẫn chị
em mình và đào tạo tâm hồn họ, ngài phải xin những ơn đó bằng siêng năng cầu
nguyện, cầu nguyện liên tục. Cầu nguyện là phương thức tốt nhất của việc lãnh
đạo. Khi chúng ta không biết xoay hướng nào, hãy để các công việc đó lại mà đi
cầu nguyện. Chính Thiên Chúa sẽ lo tìm ra giải pháp cho chúng ta. Chị em cũng
rất cần lời cầu nguyện và gương sáng của Bề Trên trong lãnh vực này, nên Bề
Trên đừng quên hằng ngày cầu nguyện cho chị em dưới quyền và khuyến khích chị
em cầu nguyện, nhất là qua gương cầu nguyện của Bề Trên là người duy trì đạo
đức để kéo ơn Chúa xuống cho mọi tâm hồn trẻ.
·
Tinh thần đức ái
Nhờ
đức ái, Bề Trên sẽ làm mọi người yêu mến ngài, và mọi sự sẽ trở nên dễ dàng cho
ngài. Trước hết là hãy lo thu phục nhân tâm. Để làm việc này ngài phải dùng mọi
phương thế, hãy nhắm mắt bỏ qua nhiều chuyện, hãy thực thi sự khoan dung và
lòng thương xót cách rộng rãi cho tới khi chiếm được lòng mọi người. Một khi đã
được như thế thì có thể nói được với bề dưới nhiều điều, làm mọi sự, áp đặt mọi
điều và đạt được mọi sự.
·
Trầm tĩnh và tự chủ
Một
người không làm chủ được mình thì cũng khó bình tĩnh điều hành công việc và chỉ
đạo người khác. Cho nên dù phải đối mặt với bất cứ tình huống nào, người lãnh
đạo cũng cần thể hiện được thái độ khí khái, bình tĩnh và tránh những xúc động,
những lo lắng thái quá.
2. Những việc Bề trên/Chị
Giáo nên làm cho các em
Để
trở thành một nhà lãnh đạo giỏi và thành công, người lãnh đạo cần có không
những khả năng cần thiết mà còn phải có những phẩm chất tốt đối với bề dưới của
mình. Người xưa có câu: “muốn làm người lãnh đạo tốt, lãnh đạo tài giỏi, và
lãnh đạo thành công cần phải có « nhân » để yêu người, có
« trí » để biết người và có « nghĩa » để phục vụ người. Vậy
muốn có được thành quả tốt đẹp như mong muốn, thì ta phải góp sức, cố gắng phát
huy những điểm tốt và loại trừ dần những cái xấu. Như vậy mới mong có được kết
quả như dự định ban đầu. Vậy để làm được việc đó người lãnh đạo cần làm gì và
sẽ không làm gì cho bề dưới của mình.
Yêu
thương và phục vụ chị em. Như Đức Kitô đến để phục vụ, các Bề Trên cũng thi
hành quyền bính với tinh thần phục vụ
theo Tin Mừng và vâng theo Thánh ý Chúa, để chị em cảm nghiệm được tình
thương Thiên Chúa qua các vị lãnh đạo.
Trau
dồi cho mình về đời sống đạo đức cũng như về đời sống kiến thức. Bởi vì chị
Giáo là người làm đầu để hướng dẫn, dẫn dắt các em nên muốn cho các em đi đúng
đường lối mà Dòng đã đặt ra, thì chính chị Giáo là cái khuôn, là người trau dồi
kiến thức cho các em. Như vậy Chị giáo là người cần làm gương cho các em.
Cần
tạo cơ hội cho chị em có thời giờ, cơ hội thăm hỏi, khích lệ nâng đỡ nhau. Sự
lắng nghe, thông cảm, và hỗ tương giữa mọi thành phần của gia đình Dòng rất cần
thiết để chị em sống vui, hạnh phúc và chu toàn bổn phận cách đắc lực hơn. Tuy
nhiên chị em cần lưu ý tránh kêu ca phàn nàn và bảo vệ danh dự của nhau, của vị
hữu trách và nhất là đối với người ngoài.
Cổ
võ đời sống thiêng liêng và phụng vụ như tạo cơ hội và môi trường, sắp xếp
chương trình hằng ngày thế nào để hầu hết các chị em trong Cộng Đoàn có thể
hiện diện trong các giờ phụng vụ và cầu nguyện chung.
Các
vị lãnh đạo cũng như chị em đều vâng lời thi hành ý Chúa. Do đó chúng ta cần
giúp nhau tìm ý Chúa qua sự đối thoại chân thành và cảm thông, dù có những khác
biệt về tuổi tác và văn hóa.
Phải
xác định cho người thụ huấn biết mục đích của mình khi bước vào Dòng để làm gì?
Tìm Chúa hay đi tìm sự nghiệp? Và giúp các em phát triển về hai chiều kích Tâm linh
(trưởng thành về đời sống thiêng liêng) và chiều kích Xã hội (trưởng thành nhân
bản).
Những
người huấn luyện phải cộng tác chặt chẽ với nhau trong cách huấn luyện. Tinh thần đồng trách
nhiệm rất cần thiết để xây dựng cộng đoàn. Để cổ võ tinh thần này, các Bề Trên
liên hệ nên thông đạt những nhu cầu và chia sẻ những khó khăn có thể để chị em
được thông hiểu, góp ý kiến và thi hành.
Làm
cho khoảng cách giữa Chị Giáo và bề dưới được ngắn lại, tạo nên sự gần gũi bao
nhiêu có thể, và sẵn sàng lắng nghe khi bề dưới muốn chia sẻ trong mọi hoàn
cảnh, thời gian.
Làm
cho ứng sinh được dễ dàng, tự do sống trưởng thành trong đời tu theo lương tâm
và ơn gọi mà họ chọn lựa.
Biết
cách đối xử đúng lúc, đúng chỗ, tế nhị, để sửa dạy chị em, không được biểu lộ
quá gây sự căng thẳng khiếp sợ nơi các em, khi các em đã sửa lỗi, xin Chị Giáo
nên tạo sự thân mật, không nhớ đến quá khứ để các em không mặc cảm sợ sệt nhưng
nên tạo cơ hội để các em sửa chữa vì: « Thánh » nào cũng có một quá
khứ và « Tội nhân » nào cũng có tương lai.
Khi
các em có lỗi, không nghe và kết án vội, trái lại phải tìm hiểu rõ ràng, cẩn
thận kẻo oan uổng. Luôn đặt mình ở hoàn cảnh khó khăn của từng em, không bắt
các em theo ý riêng mình. Luôn tìm hiểu để thông cảm hoàn cảnh của từng em.
Cần
phải có cái nhìn khách quan không thiên vị về tiền, tình, tài,... Có như vậy
mới tạo cho các em có cơ hội để phát huy tài năng phù hợp với từng em.
Biết
nâng đỡ khích lệ chị em trong mọi công việc, trung thành với kỷ luật, lời khấn,
tinh thần Dòng và các quyết định của Tổng Hội và Bề Trên cao cấp.
Tạo
bầu khí cởi mở, chân thật, không thành kiến và không bộc lộ cho các em biết lỗi
của nhau để các em tôn trọng nhau.
Phải
hiểu biết tâm lý người trẻ hôm nay, riêng từng em với những cá tính riêng biệt.
Luôn
tôn trọng sáng kiến của chị em. Chị Giáo cần tạo cho cộng đoàn có một bầu khí
thoải mái, yêu thương. Phải là người cập nhật hóa với đà tiến cuả xã hội, không
thể áp dụng lối giáo dục của nhiều năm trước vào thời đại bây giờ. Môi trường
làm nên nhân cách của con người. Mỗi người được sinh ra trong hoàn cảnh và môi
trường khác nhau. Vì thế Chị Giáo tùy vào khả năng mỗi người mà chị Giáo đóng
vai trò là người khơi dậy những điểm tốt, còn đang tiềm ẩn trong họ và bào mòn
dần những gì không phù hợp với lối sống và bước đường mà họ theo đuổi.
Biết
người không phải là điều dễ dàng, nhưng biết người sẽ dùng người có hiệu quả.
·
Tránh thái độ độc
đoán, cho mình là trung tâm điểm, là khuôn mẫu và phương pháp của mình là tốt
nhất.
·
Tránh đánh giá các
em theo bề ngoài và theo tình cảm riêng tư; thái độ bao che, thiên vị không
công bằng: con ông cháu cha, em sơ này,
cháu thầy kia...
·
Không yêu riêng hay
tin tưởng một em nào quá, việc gì cũng tìm em đó thôi thì sẽ gây xáo động, xì
xèo nơi cộng đoàn.
·
Không nên yên trí
về nết xấu nào đó của chị em để trì triết quy tội..
·
Thiếu kiên nhẫn và
bao dung, không yêu thương khi sửa dạy cũng như trong cách đối xử hằng ngày.
·
Thiếu tin tưởng nơi
người thụ huấn. Tránh nhồi nhét kiến thức theo cái mình có sẵn, mà không cần
biết, không quan tâm, không chịu nhận ra người thụ huấn đang muốn gì.
·
Không nên đòi hỏi
những gì quá sức chị em. Không nên coi các ứng sinh của mình như là con nít, mà
luôn luôn đi kè kè để theo dõi.
·
Không lấy ứng sinh
này hỏi về ứng sinh kia, « đặt tình báo ».
·
Không la mắng khi
chưa biết rõ thói hư và nói công khai lỗi của chị em trước mặt người khác.
·
Tránh áp đặt người
dưới trong sự nghiêm khắc, biến họ thành những người khép kín luôn bị dồn nén,
không dám cởi mở nói lên điều mình ước mơ.
·
Không được phép
buộc các ứng sinh theo lương tâm viết ra giấy bản trắc nghiệm về mặt tiêu cực
của người khác.
·
Không được tin vào
những tin tức, thư nặc danh. Không được phép lạm dụng những việc thánh thiêng,
khi gặp những sự kiện và biến cố cần điều tra làm rõ sự thật như bắt ứng sinh
đứng trước Thánh thể hay đặt tay trên Phúc âm mà thề...
4. Những điều chị giáo
mong muốn nơi ứng sinh
5.
Những điều không
mong muốn nơi bề dưới
Vậy
để thực sự là người của mọi người, người lãnh đạo phải biết cởi mở tấm lòng của
mình ra đối với chị em, sống hòa đồng vui vẻ, biết chấp nhận chính mình, chấp
nhận tha nhân, sống yêu thương và đón nhận chị em như một quà tặng của Thiên
Chúa.
Người
lãnh đạo là người khởi xướng, người thông tin, người hỗ trợ, người đồng hành,
người kiểm tra đánh giá kết quả, người lãnh trách nhiệm,...
Và
quan trọng hơn hết là người lãnh đạo luôn có tấm lòng, có tâm hồn, làm tất cả
vì «tình yêu ». Để tất cả mọi chị em trong Hội Dòng được thăng tiến như
lòng Chúa mong muốn, và sống đúng với linh đạo cũng như mọi đường hướng của Hội
Dòng.
Người
lãnh đạo cần giúp ứng sinh thấy được đường lối phát triển trong tương lai. Các
ngài cần giúp cho nguời dưới thấy được niềm vui và hy vọng trong tương lai; ý
thức về thực tế và những khó khăn không thể tránh được, nhưng giữa những khó
khăn và gian khổ ấy, là niềm tin vào sự phát triển trong tương lai Hội Dòng.
Chúng
ta có thể nói được rằng Hội Dòng phát triển được cũng tùy thuộc vào các
ứng sinh - từng ứng sinh phát triển là hội Dòng phát triển. Cuộc biến hình
của Chúa Giêsu trên núi Tabor là một thí dụ điển hình cho niềm hy vọng của
Dòng, cuộc biến hình này như hé mở vinh quang sau này để củng cố niềm tin và
tăng thêm nghị lực, lòng can đảm cho các môn đệ dấn thân bước theo Ngài.
[2]
Dẫn nhập
Con
đại diện cho các chị trong tổ để đọc bài thuyết trình mà tất cả chị em chúng
con sau khi đã suy nghĩ, bàn hỏi để đúc rút ra những ý kiến chung nhất, hợp với
ước muốn của chúng con nhất, theo đề tài Cha Giáo đã đưa ra.
Trong
quyển sách về truyền thống của các vị ẩn tu có thuật lại câu chuyện sau đây:
Ngày
kia khi Đức Giám Mục A-mô-las đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bày tỏ
với Ngài lòng bất mãn tột độ của họ đối với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta
đem theo một phụ nữ để chung sống. Từ dạo ấy, vị ẩn tu không ngớt là đối tượng
để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án. Thấy Giám Mục Amôlas đến, họ xúm lại
vây quanh Ngài và nói: hôm nay, Ngài đã đến đây thì Ngài phải chấm dứt ngay lập
tức tình trạng sa đọa bê bối gây nhiều gương xấu của vị ẩn tu trên núi kia. Sau
khi nghe những lời kết án gay gắt của dân làng, Giám Mục Amôlas quyết định leo
lên núi. Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt nối gót theo sau. Vị ẩn tu thấy đám đông
kéo đến túp lều của mình, ông ta hoảng sợ và cấp tốc bảo người phụ nữ chui vào
trốn trong một chiếc thùng rỗng. Đức Giám Mục là người đầu tiên đến trước túp
lều, và cũng là người đầu tiên bước vào. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh và hiểu
ngay tình hình. Ung dung, Ngài đi thẳng đến ngồi trên chiếc thùng gỗ để nghỉ
chân. Rồi bình thản khoác tay gọi dân làng vào mà bảo: Vào đây, các ngươi hãy
vào mà lục xét túp lều để tìm người phụ nữ. Khi họ không tìm đâu ra bóng dáng
người đàn bà. Đức Giám Mục mới nói: Bây giờ các ngươi hãy quỳ xuống xin lỗi
Thiên Chúa vì đã nói xấu vị ẩn tu vô cớ. Nhưng sau đó, khi mọi người đã lục đục
kéo nhau xuống núi, Đức Giám Mục tiến lại vị ẩn tu nắm chặt hai bàn tay của
ông. Đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rãi
nói: Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn đấy.
Hai
thái độ khác nhau đối với một người lầm lỗi giữa dân làng và giám mục có thể giúp
chúng ta hiểu rõ hơn giáo huấn của Chúa Giêsu về việc sửa chữa lỗi lầm của
nhau. Ngược lại với phản ứng của dân làng, Đức Giám Mục đã cố gắng áp dụng lời
khuyên của Chúa Giêsu. Trong một tình trạng khó xử, Ngài đã tìm cách đem vấn đề
đã được mọi người bàn tán trở thành một vấn đề cá nhân để có dịp thuận tiện nói
chuyện diện đối diện với vị ẩn tu.
Ngài
đã không sửa lỗi ông như một người có thẩm quyền. Trái lại Ngài đã dùng thẩm
quyền của mình để bảo vệ vị ẩn tu để sau đó có thể khuyên nhủ ông như một người
anh em. Ngài không cấu kết với đám đông để khinh thường và lên án vị ẩn tu đang
vấp phạm, nhưng đã nêu bật mối nguy hiểm của lỗi lầm đối với phần rỗi của đương
sự, qua một lời khuyên nhẹ nhàng nhưng thẳng thắn: “Hỡi người anh em, hãy cẩn
thận giữ mình kẻo mất linh hồn”.
Từ
câu chuyện trên, chúng ta thấy nghệ thuật lãnh đạo và nghệ thuật sửa lỗi cho
người vấp phạm của Đức Giám Mục Amôlas thật là tuyệt vời, và rất ít người có
được nghệ thuật này. Người ta có thể gặp được nhiều tu sĩ tốt, nhưng ít khi gặp
được một vị Bề Trên tốt. Bởi vậy, ngoài những nhân đức cần thiết để làm nên
những tu sĩ tốt, các Bề Trên và Chị Giáo tương lai cần phải có những nhân đức
mà tổ chúng con quy về một số điểm sau:
I.
NHỮNG ĐIỀU BỀ TRÊN VÀ CHỊ GIÁO TƯƠNG LAI PHẢI LÀM.
1. Lo phần rỗi linh hồn và
cầu nguyện cho chị em
Các
Bề Trên và Chị Giáo tương lai phải xác định rằng: Một Bề Trên dòng hay một Chị
Giáo cũng là một Mục Tử coi sóc các linh hồn. Họ phải biết các con chiên mình
từng tên, nghĩa là hiểu biết cặn kẽ từng người bề dưới của mình cũng như từng
người bề dưới phải hiểu biết bề trên của mình. Bề trên là dụng cụ, là phụ tá
của Thiên Chúa để lo cho linh hồn chị em trong Dòng.
Vậy
lo toan số một và trọng đại nhất của tu sĩ là gì? Thưa là ơn cứu rỗi linh hồn
mình. Bề trên, chị giáo là những người Chúa đặt lên để nâng đỡ, hướng dẫn và
cầu nguyện cho bề dưới. Đặc biệt là đối với những chị em có đức tính cá
biệt, Bề Trên và Chị Giáo càng phải cầu
nguyện kiên trì và tha thiết, đặt các em dưới sự hướng dẫn của Chúa, xin Chúa
hoán cải, đổi mới tâm hồn các em, vì không có việc gì mà Thiên Chúa không làm
được.
Ngoài
ra, tổ chức các buổi hướng dẫn về đời sống thiêng liêng, cung cấp những việc
đạo đức mà chị em cần đến, những trợ lực mà luật dòng dành cho chị em, thời
gian mà chị em cần để lo việc linh hồn… chứ đừng để chị em phải tất bật lo lắng
nhiều chuyện quá, mà quên đi phần rỗi của mình thì thật là nguy hiểm. Cả một
cuộc đời theo Chúa, đến khi nhắm mắt lìa đời mà tay vẫn trắng tay, đời này chả
được gì, đời sau cũng mất luôn. Như vậy, thì bề trên và những người có trách
nhiệm phải trả lẽ rất nặng nề trước mặt Thiên Chúa.
2. Phải lo cho sức khoẻ
của chị em
FSong
song với việc lo phần hồn, Bề Trên và Chị Giáo có bổn phận lo sức khỏe cho chị
em, bởi vì có thực mới vực được đạo, có xác mới vác được hồn. Phần sức khỏe của
chị em là tài sản và kho báu của Dòng. Trong nội bộ, tình trạng sức khỏe của
chị em gắn liền với sự tuân giữ hoặc lơ là đối với Luật Dòng. Sự an hòa của
Dòng cũng lệ thuộc vào đó. Chị em cần có buồng phổi tốt để tập hát, dạy giáo
lý, sinh hoạt; cần có đôi mắt sáng để băng bó bệnh nhân; cần có bàn tay vững
chắc và lực lưỡng để lo cứu vớt các linh hồn; cần có bộ giò thật khỏe để chạy
đến với những ai lâm cảnh túng thiếu. Vì thế Bề Trên và Chị Giáo tương lai phải
rộng rãi đáp ứng những nhu cầu cho chị em, nhất là cấp phát lương thực đầy đủ,
phải lo cho chị em có được những bữa ăn hằng ngày hẳn hoi, không có thịt thì ít
nhất có tôm, cua, canh, cá, chứ đừng để suốt ngày rau khô (ruốc Mỹ), tép khô
(ruốc Ý), cà nén dài hạn (Việt nam).
Ngoài ra, cố gắng tạo một sân chơi với những môn thể thao thích hợp cho
giới nữ, giúp cho chị em có sức khỏe và đặc biệt giải tỏa những căng thẳng và
bầu khí nặng nề do đời sống cộng đoàn gây nên.
Quan tâm đến chị em ốm đau, già cả, nhất là đau yếu liệt giường, đau yếu
thường xuyên, bề trên và chị giáo tương lai phải cảm thương và có những săn sóc
thích hợp, như sự châm chước về đời sống khổ chế theo luật dòng, thường xuyên
thăm hỏi là dịp bề trên chinh phục quả tim của chị em. Dưới cái nhìn đức tin,
chị em đau yếu giữ một vai trò lớn trong cộng đoàn, bởi vì tham dự vào những
đau khổ của Chúa Kitô, lôi kéo hồng ân của Thiên Chúa xuống trên Hội Dòng. Vậy
Bề Trên và Chị Giáo tương lai phải kính trọng, cảm thương, thông cảm, và nâng
đỡ chị em đau yếu.
Bề Trên và Chị Giáo tương lai được yêu mến, tiên vàn không phải do có
tài, nhưng là có tấm lòng và tình thương dành cho chị em của mình. Nét đẹp và
duyên dáng của Bề Trên và Chị Giáo tương lai nằm ở đó. Nhưng để chị em đón nhận
được tấm lòng và tình thương của mình thì bề trên phải đi bước trước, phải xây
dựng mối tương quan qua việc tiếp xúc cởi mở, vui vẻ, chân thành và đơn sơ. Đây
là thái độ tốt nhất để Bề Trên tiếp cận với chị em và tạo sự tín nhiệm của mình
nơi chị em, chứ đừng để chị em coi mình như cảnh sát hình sự, nhìn thấy Bề Trên
và Chị Giáo đi cửa trước, bề dưới chuồn lối cửa sau đi.
Tình thương và tấm lòng của bề trên đối với chị em còn được thể hiện qua
đức nhẫn nhục chịu đựng các nết xấu, nhẫn nhục để không nản lòng vì những tiến
bộ đôi khi rất chậm chạp của bề dưới, nhẫn nhục để chịu đựng cả những vô ơn,
dửng dưng lạnh nhạt của bề dưới đối với sự tận tâm của mình, nhẫn nhục để không
tỏ ra bực bội và nhất là không bao giờ để lòng oán hận, thù ghét, không bao giờ
nổi giận lôi đình, cũng không nhiệt tình nóng nảy. Sau cùng nhẫn nhục để tiếp
chị em mình bất cứ giờ nào, về bất cứ việc gì, và đừng bao giờ để cho người
khác thấy rằng họ quấy rầy mình.
Luôn sẵn sàng đón tiếp chị em một cách niềm nở, trên khuôn mặt, trên ánh
mắt, với nụ cười thân thiện, đó là việc làm lớn nhất của Bề Trên và Chị Giáo
tương lai. Sự nhẫn nhục và tận tụy được bộc lộ ra ở điểm đó, thời gian, việc
làm, tài năng không còn thuộc về mình nữa, nhưng thuộc về Hội Dòng và chị em.
Bề trên và chị giáo tương lai phải tỏ ra có thời giờ cho chị em, vì nếu
tỏ vẻ bận rộn, chị em sẽ không dám nói hết những gì họ muốn gặp Bề trên để nói,
bởi vì có những người chỉ dám nói chuyện của mình sau khi đã nói đủ thứ chuyện
khác,và khi cuộc nói chuyện đã trở nên dễ dàng, thoải mái, trái tim chị em mới thổ lộ tâm can.
Bề Trên và chị giáo tương lai quên mình đi thì sẽ tha thiết với công
việc sứ vụ của chị em. Khi chị em mình từ xa trở về, phải hỏi han, tỏ ra vui
mừng hoặc cảm thương tùy mỗi trường hợp, chúc mừng, khuyến khích làm cho cho
chị em lên tinh thần, chị em sẽ cảm thấy hăng hái hơn khi được Bề Trên và chị
giáo hiểu biết, yêu mến và quan tâm đến nỗ lực của mình.
Biết phân chia đúng người, đúng việc, không những Bề Trên tránh không
làm kiệt sức bản thân, và không gây tai hại cho đời sống thiêng liêng của mình
vì trăm ngàn công việc mà còn làm vui lòng chị em. Chị em sẽ hài lòng vì được
dự phần vào công việc của Hội Dòng. Bề trên sẽ chiếm được trái tim chị em vì Bề
trên đã tỏ ra tin tưởng chị em. Bề trên có thể khiến họ tha thiết với lợi ích,
sự tiến bộ và công việc của Hội Dòng. Bề trên sẽ xử dụng các khả năng khác nhau
của chị em và giúp chị em trau dồi các tài năng Chúa ban. Như vậy, Ngài đang
chuẩn bị những vị Bề trên cho tương lai.
Khi trao cho các chị em công việc gì thì phải trao phương tiện cần thiết
và tối thiểu để chị em chu toàn một cách tốt đẹp, đồng thời tôn trọng bổn phận,
quyền lợi và thành quả của chị em.
Cách riêng đối với Chị Giáo là cộng sự viên và cánh tay phải của Bề Trên
thì phải thấm nhuần đặc sủng, đường hướng huấn luyện của Dòng và trung thành
thực hiện. Cần huấn luyện tâm trước, trí sau qua từng giai đoạn. Giúp các em có
tinh thần cầu nguyện, đời sống nội tâm, tinh thần tu trì vững chắc, để dám chịu
trách nhiệm về cuộc sống của mình.
Đồng hành với các em về đời sống tinh thần, vật chất với tư cách là một
người mẹ, người chị, người bạn hơn là một chị giáo. Tôn trọng sáng kiến và giúp
các em tuân giữ kỷ luật tốt. Khiêm nhường, lắng nghe, đối thoại trong yêu
thương, không đòi hỏi kết quả quá sức các em
Khi làm việc thì phải cầu nguyện, bàn hỏi với các vị linh hướng khôn
ngoan và có kinh nghiệm. Công việc đề ra phải mang tính khả thi, không thái
quá, bất cập, xa thực tế.
Chị Giáo phải biết bảo vệ ứng sinh của mình, đặc biệt khi ứng sinh bị tố
cáo những khuyết điểm trong buổi họp cộng đoàn, chị Giáo phải lên tiếng bệnh
vực, nếu là sai, còn nếu đúng thì phải khiêm nhường xin lỗi vì cách giáo dục
của mình. Như vậy ứng sinh sẽ cảm nhận được chị giáo là người cảm thông với mình
và sẽ dễ hoán cải hơn. Đặc biệt trong thời kỳ chuẩn bị khấn, lời nhận xét và lá
phiếu của chị giáo góp một phần quan trọng cho sự tiến lên của ứng sinh, nên
thận trọng, suy nghĩ, cầu nguyện và có sự cảm thông, các em là con người, mình
cũng là con người, không mắc lỗi này thì lỗi khác, chẳng ai mười phân vẹn mười,
các em cùng chung lý tưởng với mình thì mình phải giúp các em: Chị ngã em nâng,
Chị em như thể chân tay, Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần. Chỉ trong trường hợp
lỗi nặng và công khai thì buộc Bề trên và chị giáo phải chuyển hướng cho các em
mà thôi.
Mỗi năm tổ chức ít nhất một đến hai lần cho các em đi tham quan du lịch.
Mỗi tháng cho các em tự do một ngày (trừ tập viện), về quê thăm gia đình, thăm
viếng bệnh nhân, hoặc đi đâu tùy ý, giúp các em trưởng thành, biết được thế
giới và cuộc sống của con người hôm nay đa dạng và phức tạp. Để từ đó ý thức
được bổn phận và trách nhiệm của một người tu sĩ phải làm gì cho thế giới hôm
nay.
Biết rút lui đúng lúc khi thấy mình không còn hợp thời, không còn khả
năng. Noi gương Chúa Giêsu trong việc huấn luyện các Tông Đồ, phải có đời sống
đạo đức tốt và làm gương sáng bằng chính việc làm của mình chứ không chỉ dựa
trên lý thuyết.
II. NHỮNG ĐIỀU BỀ TRÊN
VÀ CHỊ GIÁO TƯƠNG LAI NÊN TRÁNH.
Bên cạnh mặt phải và chính đáng mà vị Bề Trên và chị Giáo tương lai phải
làm thì có mặt trái và điểm tiêu cực không nên làm:
III. NHỮNG ĐIỀU BỀ TRÊN
VÀ CHỊ GIÁO TƯƠNG LAI MONG MUỐN NƠI BỀ DƯỚI VÀ ỨNG SINH CỦA MÌNH:
Nói chung cầu mong tất cả mọi thành viên trong Hội dòng từ Bề trên xuống
bề dưới sống trưởng thành về đời sống nhân bản, đời sống thiêng liêng và đời
sống tu trì.
IV. NHỮNG ĐIỀU BỀ TRÊN VÀ
CHỊ GIÁO TƯƠNG LAI MONG MUỐN CHỊ EM NÊN TRÁNH:
V. KẾT LUẬN
Tổ chúng con vừa phác họa bức chân dung vị Bề Trên và Chị Giáo tương
lai, với những điều nên làm và không nên làm, cũng như những điều mong đợi hay
không mong đợi nơi chị em của mình.
Nhưng chung quy lại, để một tu sĩ sống đúng chân tu của mình, một cộng
đoàn sống đúng đặc sủng của mình, một cộng đoàn thực sự yêu thương, một cộng
đoàn thực sự phát triển thì tất cả mọi người phải có cái nhìn đức tin, nhìn
Chúa Giêsu hiện diện trong mọi người – Bề Trên tôn trọng Chúa Giêsu nơi chị em
mình, ngược lại chị em kính trọng, tuân phục và yêu mến Chúa Giêsu nơi Bề Trên
và những người có trách nhiệm.
Thứ đến sống trong cộng đoàn chị em phải liên đới, bổ túc và nâng đỡ
nhau, giúp nhau trưởng thành về đời sống nhân bản, đời sống tâm linh, đời sống
tu trì để đạt tới sự trọn lành như Chúa Giêsu khuyên bảo: “Anh chị em hãy nên
trọn lành, như Cha trên trời là Đấng trọn lành”.
ƯỚC GÌ VỊ BỀ TRÊN VÀ CHỊ GIÁO TƯƠNG LAI MỖI NGÀY HÃY HỌC VỚI ĐỨC GIÊSU
VỀ TẤM LÒNG NGÀI DÀNH CHO CÁC MÔN ĐỆ: “NGƯỜI VẪN YÊU THƯƠNG NHỮNG KẺ THUỘC VỀ
MÌNH CÒN Ở TRẦN GIAN, VÀ NGƯỜI YÊU THƯƠNG HỌ ĐẾN CÙNG” (Ga 13,1).
[3]
I. MỞ BÀI
Tuổi trẻ là sức sống và tương lai của Hội Dòng. Số phận của Hội Dòng sẽ
tùy thuộc rất nhiều vào việc huấn luyện, dạy dỗ, hướng đường cho các em trẻ
trong thời buổi hiện tại. Vậy nếu bạn là một Chị Giáo hay Bề Trên trong tương
lai, bạn sẽ làm gì? Và sẽ không làm gì? Cho các huấn sinh cũng như bề dưới của
bạn, bạn mong muốn gì hay không mong muốn gì nơi họ?
Trước khi đi vào vấn đề chính, thiết tưởng chúng ta cùng nhau nhìn lại
xem quan điểm của các thế hệ đi trước và quan điểm của người trẻ hôm nay như
thế nào?
II. THÂN BÀI
1. QUAN ĐIỂM CỦA CÁC
THẾ HỆ ĐI TRƯỚC VÀ CÁC THẾ HỆ ĐI SAU:
Nói chung con đường tu hành của các thế hệ đi trước nhấn mạnh nhiều đến
các hình thức tập luyện nhân đức thường dựa trên nền tảng chung là vâng lời, khổ
hạnh và nhẫn nhục, nhiệm nhặt và hi sinh cao độ. Nhưng mặt khác cũng không phải
là không có những hạn chế. Có những người đạo đức “có củ” và rất có “tinh thần
chung”, nhưng lại ứng xử đôi khi thiếu tình người.
Còn người trẻ thì sao? Người trẻ ngày nay tự mãn với những suy nghĩ và
lập trường đã học được, nhưng thiếu can đảm để thực hiện nỗ lực ấy. Nhiều khi
họ cố tìm cho mình một “lập trường đúng đắn” và nghĩ rằng thế là đủ. Thành ra
nhiều lần họ đưa ra những lập trường đầy tính thần học, nhưng trong đời sống họ
lại chẳng có chút thần nào. Họ đề cao cái tôi, cố gắng để thăng tiến bản thân
hơn là cho tinh thần sứ vụ. Họ sẵn sàng lớn tiếng phê phán cộng đoàn và phê
bình người khác nếu như không phù hợp với quan điểm của họ.
Người trẻ hôm nay nhạy cảm trước những vấn đề của thời đại. Chán những
gì bình thường, tẻ nhạt, thiếu sức sống, không hấp dẫn… thích đặt vấn đề, tìm
tòi, canh tân, sáng tạo và những gì độc đáo. Thích dùng ngôn ngữ biểu tượng,
văn hoa, bóng bảy, có cánh và rất dễ bị lôi cuốn bởi những cái mới. Người trẻ
thích độc lập, khát khao tự do và đòi được tôn trọng, lắng nghe. Họ rất dị ứng
với những cấm đoán, nguyên tắc có sẵn. Chú trọng đến học hành, phát triển tài
năng. Thích lý sự để biện minh hay bao che cho thái độ, nếp sống hoặc những sai
sót của mình hơn là sửa chữa.
Đứng trước tâm lý của người trẻ như thế - chúng ta những con người còn
đang trẻ, nhưng một lúc nào đó chúng ta không còn trẻ nữa mà sẽ đóng vai trò là
người đồng hành, hướng dẫn, tư vấn cho người trẻ. Vậy chúng ta sẽ làm gì?
2. CÁC VIỆC SẼ LÀM CHO
CÁC ỨNG SINH VÀ BỀ DƯỚI:
Là một Chị Giáo hay Bề Trên tương lai, điều đầu tiên và trên hết là mỗi
người cần phải ý thức rằng đó là một ân ban tài năng Thiên Chúa ban cho, chứ
không phải do tự sức riêng của mình. Vì vậy cần phải cậy dựa vào sức mạnh của
Thiên Chúa, lấy Chúa làm mẫu mực, làm khuôn thước. Thật vậy, Cựu Ước đã nhiều
lần giới thiệu Thiên Chúa như người Cha nhân hậu, luôn kiên nhẫn dạy dỗ dân tộc
Israel bước đi trên con đường công chính, bằng đôi chân nhân loại nhỏ bé của
mình: “Ta đã tập cho Epraim bước đi, đã dìu chúng trong cánh tay, nhưng chúng
không hiểu rằng ta lấy dây nhân nghĩa và dây tình yêu mà dìu họ bước đi”
Thứ đến ta luôn nhớ đời sống của chúng ta có ảnh hưởng rất lớn đến đời
sống của các em bởi vì: “Gần son thì đỏ, gần mực thì đen, gần người hiền thì
sáng, gần người tài thì khôn, gần người lành thì có đức, gần người ngu thì dại,
gần kẻ nịnh hót thì a dua, gần đứa tham lam thì trộm cướp”. Cho nên đời sống
của tôi phải cư xử thế nào để nêu gương sáng cho các em về mọi mặt như: đời
sống cầu nguyện, làm việc, ăn uống, ngủ nghỉ…
Ý thức được như thế chúng ta sẽ mặc vào lối sống,
mặc vào cách cư xử của chúng ta một “tình yêu” hay “một tấm lòng”. Tấm lòng ở
đây chính là khả năng đón nhận các em, hội nhập các vấn đề của các em trong sự
an hòa, bao dung, quảng đại và từ bi. Biết đặt mình vào hoàn cảnh của các em để
dễ dàng chấp nhận những ưu khuyết điểm để đối thoại, gợi mở và hướng tới một
chân trời lý tưởng. Ta không nhìn cuộc đời như mảnh vụn để phê phán, nhưng trân
trọng nét độc đáo của từng em. Hãy đặt mình vào hoàn cảnh từng em và nhớ lại
nếu ta bằng tuổi các em ta cũng sẽ như thế, từ đó ta dễ dàng thông cảm với các
em hơn. Nói tóm, ta phải có cái nhìn “soi lòng người” để thấy được điểm mạnh,
điểm yếu của từng em và đồng hành với các em.
Luôn sống vui vẻ, hài hòa, quan tâm và yêu thương
tất cả các em, bởi vì chúng ta được mời gọi để tiến tới một tình yêu chan hòa
cho tất cả, chứ không dành riêng cho em nào, để các em cảm nhận được sự gần gũi
và tình thương của Thiên Chúa dành cho các em.
Khi nghe các em tâm sự hay hỏi ý kiến về một vấn đề gì đó, chúng ta cần
kiên nhẫn, lắng nghe, và sáng suốt tìm hiểu, nhận định đâu là phải, đâu là
trái, không phải bất cứ một chuyện gì cũng chấp nhận, không phải bất cứ chuyện
gì cũng từ chối hay cáu kỉnh mà vô tình làm tổn hại đến lòng kính mến của các
em.
Là một Chị Giáo hay Bề Trên chúng ta phải luôn sống theo phương châm:
“Khi tư vấn chúng ta là những chuyên gia, còn khi nói chuyện chúng ta là bạn
hữu”. Có nghĩa là khi giảng dạy hay khuyên bảo chúng ta phải thực sự dùng hết
khả năng của mình để phân tích, giảng giải cho các em. Còn khi nói chuyện, vui
đùa chúng ta phải trở nên gần gũi, thân mật, nhẹ nhàng, dịu dàng như người bạn,
người chị, người mẹ trong gia đình, để các em thực sự tin tưởng, cởi mở và an
tâm vững bước.
Và điều quan trọng nhất là phải tuyệt đối giữ bí mật điều các em tin
tưởng tâm sự với mình, không nói ra khi không cần thiết. Khi các em sai lỗi ta
không nên vội vàng kết án, nhưng phải thật bình tĩnh để tìm hiểu ngọn nguồn,
hiểu rõ nguyên nhân dẫn đến sai lầm, để tìm ra hướng sửa chữa cách hữu hiệu
nhất, làm sao để các em không nhìn mình như một quan tòa xét xử hay giám sát
viên chuyên gia bới lông tìm vết, nhưng phải sống và cư xử thế nào để các em
hiểu rằng mình cư xử như thế là chỉ muốn cho các em nên tốt mà thôi.
Khi các em đã nhận ra lỗi lầm của mình chúng ta phải có lòng vị tha,
tinh thần bao dung để các em không cảm thấy sợ vì mình lầm lỗi, nhưng cần tạo
bầu khí bình an, an toàn. Cần tiếp tục đồng hành nâng đỡ để các em không tái
phạm nữa.
Về đời sống vật chất các Bề Trên luôn khuyến khích các em hãy theo gương
đời sống khiêm hạ của Đức Giêsu, nhưng cũng đừng eo hẹp quá, miễn sao đảm bảo
được cho chị em có một đời sống bình dị nhưng an vui và khỏe mạnh để các em
sống tốt ơn gọi của mình. Cũng như cần quan tâm đặc biệt tới sức khỏe của các
em, khích lệ, động viên tinh thần các em yếu đuối để các em không cảm thấy mình
bị bỏ rơi hay trở thành người vô dụng trong cộng đoàn.
Khi lên lớp với các em, ta nên trình bày những điều thực tế, thiết thực,
phù hợp với cuộc đời hiện tại, đừng trình bày những điều viển vông, thiếu thực
tế, và cũng đừng nói một đàng làm một nẻo. Cũng không cố gắng nhồi nhét, sửa
chữa theo kiểu uốn nắn, cắt tỉa, rèn luyện, rập khuôn mà là đón nhận chia sẻ,
gợi ý, giới thiệu, khai mở để các em tự lớn lên, tự trưởng thành trong đời sống
của các em. Nếu không, có thể các thụ huấn sinh sẽ trở thành những Rôbôt chỉ
biết làm việc dưới sự chỉ đạo của con người. Cũng cần tạo điều kiện cho các em
học tập, nâng cao kiến thức để theo kịp thời đại, để làm việc tông đồ tốt hơn.
Điểm cuối cùng, một Bề trên hay một Chị Giáo tương lai nên làm là phải luôn
luôn khiêm tốn để đón nhận, tiếp thu ý kiến từ các em cũng như những ý kiến từ
phía Bề Trên và những người có kinh nghiệm trong cộng đoàn, để ngày càng đạt
kết quả cao hơn trong vai trò và trách nhiệm của mình.
Nói tóm lại: bên cạnh cái trí, một Chị Giáo hay một Bề Trên tương lai
cần phải có một cái tâm. Cho dù hoàn cảnh khó khăn, điều kiện làm việc eo hẹp
và khả năng chuyên môn giới hạn đến đâu đi nữa, có một điều không thể thiếu nơi
người phụ trách đó là một tấm lòng, sự tận tụy, thái độ bao dung và tình yêu
thương.
3. CÁC VIỆC SẼ KHÔNG
LÀM CHO CÁC ỨNG SINH VÀ BỀ DƯỚI
Không bao giờ dùng quyền bính để áp đặt các em, bắt các em làm theo ý
riêng của mình. Không cứ lúc nào cũng cho mình là đúng, là hay, là phải, lấy
mình làm chuẩn mực, làm thước đo. Luôn ý thức được nhiệm vụ của mình là đồng
hành, giáo dục, sửa sai, chứ không phải là giám sát viên để bới lông tìm vết
nơi các em.
Đối xử công bằng, không thiên tư tây vị, không quá quan tâm hay quý mến
riêng em nào để tránh tình trạng mất đoàn kết giữa các em. Và ngược lại cũng
không để cho mình rơi vào tình trạng yên trí, định kiến về một đối tượng nào đó
khiến cho em đó luôn sợ sệt, tự ti, lẩn tránh…. Và không thể vươn lên được.
Khi các em sai lỗi và đã được sửa thì không nên nhắc đi nhắc lại lỗi của
các em, khiến các em dễ mặc cảm, khổ tâm và nhụt chí: “đánh kẻ chạy đi, chứ ai
đánh kẻ chạy lại bao giờ”.
Không nên vội tin lời báo cáo của một ai đó hay của chính các em về một
người chị em khác, mà không chắt lọc tìm hiểu rõ, gây bầu khí nghi ngờ, hận
thù… Không vội vàng kết luận và nghiêm khắc sử dụng biện pháp ngay mà không hề
cho các em biết lỗi lầm của mình, không cho giải thích và biện minh, không cho
cơ hội cũng như thời gian để sửa chữa và đổi mới.
Không làm gương xấu, gương mù cho các em để nên cớ vấp phạm cho các em,
để các em nói hành chế nhạo mình. Khi các em tin tưởng tâm sự thì không nên
tiết lộ điều các em đã tin tưởng nói ra, khiến cho các em xấu hổ, mất danh dự.
Không nên lúc nào cũng cáu gắt, hễ cất lời lên là ra lệnh, nghiêm mặt khiến các
em không dám đến gần.
Trong các buổi gặp gỡ, chia sẻ chung không nên quá dài lời, nói dài, nói
dai thành ra nói dở, mà chỉ nên ngắn gọn, đủ ý, nói những gì cần thiết sao cho
các em dễ chấp nhận và không chán nản. Không sống giả tạo, nhưng chân thành
trong lời nói, trong việc làm, nên nói ít làm nhiều thì tốt hơn nói nhiều mà
làm ít.
Không nên nghe lời nịnh của một số em muốn lấy lòng Bề Trên nên luôn
kiếm câu chuyện làm quà hay nay biếu cái này, mai biếu cái khác vì đã “ăn rồi
thì khó nói”. Biết làm sao đây?
Không nên trao nhiệm vụ vượt quá khả năng của các em khiến các em lo
lắng và không chu toàn bổn phận cho tốt được.
4. NHỮNG ĐIỀU MONG MUỐN
NƠI BỀ DƯỚI.
Tâm lý chung của người dưới là coi Bề Trên của mình như người quản lý và
ban truyền luật lệ, nên thường tỏ ra dè dặt, thiếu cởi mở, đôi khi còn sợ sệt,
nên không dễ bộc lộ tâm tình, sống bề ngoài, bằng mặt chứ không bằng lòng. Vì
thế Bề Trên thường rơi vào tình trạng cô độc và ít gần gũi được với bề dưới,
nên Bề Trên mong muốn ở bề dưới:
Trước tiên các em phải có một tình yêu: tình yêu đối với Chúa, với chị
em của mình và với ơn gọi mình đang sống. Thánh Augustinô đã nói: “Bạn cứ yêu
đi rồi bạn muốn làm gì thì làm”, tình yêu sẽ giúp các em có một đời sống nội
tâm sâu xa hơn, giúp các em nhìn nhận ra được sự cao quý của con đường mà các
em đã chọn.
Thứ đến, khi các em đã có một tình yêu, một đời sống nội tâm sâu xa, các
em sẽ nhìn nhận Bề Trên như một người được Chúa gửi đến để cùng đồng hành với
các em, chứ không phải là những người được đặt nên để thống trị.
Từ đó các em sẽ biết tích cực cộng tác với Bề Trên, để cùng nhau thăng
tiến bản thân cũng như giúp Bề Trên chu toàn bổn phận của mình cách tốt nhất,
giúp cho Hội Dòng ngày càng phát triển hơn.
Biết thông cảm cho những yếu đuối cũng như khả năng hạn hẹp của Bề Trên,
không nên phê bình, chỉ trích sau lưng nhưng biết chân thành góp ý khi Bề Trên
thiếu sót, khuyết điểm. Không nên chỉ nhìn vào ngững lỗi lầm đó và lấy cớ để
không cố gắng bởi vì Bề Trên có làm đâu mà tôi làm, Bề Trên cũng thế thì tôi
tốt làm sao được. Mà trái lại phải vượt lên trên ý nghĩa tầm thường đó để cố
gắng vươn lên.
Coi Bề trên là chỗ dựa vững chắc, là nơi tin tưởng nhất để mình tâm sự,
chia sẻ mỗi khi gặp sóng gió trong cuộc đời. Luôn biết cầu nguyện cho Bề Trên
để Bề Trên có đủ sức mạnh, trí khôn ngoan và lòng nhiệt thành để chu toàn bổn
phận trong địa vị của mình.
Còn về phía bản thân các thụ huấn sinh, với tư cách là các Bề Trên, các
ngài luôn luôn mong muốn cho các em của mình đạt tới mức độ trưởng thành toàn
diện về đời sống nhân bản, tâm linh, trí thức và mục vụ.
a. Về Đời Sống Nhân Bản
Các em phải có khả năng yêu thương, biết yêu và trách nhiệm về chính bản
thân, và từ đó mở rộng đến tha nhân bằng một tình yêu rộng mở, chứ không khép
kín, co cụm vào một đối tượng nào.
Luôn ý thức về chính mình và vai trò sứ vụ của mình. Luôn nhớ tôi là ai?
tôi phải làm gì? Làm như thế nào? Tại sao tôi làm? Và sẵn sàng chịu trách nhiệm
về những gì mình làm.
Khi các em đã ý thức về chính mình, các em cần có thái độ cởi mở, nghĩa
là mở rộng tầm nhìn ra cho người khác và cái khác. Chứ không co cụm và khép kín
trên chính mình qua đó các em sẽ được lớn lên, được phát triển dưới nhiều góc
độ.
Luôn biết chấp nhận thực tế và có cái nhìn đúng đắn về thực tế và bản
thân, không tự cao tự đại, mà cũng chẳng giả bộ, trái lại biết chấp nhận hoàn
cảnh, môi trường, cuộc sống và khả năng của mình. Không giấu giếm, không đóng
kịch để che giấu con người thật của mình. Sẵn sàng và mạnh dạn nói lên cách xác
tín về quan điểm của mình trước một vấn đề nào đó.
Luôn biết thích nghi: nghệ thuật sống là thích nghi và nhập cuộc: “ở bầu
thì tròn, ở ống thì dài”, từ đó các em sẽ sẵn sàng chấp nhận những thay đổi của
Bề Trên và thích nghi với những hoàn cảnh của các cộng đoàn mà các em được gởi
tới.
b. Về Đời Sống Tâm Linh
Là một người phụ trách không ai là không ước mong cho các em có một ước
vọng chân thành muốn dấn thân triệt để cho Chúa Kitô, luôn trung thành với ơn
gọi của mình bằng cách sống triệt để ba lời khuyên Phúc âm. Cảm nhận được sự
hiện diện của Chúa trong cuộc sống hằng ngày, luôn biết đối thoại với Thiên
Chúa, nghe tiếng Ngài và quảng đại đáp lại lời mời gọi của Ngài. Coi Ngài như
người cố vấn, người Bạn thân tín, người Cha nhân từ kiên nhẫn lắng nghe ta.
Khi cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, lúc đó các
em sẽ nhìn mọi sự và đánh giá cuộc sống dưới ánh sáng của Lời Chúa, chứ không
nhìn theo con mắt của nhân loại.
Để làm được điều đó không gì khác hơn là các em phải có một đời sống cầu
nguyện, ưa thích học hỏi Lời Chúa và đem ra áp dụng trong cuộc sống hằng ngày.
c. Về Đời Sống Tri Thức
Đứng trước một xã hội không ngừng phát triển, tri thức trở thành tấm hộ chiếu
của mỗi người. Việc học hỏi nâng cao kiến thức để theo kịp thời đại, để có thể
truyền đạt Tin Mừng của Chúa bằng chính ngôn ngữ của họ. Muốn đạt được điều đó,
chúng ta phải không ngừng học hỏi, nghiên cứu, phải có những tư duy mới, biết
sáng tạo, năng động, có khả năng đem chất xám vào hoạt động tông đồ, ngõ hầu có
thể trả lời cho những thách đố của thời đại hôm nay.
d. Đời Sống Tông Đồ (
mục vụ)
Đời sống của các em sẽ chưa trọn vẹn nếu như các em chưa có tâm hồn
truyền giáo, nghĩa là các em phải ý thức được vai trò và sứ vụ của mình là được
chọn gọi và được sai đi. Vì thế các em phải có một tâm hồn khao khát truyền
giáo, mong muốn cho Tin Mừng của Chúa được loan truyền đi khắp mọi nơi, dù có
phải gặp nhiều gian truân sầu khổ, nhưng luôn nghe được tiếng vang vọng của
Thiên Chúa: “ Hãy ra chỗ sâu mà thả lưới”.
5. NHỮNG ĐIỀU KHÔNG
MONG NƠI BỀ DƯỚI.
Bên cạnh những điều mong muốn nơi các em thì ngược lại với tâm tình của
một người mẹ, một người chị, chúng ta sẽ không hề mong muốn hay trông đợi nơi
các em một số điều sau đây:
III. KẾT LUẬN
Tóm lại: Để xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp và hài hòa giữa Bề Trên và
bề dưới, để cả hai phía cùng lớn lên và sống đẹp ý Chúa trong vai trò của mình.
Chúng con thiết nghĩ không thể có thành công được nếu chỉ có sự cố gắng từ một
phía, trái lại cả Bề Trên và bề dưới đều phải nhận ra vai trò quyết định của
mình trong mối quan hệ đó. Vì thế sẽ có được sự thành công tốt nhất nếu như tự
bản thân mỗi người cùng nỗ lực cố gắng và xây dựng bằng cách hãy chuẩn bị cho
bản thân mình những hành trang tốt nhất trước khi đối diện với người khác và
biết nỗ lực cộng tác với nhau trong chân thành, yêu thương và đầy sự thánh
thiện. Để được như thế không gì khác hơn là chúng ta hãy noi gương Giêsu, là
Chúa, là Thầy, là Anh Cả, là Bạn, là Bề Trên của tất cả chúng ta.
[4]
Dẫn Nhập
Là người Kitô hữu, chắc chắn
ai trong chúng ta cũng đã nghe biết quy tắc vàng được ghi trong Kinh thánh:
"Điều anh em muốn người khác làm cho mình thì anh em cũng hãy làm cho
người ta, và điều anh em không muốn người khác làm cho mình thì anh em cũng
đừng làm cho họ". Khởi đi từ
quy tắc đó, các thành viên trong
tổ chúng con nhận định một số điểm cần làm và một số điểm không nên làm cho các
Bề dưới và những người thuộc quyền mình; cũng như mong đợi những điều tốt lành
phát xuất từ các ứng sinh và những điều xấu đừng xảy ra nơi họ.
I. Những điều Bề trên
nên làm và không nên làm:
1.
Những điều nên làm:
a/ Đối với chính bản thân mình:
Điều trước hết và trên hết của BT hay Chị
giáo cần có là đời sống cầu nguyện. Cầu nguyện là một việc rất đơn giản nhưng
lại rất cần thiết và quan trọng. Nếu một người BT hay Chị giáo mà không có đời
sống cầu nguyện thâm sâu, kết hợp với Chúa thì rất đáng buồn và lo ngại. Không
ai có thể vô tâm nói rằng mình không thể cầu nguyện cho ai cả, phương chi là
một BT hay Chi giáo. Vì không ai có thể làm điều gì mà không do Thiên Chúa ban.
Quả thực, một vị BT hay Chị
giáo khi đã có đời sống cầu nguyện, kết hợp mật thiết thâm sâu với Thiên Chúa
thì cũng có thể dễ hiểu biết được Thiên Chúa, hiểu biết được chính mình và hiểu
được người khác. Từ đó luôn coi trọng việc đào tạo và tự đào tạo chính bản
thân mình. Đào tạo là một lộ trình của
đời người về đời sống nhân bản cũng như đời sống tâm linh. Một con người biết
đào tạo và tự đào tạo chính bản thân mình mới có thể đứng vững trước vòng xoáy
xã hội của con người ngày nay.
Mặt khác, quy luật của con
người là chuyển động: hoặc tiến hoặc lùi, chứ không thể đứng nguyên tại chỗ. Vì
thế, tổ chúng tôi tán đồng một khẩu hiệu "Học để biết, học để làm, học để
làm người và học để sống với nhau" (Trích Thông điệp của UNESCO về giáo
dục trong thế kỷ XXI); và đồng ý với ông Quản Trọng: "Kế một năm không gì
bằng trồng lúa, kế mười năm không gì bằng trồng cây và kế một trăm năm không gì
bằng trồng người". Vậy là ai đi nữa cũng đều cần có một thời gian dài để
học tập và rèn luyện thì mới có thể trở nên một con người xứng đáng là người.
Hay nói cách khác dù là BT hoặc Chị giáo thì cũng phải học, như nhà triết học
kia đã nói: "Học, học nữa, học mãi".
b/ Đối với tha nhân, đặc biệt
là những ngươì dưới quyền. Chúa
Giêsu trả lời với Philatô: "Vua chẳng có quyền gì trên tôi nếu Trời không
ban quyền ấy cho vua". Điều đó khẳng định một cách chắc chắn rằng mọi
quyền bính đều phát xuất từ Thiên Chúa,
nghĩa là chính Chúa muốn trao cho quyền ấy cho Bề trên hay chị giáo. Và khi
được trao trách nhiệm, BT hay Chị giáo phải ý thức sự giới hạn của mình để cố
gắng thực sự trở nên mọi sự cho mọi người thuộc quyền mình, quan tâm cho họ cả
vật chất lẫn tinh thần bao nhiêu có thể:
Về vật chất: Cha ông ta thường nói "Có thực mới vực được
đạo". Để có một tinh thần khoẻ mạnh trong một thân xác tráng kiện thì điều
trước hết phải liệu cho các thành viên trong Cộng đoàn có đầy đủ tối thiểu
những nhu cầu cần thiết về vật chất như
ăn uống, các điều kiện vệ sinh hằng ngày... Quan tâm đặc biệt các thành
viên bị ốm đau bệnh tật một cách ân cần và chân thành yêu thương. Bởi mỗi người
chúng ta khi đau ốm đều cảm thấy: mất tiền bạc chỉ là mất ít, mất thì giờ là
mất khá nhiều, còn mất sức khoẻ là mất tất cả.
Về tinh thần: Để các thành viên trong Cộng đoàn luôn có một tinh
thần thoải mái, thanh thản, bình an, có lẽ điều đầu tiên BT hay Chị Giáo nên làm là hiểu biết, cảm
thông và yêu thương trung thực đối với các ứng sinh và những người thuộc quyền
mình, bởi nhân vô thập toàn nên ai cũng cần được sự thông cảm tha thứ của người
khác. Đồng thời phải tin tưởng nơi những người dưới quyền mình, vì niềm tin đó
mang lại là sức mạnh biến đổi cho mọi người.
Cổ nhân thường nói "Một sự
bất tín vạn sự bất tin", khi đã đánh mất niềm tin nơi ngừơi khác thì coi
như mất mọi sự. Vì thế, cần thiết đặt niềm tin nơi chị em và khi đã tin thì
phải giao nhiệm vụ cho họ, tạo cơ hội để giúp mỗi người phát triển tài năng,
lòng chân thành, tính năng động và óc sáng tạo. Mặt khác, cần định hướng cho
những người thuộc quyền mình một lối sống lành mạnh, một tinh thần trung thực,
một sự can đảm dấn thân, biết lãnh nhận trách nhiệm, có lòng khoan dung nhân ái
vv... và tự kiềm chế được những đam mê khác.
Để có những con người hiểu
biết, trưởng thành trong Cộng đoàn thì cần phải đào tạo. Việc đào tạo này phải
nhắm tới bốn chiều kích: nhân bản, tâm linh, tri thức và mục vụ. Nếu là BT hay
Chị giáo tương lai, nhóm quyết tâm sẽ cố gắng đào tạo liên tục, liên đới và
toàn diện cho ứng sinh, đặc biệt cho những người có khả năng chuyên môn trong
các lãnh vực riêng và theo nhu cầu của Cộng đoàn, của Giáo hội hôm nay và ngày
mai... Cần có một sự đào tạo liên tục, liên đới và xuyên suốt chứ không phải đào
tạo theo thời, nghĩa là sự đào tạo nhân tài trong Cộng đoàn không phải phụ
thuộc vào cảm hứng của mỗi BT: Có thể thời BT này thích thì đem đi đào tạo
nhưng thời BT khác không thích lại mang về, hoặc sử dụng không đúng với chuyên
môn của họ.
Một
điều cần thiết nữa là phải cố gắng tôn trọng sáng kiến của chi em, biết nghi
ngờ bản thân mình để nhận ra những điều tốt nơi những người. Hơn nữa, chị em
cùng hợp tác với nhau để thực hiện những sáng kiến đó một cách có hiệu quả hơn.
Cha ông ta vẫn dạy "Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi
cao", chúng ta phải có tinh thần hợp nhất, đồng tâm nhất trí với nhau, vì
đó là sức mạnh của cộng đoàn.
2. Những điều BT không nên làm:
a. Thiên tư tây vị:
Đây là một trong những yếu tố
cơ bản làm đổ vỡ hạnh phúc và sự hiệp nhất trong Cộng đoàn. Cũng như trong một
gia đình, con nào mà chẳng phải là con? Ở đây còn hơn thế nữa, bởi Cộng đoàn là
một gia đình thiêng liêng đích thực do Chúa Kitô quy tụ. Vì thế mỗi chị em đều
cần được quan tâm một cách đúng mức. Tuy mỗi người có hoàn cảnh khác nhau,
nhưng không phải vì thế mà thương người này ghét người kia. Nếu có sự yêu
thương chân thành ai cũng như ai, nghĩa là mọi người đều cảm thấy mình được tôn
trọng, được sử dụng, được tin tưởng...thì việc quan tâm chia sẻ cho các chị em
theo nhu cầu và hoàn cảnh của họ chắc chắn sẽ không gây cớ gì cho người khác.
Ví như trong gia đình ai cũng biết người đau yếu cần được quan tâm hơn, và còn
khuyến khích chăm sóc cho những người có số phận hẩm hiu ấy.
Sự thiên tư thiên vị có thể gây
ra tình trạng "cảnh sát bất đắc dĩ", một tệ nạn đáng thương cho Cộng
đoàn, đánh mất niềm tin tưởng nhau. BT hay Chị giáo tương lai cố gắng hết sức
có thể để tránh và tiêu diệt tình trạng đó. Có thể nói "đánh giặc ngoài
không bằng diệt thù trong". Nếu trong một Cộng đoàn hay trong một tổ chức
xuất hiện những "con rối" như thế thì sẽ khó có thể phát triển tốt
được.
b. Nghi ngờ, trách mắng
vô cớ
BT hay Chi giáo tương lai cần
phải tránh sự nghi ngờ, trách mắng vô cớ. Chúng ta ai cũng biết câu chuyện
Khổng Tử và Nhan Hồi "Thấy vậy mà không phải vậy". Trước những biến
cố xảy ra cho chị em ứng sinh, BT và Chị giáo tương lai phải bình tĩnh, cứu xét
tìm hiểu để thấy rõ nguyên nhân chính yếu của nó, cách khôn ngoan không gây cớ
soi mói cho người khác, mặc dù rất cần sự cố vấn của người khác, nhưng tốt hơn
cả là hãy đến với Thiên Chúa để xin Người soi sáng cho mình biết phân biệt phải
trái.
Tóm lại: Những điều trình bày ở trên là
những điều rất cần thiết cho chúng con khi đứng trong cương vị là BT hay Chị
giáo. Tuy nhiên sẽ có những điều cần thiết khác cho BT hay Chị giáo mà có thể
chúng con chưa trình bày hết. Nhưng chúng con tin rằng những điều trên không
thể thiếu để có thể giúp cho chúng con an tâm trong trách nhiệm của mình, đưa Cộng
đoàn vươn lên, với sự cộng tác nỗ lực của mọi thành viên trong Cộng đoàn.
II. Những mong mỏi và
ưu tư của BT hay Chị giáo
1. Là một BT hay Chị giáo tương
lai, chúng con khắc khoải và mong chờ nơi các Ứng sinh:
- Sự gần gũi yêu thương, không sợ hãi tránh né. Ý kiến chung của nhóm
nhận định rằng không có sự suy sụp nào bằng sự cô đơn. Khi là một người bình
thường thì sự cô đơn lẻ loi đã làm mệt mỏi lắm rồi, sự cô độc đó càng làm cho
BT hay Chị giáo giảm sút nhuệ khí hơn. Nếu BT hay Chị giáo không được các thành
viên cộng tác, hợp nhất, không đối thoại, không tôn trọng và yêu thương thì
chắc chắn BT hay Chị giáo sẽ nản chí và có những lúc còn tồi tệ hơn nữa. Vì đã
là người thì ai cũng cần có sự động viên khích lệ chân thành của người khác,
nhất là những người thuộc quyền mình. Nói như thế không có nghĩa là BT hay Chị
giáo luôn sống theo dư luận "ngã theo chiều gió" hay cần có một
"đội quân thổi phồng" mới làm nên hồn. Chúng ta nhắc nhau “đừng nói
có khi có thể nói không” và “chỉ có yêu thương chân thật mới bền vững”.
- Đời sống trưởng thành. Mong các ứng
sinh sống cuộc sống bình an, sống trưởng thành, sống có mục đích, có định
hướng. Chắc chắn khi mọi người sống có mục đích, có định hướng thì các việc
khác sẽ tiến hành một cách tốt đẹp. Còn khi bất an thì tinh thần xây dựng Cộng
đoàn sẽ không có và nhất là không vươn lên lý tưởng cuộc đời của mình.
- Sống tinh thần gia đình. Mong mọi người đều cảm nhận được rằng
Cộng đoàn là gia đình đích thực của mình, ngõ hầu các thành viên sống yêu
thương nhau và tiến tới trong ơn gọi đời tu, có đời sống đạo đức thánh thiện và
sống đúng là người nữ tu đích thực.
2. Mong đừng xảy ra những tiêu cực nơi ứng sinh:
a. Không gian dối lươn lẹo, nịnh hót để tiến thân, nhưng mỗi người
phải đứng trên đôi chân của mình và sống trung thành trong ơn gọi.
b. Không bè phái, ương ngạnh: nếu trong một gia đình mà bố mẹ, con
cái không hoà hợp, mỗi người đều hành động theo ý riêng và bảo thủ thì gia đình
cũng khó thành công trong cuộc sống và nghề nghiệp nếu không muốn nói là một
gia đình bất hạnh, dễ đổ vỡ. Phương chi là trong một tập thể hay cộng đoàn tu
trì gồm người tứ phương thiên hạ đến ở với nhau, mỗi người một hoàn cảnh, một
trình độ, một phong tục... và tính tình hoàn toàn khác nhau thì sự hoà hợp lại
càng trở nên khó khăn hơn. Không thể nói “Tính tôi nó thế” hay "Phong tục
nhà tôi như vậy"...
c. Mong sự tự ty đừng xảy ra nơi các thành viên của mình. Sự tự ty làm cho con người nhát đảm, không dám ngước mắt nhìn lên, luôn co
cụm mình lại. Điều đáng sợ nhất là họ không nhận ra cái mình "LÀ", mà
chỉ luôn nghĩ cái mình "CÓ", rồi ngồi than thân trách phận.
III. Kết luận
Qua phần trình bày trên, chúng
ta thấy làm BT hay Chị giáo không phải là một việc đơn giản vì nó rất phức tạp,
nó đòi hỏi nơi bản thân người BT hay Chị giáo một sự hiểu biết thấu đáo về
người, về mình; cũng như khả năng lãnh đạo và kỹ năng trong lãnh vực chuyên
môn. Nhất là về thái độ và cách cư xử của người BT hay Chị giáo, làm sao để có
thể vui lòng ta đẹp lòng người, nghĩa là vừa thực hiện sự cứng cỏi nhưng lại
vừa mềm mỏng tế nhị, vừa nghiêm khắc nhưng lại vừa vị tha- cảm thông (yêu họ
như họ LÀ), vừa cương quyết vừa thích nghi trong mọi hoàn cảnh, từng trường hợp
và từng cá nhân, vừa mau lẹ nhưng cũng thật bình tĩnh...
Tất cả những điều này không
phải tự nhiên mà có nhưng nó đòi hỏi sự cố gắng của người BT hay Chị giáo rất
nhiều, bởi vì mục đích của công việc đào tạo có đạt được hay không tuỳ thuộc
vào phẩm chất và năng lực của người BT hay Chị giáo. Không phải ai trong chúng
ta sinh ra lả có khả năng lãnh đạo hay giáo dục, nhưng phải biết tích luỹ chúng
qua quá trình rèn luyện học hỏi, qua việc tham gia các tổ chức và nhất là phải
rút kinh nghiệm từ những gì mình nghe và thấy trong cuộc sống, để làm hành trang
cho cuộc đời của mình.
Để
có thể trở thành một người BT hay Chị giáo tốt thì ngoài tất cả những năng lực
cần thiết, chúng ta còn phải nhìn vào mẫu gương của Chúa Giêsu là vị BT, nhà
Giáo dục tuyệt vời. Vì khi Nhập thể Đức Giêsu đã tỏ cho ta thấy đường hướng của
Người là không tìm nơi phú quý giàu sang, nhưng nghèo hèn thiếu thốn; không uy
quyền hưởng thụ, nhưng phục vụ yêu thương, vì "Con Người đến không phải để
được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống cho người khác"
(Mc 10,45). Chúa đã khẳng định điều này khi dạy dỗ các môn đệ "Kẻ làm đầu
phải là người phục vụ anh em" (Mt 20,18).
Là
những người bước theo sát Đức Giêsu-Kitô, chúng ta phải mặc lấy tinh thần khiêm
hạ của Người, để sẵn sàng phục vụ với tinh thần khiêm hạ, yêu thương, đồng cảm
và trao ban với tất cả tấm lòng và con tim của Chúa. Chỉ như thế chúng ta mới
có thể trở nên một vị BT hay Chị giáo lý tưởng, góp phần xây dựng Cộng đoàn,
Hội dòng gồm những con người trưởng thành, luôn có tấm lòng bao dung rộng mở,
biết chung chia với mọi người trong niềm vui cũng như nỗi buồn để cùng nhau xây
dựng một thế giới mới trong tình yêu và sự thật. Điều không thể quên được là
hãy nhìn mọi sự dưới cái nhìn của Chúa thì tất cả đều trở nên tốt đẹp...
Trên
đây là những khát vọng và ưu tư của chúng con khi đặt mình trong cương vị là BT
hay Chị giáo tương lai. Trong phần trình bày chắc chắn còn có phần thiếu sót
hoặc chưa thực tế... Chúng con cũng xin Cha và Quý chị cầu nguyện cho chúng con
sống và thực hiện được những thao thức mà chúng con đã trình bày.
[5]
Nhập đề
Mỗi người chúng ta chỉ là người thực sự khi chúng ta biết
tìm niềm vui, hạnh phúc cho mình và cho người khác, vì Lời Chúa dạy ta trong
bài Tin Mừng Matthêu: “Điều gì anh em
muốn người khác làm cho mình thì cũng hãy làm cho người ta như vậy”. Chính
vì thế, dù làm gì, ở đâu chúng ta luôn cần có những mối quan hệ tốt. Cách riêng
trong cộng đoàn tu trì, mối tương quan giữa các thành viên là rất quan trọng và
cần thiết, vì những mối tương quan này làm nên cộng đoàn.
Nhưng để có những mối tương quan tốt đẹp, chúng ta phải
làm gì? Trong phạm vi bài này, chúng ta chỉ chia sẻ với nhau khía cạnh: làm một
chị Giáo và Bề Trên tương lai, chúng ta sẽ làm gì và không làm gì cho bề dưới
và các ứng sinh của mình, đồng thời mong muốn và không mong muốn điều gì nơi họ
xét trong hai lãnh vực: ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG VÀ ĐỜI SỐNG SINH HOẠT.
I- VỚI CƯƠNG VỊ MỘT BỀ
TRÊN TƯƠNG LAI.
1. Những điều chúng ta sẽ
làm:
a/ Trong đời sống sinh
hoạt.
“Một cây làm chẳng nên non, Ba cây chụm lại nên hòn núi
cao.” Một
người không thể làm nên cộng đoàn nhưng là nhiều người kết hợp, cộng tác với
nhau. Nhưng để có được nó thì chúng ta với tư cách một người làm đầu, chúng ta
phải có tư cách của một người làm Mẹ.
Một người Mẹ biết làm
gương sáng và phục vụ con em mình. Vì trong cuộc sống các em gặp rất nhiều khó
khăn trong mọi lãnh vực. Do đó, nếu không có tâm tình của một người Mẹ, chúng
ta sẽ không tạo được sự tin tưởng cho các em, các em sẽ khó gặp gỡ để chia sẻ.
Và cũng chính ở cương
vị của một người Mẹ, nên chắc chắn chúng ta sẽ yêu thương và quan tâm đến nhu
cầu tinh thần cũng như vật chất theo khả năng của chúng ta, vì người làm cha mẹ
thì luôn mong muốn điều tốt cho con cái mình.
Nhưng để có được điều
tốt đó, chúng ta phải biết lắng nghe và đối thoại: “Lắng nghe” để đón nhận ý kiến, lắng nghe để hiểu, chia sẻ và cảm
thông với các em; “Đối thoại” để các em có cơ hội đóng góp ý kiến, cũng như bày
tỏ những mong ước nhằm xây dựng Hội Dòng phát triển hơn.
Tuy
nhiên, không phải lúc nào chúng ta cũng ngồi trầm tư để lắng nghe, mà chúng ta
sẽ cố gắng tạo bầu khí vui tươi nhẹ nhàng khi sinh hoạt với chị em, để chị em
có được sự gần gũi, không cảm thấy ngại hay sợ hãi khi gặp chị Giáo và Bề Trên.
b/ Đời sống thiêng liêng.
“Lời nói lung lay, gương lành lôi cuốn” Khi đã tạo được sự tin
tưởng, dễ gần, dễ tiếp xúc với các em… Các em sẽ nhận ra chúng ta là người có
Chúa Kitô, vì chỉ khi có Chúa chúng ta mới trở nên đáng yêu và đáng kính trọng.
Các em dễ bộc lộ những tâm tư, những khó khăn trong đời sống thiêng liêng, để
từ đó chúng chúng ta có thể cùng giúp nhau tìm gặp Chúa, nhận ra Chúa trong mọi
biến cố, đặc biệt trong đời sống cầu nguyện.
Tuy lời nói và làm
gương sáng là vũ khí sắc bén để lôi kéo các em đến với Chúa, nhưng chưa đủ,
chúng ta cần phải là người có bổn phận cầu nguyện. Cầu nguyện để phó thác trong
tay Chúa, trong tay Mẹ cả Hội Dòng mình, để lấy tinh thần cầu nguyện ban đầu,
cũng như sự đoàn kết giúp các thành viên phát huy được tình yêu Chúa và lòng
nhiệt thành tông đồ, vì “không có Thầy,
các con không làm gì được” (Ga 15,5).
Một điều nữa không thể
thiếu là chúng ta sẽ không bao giờ quên cầu nguyện cho những người chị em bị
cám dỗ, bị thất vọng, ngã lòng hay thậm chí là cầu nguyện cho những người chống
đối, kiêu ngạo để phó thác họ trong tay Chúa và xin Chúa biến đổi họ.
2. Những điều chúng ta sẽ không làm.
Thánh Phaolô nói: “Ai cứu chúng ta, vì những điều chúng ta
muốn chúng ta không làm, còn những điều chúng ta không muốn chúng ta lại làm”.
Nhưng dù thế nào chúng ta cũng phải có cho mình một định hướng, đặc biệt với tư
cách là một Bề Trên tương lai, chúng ta cần có sự chuẩn bị ngay bây giờ. Vậy
bên cạnh những điều chúng ta muốn làm thì chúng ta cũng sẽ mong muốn mình không
mắc phải những điều sau:
a/ Về đời sống thiêng
liêng.
Chúng ta sẽ giúp các em
sống đời sống cầu nguyện, nhưng chúng ta sẽ không đòi hỏi các em phải cầu
nguyện sốt sắng như chúng ta… vì là người có kinh nghiệm về đời sống cầu
nguyện, đời tu, tuổi tác… hơn các em, để các em dễ dàng bày tỏ tâm tình với
Chúa mà không nhất thiết phải theo khuôn mẫu một cách vô thức, ép buộc mà không
có tâm tình.
Điều thứ hai chúng ta
sẽ không làm đó là áp dụng luật quá khắt khe, cứng ngắc… “luật vì con người” luật nhằm đem lại hạnh phúc cho con người,
nhưng làm sao để các em ý thức được khi giữ luật, có như thế các em mới không
bị gò bó, cảm thấy khó chịu trong việc sống trung thành với ơn gọi hay đúng hơn
là chạy đến với Chúa.
b/ Về đời sống sinh
hoạt.
Điều đầu tiên chúng ta
muốn là mình không đánh mất “chữ tín”,
một chữ rất quan trọng đối với một Bề Trên trong đời sống cộng đoàn, vì khi mất
thì chẳng làm gì được, mất sự tin tưởng của bề dưới thì còn ai chạy đến để chia
sẻ với mình hay giúp mình chu toàn bổn phận.
Một điều tối kỵ nữa đó
là chúng ta sẽ không dùng quyền để ép người khác phải theo ý mình, cho ý mình
là ý Chúa mà không quan tâm đến khả năng, hoàn cảnh, tâm lý của bề dưới lúc đó
thế nào. Vì nếu dùng quyền ép họ làm thì chỉ “bằng mặt mà không bằng lòng”, kết quả chẳng được bao nhiêu mà sinh
ra bực tức với nhau.
Đồng thời, chúng ta
cũng sẽ hạn chế tính nòng nảy, la rầy các em, nhất là trước mặt người ngoài. Vì
điều này dễ làm tổn thương và mất danh dự các em, khiến các em khó làm việc
trước mặt người khác.
II- NHỮNG ĐIỀU MONG MUỐN VÀ KHÔNG MONG MUỐN NƠI CÁC ỨNG
SINH VÀ BỀ DƯỚI.
1. Những điều mong muốn ứng sinh thực hiện
a/ Về đời sống thiêng
liêng.
Mong các em có tinh
thần lắng nghe và ham học hỏi về Kinh Thánh, Giáo Lý cũng như kinh nghiệm của
những người đi trước về đời sống kết hiệp với Chúa. Đồng thời mong các em có
một thiện chí theo Chúa bằng thái độ luôn luôn cố gắng để cầu nguyện, gặp gỡ
Chúa, để kín múc ân sủng và tình yêu nơi Ngài, nhất là với thời đại ngày càng
có nhiều hấp dẫn thu hút các em bỏ cuộc.
Một điều nữa mong các
em ý thức địa vị của mình để trong lời nói, hành động, cư xử cũng như ăn mặc
sao cho phù hợp, toát lên được vẻ đẹp của sự thánh thiện là người có Chúa Kitô
trong lòng.
b/ Về đời sống sinh
hoạt.
Mong các em có một sức
khoẻ tốt để làm việc, học hành cũng như tham dự các giờ chung của cộng đoàn. Và
mong các em là những con người vui vẻ, hoạt bát, sống hoà đồng với mọi người.
Đồng thời biết lắng nghe và cởi mở chia sẻ với chị em những vấn đề trong đời
sống thiêng liêng cũng như trong cuộc sống hàng ngày.
Kế
đến, mong các em là những con người trung thực thẳng thắn, dám làm dám chịu; là
một con người biết cảm thông chia sẻ trách nhiệm với Bề Trên bằng thái độ vâng
phục để cùng nhau phát triển Hội Dòng; biết tôn trọng mình cũng như người khác
để rồi dám quên mình vì ích chung; là một con người có lý trí, ý chí để thích
nghi với hoàn cảnh, nhất là biết tự rèn luyện mình không ỉ vào người khác.
Và một điều nữa không
thể thiếu nơi các em, đó là thái độ khiêm tốn đón nhận những giới hạn của mình
cũng như của chị em, hầu đón nhận và giúp nhau sống hạnh phúc trong ơn gọi
thánh hiến.
2) Những điều các em cần tránh
a/ Về mặt thiêng liêng.
Các em không nản chí,
thất vọng khi cầu nguyện, gặp gỡ Chúa hay tập luyện nhân đức cho dù khô khan
hay tưởng chừng như không thể vượt qua.
b/ Về mặt sinh hoạt.
Các em không tỏ ra kiêu
căng tự mãn vì dễ dẫn đến coi thường chị em khác, hay thậm chí coi thường cả Bề
Trên khiến ta khó hoà đồng với chị em.
Đàng khác, các em cũng
không nên quá tự ti, mặc cảm làm ta nhút nhát, không dám làm gì, trở nên sống
cô lập, cũng khó hoà đồng với chị em.
Một mặt cũng không nên
cho mình cái gì cũng đúng, cho dù mình có hơn tuổi hay hơn chị em về mọi mặt,
nhưng hãy tập lắng nghe, hãy dành cho người chị em đôi phút để nghe ý kiến của
họ, tạo nên sự thân thiện giữa chị em với nhau.
Các em cần tránh thái
độ sống gian trá, nịnh hót Bề Trên để trục lợi cho mình hay tố cáo chị em. Bởi
điều đó gây ra hậu quả khôn lường là chị em nghi ngờ và không tin tưởng nhau.
Sống mà không yêu thương, không tin tưởng thì chỉ như “sống bên nhau mà như nước
mây hững hờ”.
Tóm lại, qua hai khía
cạnh đời sống thiêng liêng và đời sống sinh hoạt của một Dòng tu, chúng ta thấy
được những mong muốn Bề Trên sẽ làm và không nên làm cho các bề dưới của mình.
Đồng thời Bề Trên cũng mong muốn nơi các em mình những việc họ nên làm và không
nên làm cho Bề Trên và cho nhau. Tuy nhiên, vì là con người nên những điều
chúng ta nói và làm đôi khi không được như ý muốn, nên dù ở cương vị nào, tất
cả chúng ta đều mong muốn nhận được sự cảm thông, nâng đỡ của người khác. Đặc biệt
là người Bề Trên mong nhận được sự đóng góp của các thành viên trong cộng đoàn,
là động lực giúp chị chu toàn bổn phận và nói lên tinh thần hiệp thông trong
cộng đoàn, để cùng chung tay xây dựng và phát triển Hội Dòng, cũng như giúp
nhau thăng tiến hơn trong đời sống Dâng Hiến.
[6]
A.
DẪN NHẬP
Khi nói về gương mặt
chị giáo và Bề trên, người ta thường nghĩ ngay đến đời sống mực thước, cách
điều hành công việc của chị. Như một nghệ sĩ, Bề trên và chị giáo tương lai
phải biết dùng tình thương với sự hiểu biết về tâm lý và biết tận dụng khả năng
khôn khéo của mình để rút ra những điều mà các ứng sinh còn giấu kín trong
lòng, hoặc có khi chính chúng cũng chưa biết những đức tính cao đẹp, những khả
năng còn tiềm ẩn. Đó là những hạt giống tốt, có thể mọc thành cây, trổ hoa, kết
trái, làm nên một cuộc sống hoàn hảo, chỉ với điều kiện là được vun với, chăm
sóc kỹ lưỡng. Vậy đâu là những điều chị giáo sẽ làm cho các ứng sinh? Những
điều Chị giáo không làm? Những điều Chị trông đợi? Điều Chị không trông đợi?
B. TƯ CÁCH CHỊ GIÁO và BỀ TRÊN TƯƠNG LAI
1. Những điều Chị sẽ làm.
a. Đời sống thiêng
liêng.
- Chị có bổn phận và
trách nhiệm hướng dẫn và làm gương cho các em trong việc cầu nguyện: Cầu nguyện
cho cộng đoàn, cho gia đình huyết tộc, ân
nhân, cho bản thân và cho cả kẻ thù nghịch của chị em.
- Chị là người có niềm
tin sâu sắc phát sinh từ cảm nghiệm sống động về tình yêu Chúa. Cảm nghiệm này
càng sâu xa và mạnh mẽ thì niềm tin càng kiên cường.
- Chị là người có đời
sống tâm linh phong phú, có khả năng đối thoại với Thiên Chúa, nghe tiếng Ngài
và quảng đại đáp lại lời Ngài. Chính trong cuộc đối thoại độc đáo với Thiên
Chúa, chị khám phá ra những sự thật về thân phận yếu đuối của mình để dễ dàng
cảm thông với các ứng sinh.
- Chị có cái nhìn siêu
nhiên không đánh giá mọi việc theo cái lô-gích nhân loại, mà theo lô-gích của
Tin Mừng, theo ánh sáng của Bát phúc, theo tiêu chuẩn của lòng từ bi nhân hậu,
theo sức mạnh của tha thứ, theo sự điên rồ của Thập giá. Tuy nhiên Chị không
phủ nhận giá trị của thực tại trần thế và sự cần thiết của lô-gích tự nhiên,
nhưng xác tín rằng tất cả nhưng cái đó không hoàn toàn đủ để đánh giá một ứng
sinh.
- Theo quan điểm của
thánh Phaolô, Chị là người phải “mặc lấy tâm tình của Đức kitô”, bước đi trên
con đường cứu độ của Ngài, đi vào kinh nghiệm của Ngài, chia sẻ những thao thức
của Ngài, hăm hở vì sứ vụ như Ngài và sẵn sàmg vác thập giá với Ngài.
Để nuôi dưỡng và phát
triển đời sống cầu nguyện, dĩ nhiên Chị phải chuyên cần đọc lời Chúa và cầu
nguyện. Chính trong cầu nguyện, Chị tìm lại khát vọng về Thiên Chúa, và khám
phá tương quan mật thiết với Ngài và sự hiện diện của Ngài. Chị khám phá ra
chính mình và nhìn rõ các ứng sinh.
b. Đời sống nhân bản.
Không thể có mặt sự trưởng thành nào mà
lại vắng bóng một nhân cách tự lập, phát xuất từ một ý thức và một khả năng
nhận thức về chính mình. Dưới đây là một số biểu hiện của một người trưởng
thành về nhân bản mà Chị giáo phải có:
- Chị có khả năng
thương yêu, không phải thứ tình yêu khép kín và quy ngã, mà là thứ tình yêu mở rộng.
Từ kinh nghiệm yêu thương và trách nhiệm với mình, Chị mở rộng tới các ứng sinh
và cộng đoàn.
- Chị ý thức về chính
mình, về vai trò, sứ vụ của mình, có khả năng trả lời những câu hỏi căn bản:
Tôi là gì? Tôi là ai? Và biết tự vấn trước mọi sự kiện, hành vi, cảm xúc, trước
những gì mình đã làm… “Tự ý thức” là “con mắt nội tâm” chiếu dọi vào sâu thẳm
tâm hồn mọi người giúp Chị khám phá và nhận diện chính mình với những nét riêng
tư, độc đáo, tế nhị. Chính nhờ nó Chị có khả năng lượng giá về những hành vi,
chọn lựa, quyết định, vai trò, sứ vụ của mình.
- Thái độ cởi mở: sau
khi đã nhận diện và đầu tư cho chính mình, Chị phải mở rộng ra cho Thiên Chúa
và cho các ứng sinh. Chính qua sự đối thoại cởi mở, Chị sẽ lớn lên và được
phong phú hóa dưới nhiều góc độ. Mức độ trưởng thành biểu lộ qua những tương
quan đích thực và lành mạnh với tha nhân.
- Chấp nhận thực tế:
Chị là người có cái nhìn đúng đắn và thực tế về bản thân: không tự cao tự đại,
mà cũng chẳng giả bộ hạ mình một cánh kệch cỡm. Chị phải biết chấp nhận hoàn
cảnh, môi trường, cuộc sống, người khác và chính bản thân trong thực tại khách
quan của chúng. Không đeo mặt nạ và cũng chẳng che khiên thuẫn, đóng kịch để
che giấu con người thật của mình với ưu điểm và khyết điểm, ánh sáng cũng như
bóng tối. Thái độ chấp nhận thực tại này sẽ giải thoát Chị khỏi nỗi lo sợ vô
ích, nhưng tìm gặp bình an và là gương mẫu tiến thân cho các ứng sinh.
- Chị phải có trách
nhiệm về những gì mình đã làm, về cuộc sống và ưu tư của các ứng sinh mà Hội
Dòng trao cho Chị coi sóc.
- Thích nghi: cổ nhiên
thường nói “ở bầu thì tròn, ở ống thì
dài’’ hay “đáo giang tùy khúc nhập gia tùy tục”. Thích nghi là một tiến trình
tiệm tiến, gian lao, trắc trở. Có lúc cần phải đoạn tuyệt với con đường cũ để
vào giai đoạn trưởng thành. Chị phải là người thích ghi với cá tính, văn hóa,
sở thích,… của các ứng sinh, tuy không là tuyệt đối, nhưng để thích nghi, Chị
luôn phải bỏ ý riêng và đôi khi chấp nhận những điều xem ra nghịch lý với suy
nghĩ của chị.
- Quân bình và trung
dung: Chị phải giữ được mức quân bình cần thiết: quân bình giữa tâm và thể;
giữa tình và lý; giữa bổn phận và quyền lợi; giữa làm việc và nghỉ ngơi; giữa
dấn thân mục vụ và đời sống cộng đoàn.
c. Đời sống cộng đoàn.
+ Quý trọng sự khác biệt
của ứng sinh và tin tưởng Chúa luôn yêu thương các em như các em ‘’là.’’ Mỗi
người là một huyền nhiệm chứa đựng những nét độc đáo, không ai là một bản sao
của người khác.
+ Một cộng đoàn là tập
thể một tổ hợp những con người đầy khác biệt, khác biệt về quan điểm sống, lối
tư duy, tâm tư, tình cảm… có nghìn lẻ các khác biệt và gây ra mâu thuẫn. Chị em
có thể đi bên nhau như những bức tường câm nín. Với thực trạng trên đòi hỏi Chị
giáo phải quý trọng sẽ khác biệt của ứng sinh và biết xây dựng sự hiệp nhất
trong khác biệt.
+ Khi các em mới Nhập
dòng và đã sống ơn gọi Chị phải là người có ‘’tính hỗ tương’’ Đối với các em,
Chị luôn gần gũi để tạo cho các em có cái nhìn và cảm nhận Chị như người Chị
gái và người mẹ của chúng. Từ đó Chị có cơ hội hiểu rõ hoàn cảnh, diều kiện của
từng em để giúp Chị hướng dẫn các em tiến hoặc lùi trong ơn gọi.
+ Chị là người khiêm
nhường. Người ta phải vun trồng nhân đức nền tảng khiêm nhường. Chị giáo không
thể hiểu thấu toàn diện tâm hồn của từng ứng sinh vì “ mỗi ứng sinh là một mầu
nhiệm’’. Do đó, muốn giải thích hành động của ai chị cần phải đặt mình vào địa
vị, môi trường hoàn cảnh, những suy nghĩ của người đó. Có như thế Chị mới phần
nào hiểu về các em mà thông cảm, yêu thương nâng đỡ vun trồng ơn gọi của các
em.
+ Tính Bình Đẳng. Chị
là người phải công bằng không thiên tư tay vị, trọng dụng chị em giỏi, khinh dể
chị em kém cỏi; yêu riêng kẻ thuộc thành phần con nhà gầu có, ân nhân của Hội
dòng; hay vì kẻ đó luôn nhất mực đứng về ý kiến của Chị dù đúng sai bất kể…
+ Tính cảm thông vô
điều kiện. “Nhân vô thập toàn,’’ đã là người thì không ai là không có lỗi, chị
phải cảm thông vô điều kiện cho các em vì “chỉ Thiên Chúa mới có quyền xét xử –
tha tội.’’ Chị chỉ là dụng cụ mà Chúa dùng để giúp các em thăng tiến trong ơn gọi
mà thôi: hơn nữa, nếu bóc trần trước “mặt Chúa’’ biết đâu Chị cũng có những lỗi
phạm còn nặng nề hơn các em.
+ Tính kiên nhẫn, tốt
lành, lương thiện. Kiên nhẫn là đặc điểm đầu tiên của lòng mến. Như một người
mẹ luôn vui vẻ nhẫn nhục khi đứa con quấy phá vì người mẹ ấy yêu đứa con cuả
mình. Cũng vậy, khi chị giáo kiên nhẫn chịu đựng và rộng lòng tha thứ các lầm
lỗi của cách ứng sinh là chị yêu các em như Chúa Giêsu đã yêu: “Anh em hãy đón
nhận nhau như Đức Kitô đã đón nhận anh em để làm rạng danh Thiên Chúa” (Rm
15,7). Lòng mến không dưới hạn trong sự chịu đựng, nhưng nó đưa đẩy chị đem lại
sự tốt lành cho các ứng sinh.
+ Chính trực, hiền
lành, tiết độ. Chị giáo luôn phải thống nhất lời nói và việc làm của chị. Chị không
thể giáo dục các em phát triển nhân phẩm làm con người, làm con Chúa, trong khi
đời sống của chị có dư luận không tốt. Chị phải là người hiền từ, diễn tả bằng
lời nói nhẹ nhàng thân mật… nét mặt vui tươi: “Lời nói không mất tiêng mua, lựa
lời mà nói cho vừa lòng nhau’’. Hiền từ
không phải là thái độ xã giao, nhưng nó chứng tỏ chị là người biết tự chủ. Tính
tự chủ làm cho chị biết tế nhị, dè dặt và biết quý trọng các em.
Tóm lại, chị giáo nào lại chẳng mong muốn
các ứng sinh của mình sống vui tươi, an bình, hạnh phúc trong đời dâng hiến.
Nhưng cũng như một bản nhạc được người sáng tác phải tốn công thai ghén thể
hiện, một nhà giáo dục tương lai cũng phải khổ công đào luyện cho mình cái tâm
đào tạo vì tương lai của đời dâng hiến.
d. Chiều kích chuyên
môn.
Chị phải là người có một chuyên môn làm
phương tiện để phục vụ sứ vụ Tông đồ rất cần với thời đại ngày nay. Bên cạnh đó
chị phải là người hiểu biết tâm lý lứa tuổi và một chút kiến thức văn hóa địa
phương của ứng sinh, từ đó giúp chị dễ dàng trong việc huấn luyện.
2. Những điều Chị sẽ không làm.
3. Những điều Chị trông đợi nơi ứng sinh.
Trước thực trạng toàn cầu hóa như ngày
hôm nay, người trẻ nghĩ gì về đời tu, hay đâu là mô hình của người tu sĩ thời
@? Đâu là điều Chị giáo mong đợi nơi các ứng sinh mà mình đã bỏ tâm huyết để
vun trồng?
Ai trồng cây cũng mong
ngày hái quả. Chị mong ứơc các ứng sinh nhạy cảm trước nhu cầu của Giáo Hội và của
Xã hội, hiểu biết chuyển biến của thế giới hầu làm việc tông đồ có phương pháp
để đạt kết quả hơn… Do đó phải giúp các em đào
sâu đời sống tâm linh, thấm nhuần tinh thần tu trì, trung thành tuân giữ
hiến pháp, chỉ nam, luật Dòng và đường hướng huấn luyện của Dòng, đồng thời
phát triển lên mỗi ngày trong ân sủng Chúa.
Kính trọng kinh nghiệm
của cha ông và các chị cao niên để lại, biết tự kiểm để nhận ra khuyết điểm của
mình, biết làm chủ tinh thần; sống hòa hợp với mọi người; chu toàn bổn phận;
sống bác ái; biết lắng nghe người thổ lộ tâm tình, kiên nhẫn tới cùng, khoan
dung bỏ qua chuyện lặt vặt, không buồn về sự bạc bẽo ở đời, biết khích lệ người
khác, thành thật với bản thân và tha nhân… tránh nịnh hót, rèn luyện chí khí,
không phê phán nghĩ xấu cho người khác…
Tóm lại, trong công tác
đào tạo, Chị luôn mong muốn xây dựng nơi các ứng sinh một “tình yêu” hay “một
tấm lòng’’để yêu thương, chia sẻ và cảm thông, có khả năng chấp nhận bản thân,
chấp nhận cuộc đời và chấp nhận tha nhân. Chị
mong ước các ứng sinh trưởng thành đời sống nhân bản, trưởng thành đời
sống tâm linh, có một nghề nghiệp chuyên môn thích hợp, sãn sàng phục vụ mục vụ
và trưởng thành trong đời sống huynh đệ cộng đoàn.
4. Những điều Chị không mong đợi nơi các ứng sinh.
Giới trẻ hôm nay thích độc lập, khao khát
tự do và đòi được tôn trọng, lắng nghe. Họ rất dị ứng với những cấm đoán,
nguyên tắc sẵn có và tất cả những gì đi ngược lại quyền tự quyết định, nhân
phẩm, tự do; chú trọng nhiều đến việc thăng tiến bản thân bằng việc học hành,
phát triển tài năng và trau dồi nghề nghiệp. Nhưng đối với vấn đề đạo đức, nói
chung hình như họ để thả trôi theo nhịp sống, theo kiểu “văn hóa quần chúng:”
người ta sao tôi vậy, không có sự dấn thân và nỗ lực phát huy bản thân trong
tinh thần hy sinh hãm mình.
Vì thế Chị giáo không
mong đợi nơi các em một đời sống vô kỷ luật, đặt mối lợi riêng tư của mình lên
trên lợi ích của Hội Dòng, sống hời hợt, sống không có trách nhiệm, coi nhà
dòng như “quán trọ”, sống đua đòi, cư sử thiếu mặn mà về tình người, sống hướng
ngoại và lãng quên truyền thống.
C. KẾT LUẬN
Có người ví giáo dục như là việc nấu cơm,
cơm phải chín mới ăn được, nếu cơm sống thì không ăn nổi và cũng chẳng nấu lại
được. Công tác đào tạo cũng thế, người thụ huấn phải được đào tạo đúng mức mới
trở thàng hữu dụng cho Hội Dòng, cho Giáo Hội và cho đất nước. Một thỉnh sinh
tốt, ham học và có chí tu, nếu gặp được một nền giáo dục tốt, có chất lượng và
nhà giáo lành nghề, thì triển vọng ngày mai đương nhiên tươi sáng hơn. Trái
lại, nếu không may gặp phải người phụ trách yếu tay nghề, thiếu khả năng và một
chương trình đào tạo khập khiễng, chắp vá, trì trệ… thì ít hy vọng khai triển
hết khả năng của mình. Do đó, không những họ sẽ đóng góp ít hơn cho Hội Dòng,
Giáo Hội và Xã Hội, mà tai hại là họ sẽ trở thành người bất mãn thường xuyên, ù
lỳ, yếm thế hay những bà già độc thân khó nết.
Trong viến tượng đó,
các thụ huấn sinh có vai trò và trách nhiệm bất khả thay thế trong tiến trình
đào tạo. Chính mỗi thụ huấn sinh đã nhận lãnh lời mời gọi riêng biệt của Thánh
Linh và mỗi người phải đích thân đáp trả lời mời gọi đó bằng những cách thế
riêng. Việc chân thành cộng tác của các thụ huấn sinh với Thánh Linh và với
những người phụ trách đào tạo là điều kiện cần thiết cho sự thành công của
những chương trình đào tạo.
Nói cho cùng, điều quan
trọng nhất là ứng sinh phải “tự đào tạo”, bởi vì không ai có thể thay thế ứng
sinh được trong việc đáp trả tự do và trách nhiệm về đời mình. Tự đào tạo là
một tiến trình dài của sự biến đổi từ “con người cũ’’ sang “con người mới”,
nghĩa là phải một hành trình giải phóng nội tâm đích thực.
Trên đây là bài chia sẻ
của chị em nhóm chúng con, kính mong cha giáo và quý chị đóng góp ý kiến để bài
chia sẻ của chúng con thêm hoàn thiện. Xin thêm lời cầu nguyện để mỗi ngày chúng
ta sống xứng đáng hơn và chuẩn bị cho tư cách chị giáo tương lai.
[7]
Dẫn Nhập
Trong những năm trở lại đây, điều làm chúng ta mừng là số ơn gọi
tăng lên đáng kể. Nhưng chúng ta cần phải chú trọng đến vấn đề “phẩm” hơn là
“lượng”, nghĩa là phải nhằm ưu tiên đào tạo các nhà đào tạo. Ngoài vai trò của
Chúa Thánh Thần, của môi trường, của chính ứng sinh… một yếu tố rất quan
trọng là nhà đào tạo. Tục ngữ Việt Nam
có câu: “Không thầy đố mày làm nên” là thế.
Các tu sĩ phải trải qua
rất nhiều những giai đoạn huấn luyện: đệ tử, tiền tập, tập viện rồi giai đoạn
học viện và giai đoạn thường huấn. Mỗi giai đoạn lại có những đòi hỏi huấn
luyện khác nhau, nhưng mục tiêu chung là đạt tới người nữ tu trưởng thành toàn
diện. Giai đoạn nào cũng cần những nhà huấn luyện có tâm huyết, năng lực, tài
đức. Các học viên chúng ta hôm nay, mai sau cũng phải góp phần vào công cuộc
huấn luyện ứng sinh cho cộng đoàn. Tổ chúng tôi xin phép được trình bày ý
tưởng: “Nếu trong tương lai tôi là một Chị Giáo học viện, tôi sẽ làm những gì
và nên tránh những gì trong quá trình đồng hành với các em. Đồng thời tôi có
những thao thức gì đối với các em?”
A. NỘI DUNG:
1. Những việc tôi sẽ làm
Học viện là một giai đoạn phức tạp.
Đây là thời kỳ đào tạo giữa thời gian tiên khấn và vĩnh khấn. Làm sao để các em
đào sâu sự cam kết với Chúa Kitô qua việc sống lời khấn, đồng thời trung thành
với Giáo Hội, với Hội Dòng, với ơn gọi và Đặc Sủng Dòng…? Vai trò của Chị giáo
giai đoạn này càng quan trọng hơn. Vì thế tôi sẽ cố gắng để trở thành Chị giáo
đầy tâm huyết, thực sự trưởng thành trong đời sống nhân bản, đời sống thiêng
liêng, đặc biệt trong đời sống tu trì.
Chắc chắn không phải ai sinh ra cũng đã có ơn gọi làm Dì giáo hay làm Bề
trên. Trong đời sống tu trì, những chức vụ đó không nhằm địa vị danh dự cho
bằng việc được chia sẻ quyền bính để phục vụ như Chúa Giêsu - Đấng đến để phục
vụ (Mc 10, 45; Mt 28,19). Một người tu sĩ bình thường đã phải có những đức
tính, những phẩm chất đặc biệt, huống hồ tư cách một chị giáo. Không thể cho
cái mình không có, chị giáo không thể nhắc nhở các em sống nhân bản trong khi
mình lại có những ứng xử ấu trĩ, vụng về.
Trước tiên, chị giáo phải là một người có tình thương và tâm huyết thực sự
trong công cuộc đồng hành với các em. Ngoài những đức tính cần, kiệm, liêm,
chính…tôi phải cố gắng tập luyện để trưởng thành trong các lãnh vực tình cảm,
trí tuệ.
·
Lãnh vực tình cảm:
Tình
cảm là thái độ cảm xúc ổn định của con người đối với những sự vật, sự kiện, bản
thân, tha nhân. Cảm xúc là biểu hiện tốt nếu ta thể hiện đúng lúc, đúng chỗ phù
hợp với hoàn cảnh. Tôi phải tỏ ra thực sự trưởng thành về mặt tình cảm, biết
làm chủ cảm xúc của mình khi gặp phải những chuyện vui buồn, cả khi tiếp xúc
với những người khác giới. Nếu tôi quân bình tình cảm tôi sẽ không thiên vị em
nào, yêu thương các em một cách chân thành, công bằng, không phải vì em kia
cùng quê hay khéo léo, dễ thương, giỏi mọi thứ mà lúc nào cũng quý em ấy hơn
các em khác. Đi đâu cũng cho đi, làm gì cũng nhờ, khi đau ốm thì chỉ có em ấy
chăm sóc… Nếu em ấy có lỗi rõ ràng, công khai thì vẫn tìm mọi cách bênh vực…
Hành động như thế, sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực cho tâm lý các em khác, trong khi
đó, có em lỗi nhẹ thì cũng đưa ra cả cộng đoàn học viện. Rất có thể sẽ gây ra
bè phái, phe nhóm trong cộng đoàn học viện.
·
Lãnh vực trí tuệ:
Chị
giáo phải có đủ sự hiểu biết cần thiết. Thật ra Hội Dòng không bắt là phải có
bằng nọ cấp kia mới được làm Dì giáo. Nhưng trong một xã hội phát triển không
ngừng thế này, tôi không được tự mãn với
những gì đã có. Trái lại, tôi phải cố gắng học hỏi, trau dồi kiến thức cho mình
qua sách vở, qua việc học hỏi kinh nghiệm người đi trước, và tham gia các khóa
bồi dưỡng dành cho Bề trên, nêu gương cho các em về một tinh thần học hỏi không
ngừng. Đồng thời học hỏi về Kinh Thánh, kiến thức Thần Học, các Giáo Huấn của
Giáo Hội… Cố gắng tìm hiểu căn bản các phương tiện hiện đại như sử dụng vi
tính, nối mạng, lấy thông tin. Nhiều trường hợp nghịch lý đã xảy ra: Bề Trên là
người lớn tuổi, chưa biết gì về việc nối mạng, chỉ được nghe những khía cạnh
tiêu cực của máy tính nên khi thấy con em mình vào mạng thì cho rằng các em làm
việc xấu; trái lại lắm khi vì không biết gì nên rất dễ bị các em qua mặt.
Nếu
là Chị giáo, tôi sẽ lên một chương trình rõ ràng cho các em. Ngoài chương trình
chung của lớp liên tu sĩ, phải có một chương trình riêng cho đoàn học viện
riêng của mình nữa. Chương trình hàng tháng có thể đưa ra các đề tài cho các
nhóm thảo luận. Đặc biệt thành lập một ban cán sự của học viện để các em được
thực tập các công việc của đoàn học viện.
Trong
việc sử dụng người, tôi cố gắng khám phá năng khiếu của từng em để khi trao phó
một nhiệm vụ gì thì các em sẽ phát huy được ân ban tài năng của mình. Hoặc khi
các em hoàn thành chương trình thần học cơ bản sẽ đề cử các em đi học chuyên
sâu.
Tôi
phải làm gương cho các em trong mọi vấn đề: “Lời nói lung lay, gương bày lôi
kéo”. Tôi không để có tình trạng mâu thuẫn: nhắc nhở các em giữ kỷ luật, còn
tôi thì lơ là; nhắc nhở các em yêu mến Chúa, còn tôi thì không thể hiện tình yêu
đó bằng hành động… Như thế, các em chỉ “phục diện mà không phục tâm”. Khôn
ngoan của người xưa đã nói: “Không có gì tệ hại hơn là một lời khuyên tốt kèm
theo một gương xấu”.
Tôi
sẵn sàng là người “đứng mũi chịu sào”, nghĩa là trong mọi việc, dám làm, dám
nói, dám chịu trách nhiệm, không thoái thác hay đổ lỗi cho người khác hoặc đừa
trách nhiệm cho người khác khi gặp khó khăn xảy ra cho mình. Ví dụ: Khi một em
xin phép đi đâu, tôi xét thấy là chính đáng, tôi đồng ý cho đi nhưng khi Bề
trên biết, khiển trách em đó thì tôi sẵn sàng đứng ra hoàn toàn chịu trách
nhiệm vì xét tôi cũng có quyền và đã suy nghĩ khi quyết định cho em ấy đi. Hay
khi cả nhóm học viện có lỗi gì, tôi sẵn sàng đứng ra chịu trách nhiệm sau đó
mới sửa lỗi cho các em cách tế nhị với tình yêu thương. Tôi sẽ dùng quyền bính
cách hợp lý, nhất là để bảo vệ, bênh vực các quyền lợi cho các em mình.
Có
lẽ điều tôi phải đặc biệt chú trọng đó là thái độ đối xử với các em: Đã là con
người thì ai cũng muốn được coi trọng nhân phẩm, danh dự; học viện là giai đoạn
khó khăn của người tu sĩ vì một đàng phải học tập, nhưng cũng phải tiếp xúc với
môi trường truyền giáo, làm sao vừa trung thành với lời khấn, lại vừa chu toàn
bổn phận tông đồ. Vai trò Chị giáo phải làm sao trở thành chỗ dựa cho các em. Ở
ngoài sở vất vả, gặp nhiều khó khăn, về cộng đoàn lại bị hiểu lầm thì càng làm
cho các em buồn nản. Tôi không chỉ nhắc nhở các em giữ luật, nhưng phải chú
trọng bảo ban các em về ba lời khấn để các em hiểu biết, hâm nóng lại lời hứa
mặn nồng của ngày tuyên khấn. Đồng thời, nhắc nhở các em luôn thể hiện tư cách
một nữ tu khi tiếp xúc với môi trường xã hội. Quảng đại phục vụ nhưng không
quên nhiệm vụ một tu sĩ.
Tôi
sẽ dành thời gian để gặp các em. Khiêm tốn chia sẻ về kinh nghiệm kết hợp với
Chúa, về những mối tương quan trong cộng đoàn, nhắc nhở về trách nhiệm xây dựng
Hội Dòng… Tôi cũng cố gắng tìm hiểu hoàn cảnh từng em, em nào cần giúp đỡ về
vật chất, em nào cần giúp đỡ về tinh thần. Tôi sẽ tập lắng nghe những điều các
em tâm sự, thao thức. Đồng thời cố gắng giữ kín những điều các em chia sẻ. Nếu
nghe được điều gì sai lỗi của các em tôi phải để các em trình bày hoàn cảnh, lý
do… Tôi sẽ tạo điều kiện để nếu có thể sẽ đồng hành với các em cả trong khi đi
lao động chung. Nếu đi đâu mà gần gia đình các em tôi sẽ cố gắng vào thăm gia
đình các em đó.
Là
một Chị giáo, không những tôi quan tâm, chăm sóc các em khi khỏe mạnh mà cả khi
các em ốm đau hay bệnh tật. Bởi vì ai đi tu cũng muốn một sức khỏe tốt để sống
đời tu. Nhưng đôi khi Chúa gửi bệnh đến thì các em rất buồn. Vì thế tôi sẽ cố
gắng tạo cho các em một cảm giác an tâm khi trình bày với mình về hiện tình sức
khỏe. Đồng thời nâng đỡ, an ủi các em hầu có tinh thần tốt để chữa bệnh. Tôi
cũng cố gắng tạo điều kiện vật chất hay tìm thầy thuốc cho các em.
Tôi
tôn trọng ý kiến, tự do của các em vì các em là một nhân vị. Ví dụ: Khi Bề Trên
muốn thuyên chuyển công tác một em nào trong đoàn học viện, tôi sẽ tạo điều
kiện gặp riêng em ấy để tham khảo và lắng nghe nguyện vọng của em. Nếu em ấy có
những khúc mắc gì tôi sẽ trình lên Ban Cố Vấn để định liệu cho các em.
Chắc
chắn còn rất nhiều điều tôi phải làm trong tư cách là một Chị giáo, một người
đồng hành, huấn luyện các em, không chỉ xét theo bổn phận nhưng còn do chính
lương tâm trách nhiệm đối với Hội Dòng và trong việc sống đức ái. Có những việc
không dễ gì mà vạch ra trước, phải tùy cơ ứng biến. Tôi không quên phó thác các
em cho sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để Ngài soi sáng, hướng dẫn các em cộng
tác với tôi trong công cuộc đào tạo.
2. Những điều tôi nên tránh
Bên
cạnh những việc tôi phải làm cho các em, tôi cũng nên lưu ý một số điều nên
tránh như:
Khi
lên chương trình cho các em, thấy những gì có thể làm được thì mới làm, còn
những kế hoạch khó có khả năng thi hành thì tốt nhất là không nói ra.
Không
bao giờ thất hứa: Ví dụ thông báo với các em là nếu muốn đi học nghành gì thì
cứ đăng ký, nhưng sau đó không giải quyết cho một trường hợp nào với lý do “Bề
trên chấp thuận”. Lần sau có hỏi, chắc chắn các em sẽ nhìn nhau càm ràm: ‘ước
mơ làm gì cho mệt xác…’
Không
trao trách nhiệm quá khả năng. Ví dụ: Một em có tính nhút nhát, đứng trước đám
đông hay run mà cắt cho dẫn chương trình thì sẽ không đạt được hiệu quả như
mong muốn.
Không
vội vàng kết luận điều gì mà thiếu thông tin. Khi sửa lỗi không dùng những từ ngữ
để trì chiết, chỉ trích quá đáng. Không yên trí về một em nào quá, kể cả khi em
ấy đã từng bị mang tiếng. Không chê trách hay khen em nào đó về hết mọi mặt.
Không kể nết xấu của em này với em khác.
Không sửa lỗi các em trước mặt Bề trên, đặc biệt với người ngoài học viện. Khi
hội họp, huấn đức, không nói quá dài kẻo hết giờ mà vẫn chưa hết những vấn đề
cần nhắc bảo.
3. Những điều tôi trông
đợi nơi các em
Ai
trồng cây cũng mong đến ngày hái quả. Tham gia vào công cuộc đào tạo, tất cả
các nhà huấn luyện cũng như chính ứng sinh đều mong một kết quả tốt đẹp. Một
Chị giáo không đời nào lại mong các em bỏ tu, trái lại Chị luôn mong các em sẽ
trở thành một tu sĩ chính danh, thực sự tìm thấy hạnh phúc trên con đường dâng
hiến, thể hiện lòng khao khát, lựa chọn, tìm kiếm Thiên Chúa.
Với
tư cách một chị giáo, tôi mong muốn các em của mình là những người trưởng thành
về đời sống nhân bản cũng như đời sống tâm linh trong ơn gọi tu trì. Thật vậy,
không thể là một Kitô hữu hay một nữ tu tốt nếu người đó chưa thực sự là
“người” với tất cả những đức tính nhân bản cần thiết như nhân, nghĩa, lễ, trí,
tín, qua đó con người dễ sống hiệp thông, đối thoại, khiêm tốn, luyện lương tâm
ngay thẳng, sống cách trung thực, có tinh thần trách nhiệm, trật tự, sạch sẽ và
có khả năng thích nghi với mọi môi trường sống. Rất mong các em tự huấn luyện
và tập tành các đức tính đó cách kỹ càng. Một người có nhân bản tốt sẽ khai mở
và hỗ trợ cho việc thiêng liêng. Đời sống thiêng liêng phải được đặt lên hàng
đầu.
Trong
việc huấn luyện đời sống thiêng liêng, tôi chú trọng việc tôn thờ Chúa Thánh
Thần, cho chúng ta nghe được lời mời gọi đi theo Đức Kitô và kết hiệp chúng ta
trong Người.
Xuất phát lại từ Đức Kitô:
Tìm lại lần nữa tình yêu ban đầu của ta, tia sáng lôi cuốn làm ta đứng lên theo
Ngài. Bước đầu là tình yêu Thiên Chúa, bước tiếp là sự đáp trả đầy lòng yêu mến
đối với tình yêu ấy. Nhìn nhận Người yêu ta với ý thức sâu đậm để cũng thốt lên
như thánh Phaolô: Đức Kitô đã yêu tôi và hiến mạng cho tôi. Muốn thế, tu sĩ
phải tiếp xúc sống động với Lời Chúa, đón nhận, suy niệm cùng sống Lời Chúa,
thông truyền những kinh nghiệm trổ sinh từ đó. Thường xuyên quy chiếu về luật
Dòng và hiến pháp, sống đặc sủng của Hội Dòng cách triệt để.
Mỗi cá nhân phải ý thức
xây dựng một cộng đoàn chứng tá. Nói cách khác, Chị giáo luôn mong ước các em
chú trọng đến các yếu tố định hình nên một tu sĩ, dựa vào Giáo luật, Lời khấn
và Hiến pháp, là những phương tiện hữu hiệu hình thành người tu sĩ lớn mạnh
trong đời sống dâng hiến. Có những người cho rằng chỉ cần Tin Mừng là đủ. Nhưng
Tin Mừng thể hiện qua những gì các vị sáng lập viết ra cho các môn sinh noi
theo. Sống không cần luật Dòng là điều nghịch lý. Vì thế việc tuân thủ luật là
điều rất quan trọng. Nó sẽ định hình lương tâm và hạnh kiểm người tu sĩ. Giáo
luật có nhiều khoản liên quan đến tu sĩ, quy định tính pháp lý cho họ vì họ là
một thành phần đặc biệt của đời sống và sự thánh thiện của Hội Thánh. Họ cần ý
thức chỗ đứng của mình để không thiếu sót bổn phận. Các ứng sinh phải luôn xác
tín ơn gọi tu sĩ là món quà quý giá Thiên Chúa ban tặng.
Khi
tuân giữ ba lời khấn, người tu sĩ sẽ bước lên bậc trọn lành. Cộng đoàn tạo điều
kiện để mỗi cá nhân yên tâm sống các lời khấn, còn mỗi cá nhân thể hiện nếp
sống tu trì của cộng đoàn. Việc hiểu Hiến Pháp, tuân giữ Hiến Pháp làm nên một
tu sĩ chính danh. Hiến pháp tạo nên một tu sĩ theo truyền thống Dòng, đồng thời
cũng am hợp với hoàn cảnh thời đại. Hiến pháp được canh tân theo sự biến chuyển
của thời gian. Hiến pháp như lời giải thích Phúc âm theo tinh thần của Dòng
đúng với ý của Hội Thánh.
Tuy
là một Chị giáo đồng hành với các em, tôi không thể quyết định thành công nếu
thiếu sự của cộng tác các em với tôi trong chương trình huấn luyện.
4. Những điều không
mong đợi
Không
ai mong đợi một tu sĩ mà không sống đúng với căn tính của mình, làm gương mù,
gương xấu, gây cớ vấp phạm cho người khác, nhất là người giáo dân… Là một Chị
giáo, tôi sẽ rất buồn khi nghe người khác phản ánh về con em mình: “không thể
tưởng tượng được ngày nay lại có những nữ tu kiểu như thế”. Đáng buồn là chính
những người thánh hiến đã làm cho mình bị tục hóa bằng chính lời nói, hành
động, cử chỉ, mối quan hệ mà họ có…
Là
Chị giáo, tôi không bao giờ mong con mình học có bằng nọ cấp kia nhưng thiếu
đức. Đức bao gồm cả lòng đạo đức tu trì, là sự chăm chỉ, siêng năng cầu nguyện
để kéo ơn Chúa xuống cho bản thân và cộng đoàn. Vẫn biết học hỏi tri thức khoa
học là rất cần thiết trong xã hội ngày nay, nhưng nếu vì vậy mà quên việc trau
dồi đạo đức, đời sống tâm linh, nếp sống tu trì thì đó là một điều khó chấp
nhận với một tu sĩ.
Là
một Chị giáo, tôi không muốn các em của mình sống trong cộng đoàn một cách hời
hợt, người ta sao mình vậy, coi Hội Dòng như là một nhà trọ miễn phí muốn đi,
về, ra, vào tùy thích. Dễ dàng du nhập các sự thế gian vào nhà Dòng cách tùy
tiện, không hăng hái dấn thân trong bất cứ việc gì. Còn chị em sống với nhau
không tạo được sự hiệp thông, đoàn kết như chị em trong một nhà. Bên cạnh đó
trong việc giữ kỷ luật hay làm việc gì thì chỉ làm vì sợ luật, sợ Bề trên,
không có một tâm tình yêu mến gì cả.
KẾT LUẬN
Như
vậy, với tư cách là một Chị giáo học viện, tôi ý thức rõ ràng mình đang tham
gia công cuộc đào tạo những tu sĩ trưởng thành. Công cuộc ấy sẽ vô cùng quan trọng,
vì đào tạo một con người đã khó huống chi đây là đào tạo một tu sĩ. Mỗi người
một hoàn cảnh, một tính nết…phải rất khôn ngoan và tế nhị. Đào tạo là để xây
dựng một con người, một nhân cách. Đối với tu sĩ, đào tạo hay huấn luyện thì
thời gian vô hạn định.
Việc
vạch ra các định hướng như trên cũng chỉ là giả thiết vì rất có thể khi đó sẽ
có những biến chuyển và những thứ đòi hỏi sẽ khác hơn. Nếu thực sự những điều
chia sẻ trên đã phần nào làm nên chân dung một mẫu Chị giáo lý tưởng, thiết
nghĩ phải đối chiếu nhiều hơn nữa gương của Đức Giêsu, Đấng là Thầy, là Thủ
Lãnh. Và bước tiếp theo sẽ là làm sao để thu hẹp khoảng cách giữa lý thuyết và
thực hành.
[8]
Dẫn nhập
Sống
trên đời, ai cũng mang trong mình một lý tưởng, một ước mơ, một hoài bão. Sống
có lý tưởng thì mới có động lực để vươn tới. Vì thế, mỗi chặng đường, mỗi bước
của cuộc sống phải được uốn nắn, phải được huấn luyện thì mới đạt được kết quả
như mong chờ. Nhất là về công tác giáo dục và lãnh đạo trong đời sống tu trì
thì việc huấn luyện và gọt dũa lại càng trở nên quan trọng hơn. Nhóm chúng con
muốn hướng tới trách nhiệm giáo dục và lãnh đạo trong tương lai của chúng con,
vận dụng trí năng và ơn Thánh để trồng người, trong yêu thương khiêm nhường
phục vụ. Trồng lúa sẽ hẹn mùa gặt, nhưng trồng người không hẹn ngày đơm bông
kết trái; trồng cây còn có thời gian ngơi nghỉ, còn trồng người phải lo lắng
không ngơi. Tạo ra hạt lúa đã khó, nhưng huấn luyện một người thành tu sĩ thánh
thiện, thành người thợ gặt trong cánh đồng truyền giáo lại càng khó hơn. Trồng
cây chỉ cần chăm chỉ, trồng người cần kiên nhẫn khôn ngoan và ơn ban của Thần
Khí. Trồng cây chỉ lo dọn đất, trồng người phải lo huấn luyện làm sao để có thể
thích nghi với mọi hoàn cảnh, môi trường, có khả năng chống đỡ trước những mưa
sa bão táp của Sa tan và thế tục.
I. Sứ mệnh của Chị Giáo
tương lai
Để
trở thành chị giáo và bề trên tương lai, chúng con hôm nay ước muốn trau dồi
cho mình có những hành trang để có thể tự tin và vững bước với chức vụ mà tương
lai Hội dòng trao phó nơi chúng con: chứng tá của của một đời sống tu trì đích
thực, chứng nhân của sự thật, sự thiện và là gương sáng trong yêu thương phục
vụ. Là người đồng hành, người bạn gần gũi cảm thông, yêu thương, nâng đỡ để các
em luôn cảm thấy được niềm tin chia sẻ và quyền bính tạo cho họ một cảm giác
bình an, tôn trọng và tín nhiệm. Trong lãnh vực đào tạo này, chúng con cũng
luôn ý thức đào tạo và tự đào tạo mình kỹ lưỡng để trở nên dụng cụ của Chúa
Thánh Thần dùng cho lợi ích mai sau của Hội Dòng.
Chúng
con được học hỏi, được tiếp thu những kiến thức, những kinh nghiệm và đặc biệt
được hưởng những thành quả của thế hệ đi trước, trách nhiệm cuả chúng con phải
là người kế thừa và phát huy, nghĩa là chúng con phải giúp đỡ các em, chia sẻ
những thao thức ưu tư hầu thăng tiến các em trong đời sống ơn gọi tu trì.
Trước
tiên, tấm lòng của chị giáo và bề trên phải là tấm lòng của người mẹ hiền luôn
yêu thương chăm sóc và nâng đỡ các em. Điều đó rất cần thiết trong cuộc sống tu
trì, vì sự có mặt của Dì giáo hay bề trên ở bên các em như một động lực thúc
đẩy lớn lao, để từ đó các em cảm nghiệm được tình mẫu tử hiền hòa mà sống vui
tươi hạnh phúc trong cuộc sống dâng hiến.
Đời
sống tu trì nhằm trở nên giống Chúa Giêsu. Vậy chị giáo và bề trên tốt phải
theo sát mẫu gương của Chúa Giêsu, suy nghĩ với đầu óc của Chúa Giêsu,
nhìn với cái nhìn của Chúa, làm việc và hành động như Chúa Giêsu, có tấm lòng
và con tim yêu thương của Ngài, có như vậy công viêc giáo dục và lãnh đạo mới
mong đạt kết quả là cho ra đời những người nữ tu có phẩm chất như lòng Chúa
mong muốn. Tương lai của Hội dòng tùy thuộc vào các nhà đào tạo và khả năng bền
vững trong đời tu phụ thuộc rất nhiều công cuộc đào tạo này.
Vì thế, chị giáo và bề trên luôn
sống đồng hành với các em trên hành trình trưởng thành đức tin và thiêng liêng,
bằng yêu thương nhẫn nại, tận tâm chăm sóc đến từng em, biết rõ họ từ tính
tình, phẩm chất, những điểm mạnh điểm yếu để hướng dẫn, để cảm thông và để yêu
thương các em. Biết nhẫn nại và cậy dựa trong ơn Chúa, là nhà đào tạo cố gắng
làm biến đổi và thay thế cái xấu thành cái tốt, làm cho người chưa tốt thành
người tốt, tin tưởng vào sự thay đổi trong tương lai của ứng sinh, đặt niềm hy
vọng vào Thiên Chúa, Đấng biết rõ và có thể biến đổi triệt để từng con người.
Chị
giáo luôn tỏ ra gần gũi và tín nhiệm các em, xuất phát từ tình thương, trao
hiến cho họ những điều tốt nhất từ bản thân mình, giúp họ khắc phục những ích
kỷ để trở thành những người có khả năng yêu thương và trao ban yêu thương. Phải
gầy dựng sự quân bình giữa kỷ luật và tự do, giúp các em biết sử dụng tự do một
cách đúng đắn và có trách nhiệm. Chị giáo các em phát hiện và nhận diện cái tôi
sâu thẳm và phân mảnh của mình để biến đổi, đồng thời khuyến khích, động viên
các em tiến bộ; cảm thông thấu hiểu những ước muốn tốt cũng như những tổn
thương sâu xa của các em, đặc biệt trong lãnh vực tình cảm, hầu nâng đỡ, nhờ đó
các em tin tưởng để ân sủng của Chúa tác động và biến đổi tận căn.
Chị
giáo nỗ lực hướng dẫn các em bằng đời sống cầu nguyện, bằng gương sáng, bằng
các việc đạo đức, để đời sống thiêng liêng của các em ngày càng triển nở, thâm
sâu và tròn đầy. Về đời sống vật chất, luôn bao dung, và rộng rãi cung cấp cho
các em những điều cần thiết theo đúng nội quy luật dòng, để chăm sóc sức khỏe
và tinh thần của các em, vì các em là tài sản, là kho báu của cộng đoàn và Hội
dòng.
Chị giáo phải là cột trụ
vững chắc trước những khó khăn thử thách nơi cộng đoàn, hay những thách đố của
thời đại, là chỗ dựa tin tưởng cho các em khắc phục và thăng tiến. Chị giáo
luôn mực thước và ngay thẳng, khôn ngoan làm theo ý Chúa, công bằng trong dối
xử, không yêu quý riêng hay coi người này hơn người khác để tránh sự ganh tị và
nghi ngờ trong cộng đoàn. Luôn biết lắng nghe và chắt lọc các ý kiến và nhận
xét, đích thân tìm hiểu, kiểm tra bằng cách gần gũi, chăm sóc phục vụ và trực
tiếp đối thoại, nhờ đó mà kiến tạo bầu khí an bình và huynh đệ cho cộng đoàn
thăng tiến.
Chị
giáo luôn tìm khám phá điều Chúa Thánh thần muốn nói với các em qua mình và
khiêm tốn tìm biết điều Chúa thánh thần muốn nhắc nhở mình qua các em; đồng
thời khiêm tốn chấp nhận những thất bại và nghịch cảnh, hay trái ý có thể xảy
đến, bởi vì không phải lúc nào cũng có thể “thuận buồm xuôi gió” được.
II. Những gì chị giáo
trông đợi nơi các em.
Hội
Dòng đặt hy vọng nơi các em rằng các em sẽ là những người tiếp nối truyền
thống, Đặc sủng và Linh đạo của Hội Dòng, và là những tông đồ đắc lực của Chúa
và Giáo hội mở ra trong tương lai với sự phát triển toàn diện của người nữ tu
hôm nay, và nên dấu chỉ hoàn thiện của nước trời mai sau.
Mong
các em sẽ là những người nữ tu có phẩm chất, đặc biệt trong sự dấn thân với
tinh thần hăng say phục vụ và sống lý tưởng đời dâng hiến một cách hạnh phúc.
Nhiệt thành quảng đại, năng động sáng tạo cùng thăng tiến về bản thân; vâng
phục và tin tưởng bề trên, có nền tảng
vững chắc về đời tu, trung thành với lý tưởng ơn gọi
III. Những gì chị giáo
không trông đợi nơi các em
Sống
vụ hình thức, giả dối, đề cao vật chất, hay tìm bù trừ, sống thụ động, lại hay cố chấp, nhỏ nhen, ích
kỷ, thiếu trách nhiệm và không có tinh thần sống cộng đoàn; xem đời tu như một
đảm bảo về đời sống vật chất và an toàn nhất cho đời sống hiện tại để gầy dựng
cho tương lai; giữ kỷ luật đời tu như một cách đối phó “nín thở qua cầu” nhằm
che mắt người trên, coi thường chị em.
Mang
não trạng của người thế tục, tìm cách cho mình được người khác trọng vọng, quý
nể, và cơ hội phát triển tài năng cá nhân nổi trội trước mặt mọi người. Hoặc
vào dòng với mục đích tiến thân hơn là dấn thân, là để có điều kiện học hành có
bằng cấp và khi đã đạt được mục đích rồi thì lại tìm cách rút lui khỏi dòng một
cách hợp lí.
Kết luận
Sự
tồn vong của Giáo Hội và sự hưng thịnh về mặt đạo đức lệ thuộc vào việc huấn
luyện. Được sống trong ơn gọi dâng hiến, chúng con thấy mình như được sống
trong sự thân thương của một gia đình có tình mẫu tử và tỉ muội thực sự. Chính
sự nâng đỡ, liên đới, tinh thần chia sẻ và cảm thông tạo nên những niềm vui và
nụ cười cho đời sống dâng hiến hạnh phúc. Nghĩ rằng trong tương lai có thể sẽ
là chị giáo và bề trên, chúng con lại càng phải có trách nhiệm và bổn phận để
được đào tạo và tự đào tạo không ngừng, trang bị cho mình hành trang đi tới,
bởi vì những nỗ lực và cố gắng của hôm nay sẽ là đà bẩy và bệ phóng về tương
lai.
Chúng
con cám ơn Cha Giáo đã nâng đỡ và dạy dỗ, lại cho chúng con có một cơ hội để
chia sẻ, tìm ra những phương pháp và những đường hướng huấn luyện cụ thể, chắp
cánh cho những ước mơ, và làm cho mơ ước hôm nay có thể phát triển thành hiện
thực mai ngày. Cảm ơn quý chị em đã cùng chúng em học hỏi giao lưu, và chia sẻ
để cùng thao thức nhóm lên ngọn lửa chiếu sáng tương lai của ngày mai.
[9]
I.
Nhập đề
Sống
là có dự phóng tương lai. Và biết đâu mai kia chúng ta sẽ là những chị giáo hay
bề trên. Vậy mỗi chúng ta sẽ làm gì hay không làm gì cho các ứng sinh của mình.
Bài thuyết trình sau đây xin đóng góp đôi chút ý tưởng trong định hướng này.
II.
NỘI DUNG
1
. Những điều sẽ làm và không làm
Khi
bước vào đời tu trong một Hội Dòng hay Tu Hội, mỗi chúng ta đã hơn một lần được
đón nhận và chứng kiến "cuộc lên ngôi " của Bề Trên hay Chị Giáo qua
những lần Tổng Tu Nghị. Đó là biến cố
quan trọng đối với Hội Dòng cũng như mỗi thành viên. Sự kiện này bầy ra trong
tâm trí chúng ta bao câu hỏi chưa lời giải đáp. Với tư cách và tâm huyết của
người lãnh đạo và giáo dục, Bề Trên hay Chị Giáo mong muốn giúp ứng sinh trở
thành Chị Dòng tốt: thuộc về Chúa, về Giáo Hội và mọi người. Để được như vậy,
Chị Giáo và Bề Trên phải là tấm gương soi phản chiếu đặc sủng và linh đạo Dòng
cho ứng sinh noi theo.
a .Về ơn gọi.
Nhân ngày cầu nguyện cho ơn gọi Thiên Triệu, Đức Thánh Cha nhắn nhủ rằng
Ơn gọi thánh hiến là một hồng ân đặc biệt. Ơn gọi đó được khởi nguồn từ vị
Thiên Chúa mang tên Tình Yêu - "Không phải anh em đã chọn Thầy nhưng chính
Thầy đã chọn anh em" (Ga15,16) và Giêrêmia xác tín “Ngài đã chiếm đoạt
tôi.” Hiểu để sống đúng ơn gọi là niềm thao thức và lẽ sống của người Tu sĩ. Do
đó, chị Giáo và Bề Trên tương lai cần giúp ứng sinh hiểu sâu và sống ơn gọi,
đồng thời phát triển nét đẹp của tinh thần Dòng.
b .Về
Đời Sống Cộng Đoàn.
Khi
đề cập về mối quan hệ trong đời thường, người ta thường nói ''tư tưởng không
thông bình không cũng nặng.'' Đời sống cộng đoàn vừa là một hy sinh lớn, vừa là
phương tiện giúp ta nên thánh. Đó là tư tưởng và kinh nghiệm của các thánh,
vì mỗi người một tính, nên trăm người
trăm tính, có chung thì có đụng. Vậy làm sao có được sự dung hòa, một bầu khí
an vui? Thưa "đồng hành" là
điều cần thiết và lý tưởng giúp trên và dưới hiểu nhau hơn, cảm thông với những
thăng trầm trong đời tu.
Để
được vậy, Chị Giáo và Bề Trên cần biết lắng nghe và chắt lọc để hiểu rõ tâm
nguyện của ứng sinh, mối riêng tư, thầm kín mà họ không dễ nói ra. Chị Giáo và
Bề trên cố gắng tỏ ra sẵn sàng, vui vẻ và niềm nở mỗi khi chị em muốn gặp gỡ,
trao đổi, hãy giúp đỡ họ bằng trái tim của một người chị, người mẹ, tỏ rõ thiện
chí muốn đón nhận ý kiến của bề dưới trong việc điều hành của mình, cũng như
can đảm sửa sai các em để họ mỗi ngày nên tốt hơn.
c . Đời sống tông đồ
Chị giáo và Bề trên phải thao thức tạo điều
kiện trau dồi khả năng tri thức cho các em, sẵn sàng đầu tư thời gian, tinh
thần lẫn vật chất giúp các em phát huy năng khiếu và khích lệ tinh thần hăng
say học tập nơi các em: "Cần quan tâm đến việc học hành để họ sống ơn gọi
cách sung mãn và chu toàn sứ mạng Dòng cách tốt đẹp". Chị Giáo và Bề trên
sẵn lòng cho các em tham gia vào các lãnh vực hoạt động của Dòng theo khả năng
của các em, không bắt các em làm những việc ngược với khả năng của mình. Đồng
thời khơi dậy tinh thần nhiệt thành, hăng say truyền giáo nơi các em theo lối
sư phạm của Chúa.
Chị
giáo cũng như Bề trên cần quan tâm đặc biệt đến đời sống tâm linh của từng chị
em, giúp chị em tìm xác định mục đích quan trọng của đời tu là yêu Chúa và phục
vụ Chúa trong mọi người, với tâm niệm "yêu Chúa chứ không yêu công việc
của Chúa," tránh cho chị em tình trạng quá say mê công việc vì thấy hợp sở
thích, được mọi người tán thưởng.
2
. Những điều trông đợi
Qua
nhiều kinh nghiệm cuộc sống, người ta kết luận rằng niềm tin là yếu tố tạo nên
mọi mối quan hệ tốt đẹp trong cuộc sống. Đây cũng là ước mong mà các Bề trên
tương lai muốn nơi ứng sinh và bề dưới :
a
. Tin vào quyền bính của Chúa nơi Bề trên
Bề
trên vẫn là con người trong tiến trình sinh - lão - bệnh - tử. Nơi họ vẫn còn
đó những yếu đuối, sa ngã và kém cỏi, nhưng Chúa tín nhiệm sử dụng họ. Người
trao quyền bính vào tay họ: “ai nghe các con là nghe Ta.” Quả thế, dù họ yếu
đuối nhưng Chúa ban đủ ơn cho họ: “Ơn Ta đủ cho con”. Vậy dù bề dưới có nhiều
khả năng và thông thái hơn Bề trên, thì cũng hãy tôn trọng quyền bính của Chúa
trong họ: “Ai nấy hãy tùng phục quyền bính trên, vì mọi quyền bính đều do Thiên
Chúa, và những quyền hiện có đều do Thiên Chúa an bài”.
Song
các Bề trên cũng cần theo gương sử dụng quyền bính cách dịu dàng nhưng cương
quyết của Chúa Giêsu: Ngài đã vâng lời
Chúa Cha trước khi truyền lệnh, đã muốn để Chúa Thánh Thần hướng dẫn trước khi
hướng dẫn, đã không ở xa mà truyền lệnh nhưng Ngài đến và ở gần kề ("Chúa
Giê su đi khắp các làng mạc để giảng dậy” Mt 9, 13). Để tránh hiểu lầm, hiểu
sai, Bề trên ban lệnh truyền cách rõ ràng qua đối thoại, trao đổi với Bề dưới
theo nguyên tắc tín nhiệm - cởi mở - tôn trọng, đồng thời nâng đỡ chị em chu
toàn lệnh truyền đó. Các Bề trên mang trọng trách là cánh buồm, là bánh lái của
Hội Dòng, nên cần nhiều ơn Chúa qua lời
cầu nguyện của chị em, để với ân sủng của Chúa mà Bề trên chu toàn phận vụ, mỗi
ngày trở nên người của Chúa và của mọi người.
b .
Song Hành Với Thế Giới
Đứng
trước đà tiến không ngừng của nền khoa học kỹ thuật, với hệ thống truyền thông
tối tân giúp con người dễ mở rộng việc giao lưu, kết bạn bốn phương của người trẻ.
Đây là thách đố cho các nhà đào tạo. Bộ mặt Dòng tu cũng như mỗi cá nhân có sự
đổi thay rõ rệt: giữa hai thế hệ trong cùng Dòng có quan điểm, cái nhìn theo
những chiều hướng khác nhau. Chị Giáo và Bề trên hướng nhìn về tương lai để
giúp mỗi cá nhân được thăng tiến và đem lại sự phát triển cho Dòng; đồng thời
giúp các em khỏi rơi vào việc chạy theo trào lưu xã hội, làm mất đi nét đẹp và
bản chất của người Nữ Tu. Đức Thánh Cha nhắn nhủ rằng “để sống ơn gọi cách sung
mãn và chu toan sứ mạng của Dòng, chúng ta cần học biết cách thinh lặng và
chiêm niệm để lắng nghe chân lý là chính Lời Đức Kitô giữa thế giới ồn ào, náo
động ngày nay".
III . KẾT LUẬN
Đó
là đôi nét định hướng của nhóm chúng con. Chúng con cám ơn cha Giáo và qúy chị
đã quan tâm theo dõi. Xin Cha Giáo và quý chị thêm lời cầu nguyện cho chúng
con, để mỗi ngày chúng con biết không ngừng tìm hiểu, đồng thời đào sâu hơn nữa
về định hướng này.
[10]
A. DẪN NHẬP
Đề
tài này nằm ngoài khả năng của chúng con, vì chúng con còn nhỏ chưa có kinh
nghiệm làm Bề Trên hay chị Giáo, có chăng chỉ là kinh nghiệm làm bề dưới mà
thôi. Nhưng vì bổn phận và vâng lời, chúng con xin chia sẻ những kinh nghiệm có
được sau những dịp tiếp xúc và đồng hành với các Bề Trên, cũng là những kinh nghiệm
rút ra khi giao tiếp với các chị em tu sĩ Dòng khác. Vì thế có thể ít nhiều
mang tính chủ quan, phiến diện, nhưng hy vọng có thể là những gợi ý để các Bề
Trên tương lai tham khảo và nhờ đó tìm ra bài học cho mình.
Với
thời gian ngắn ngủi 10 năm sống trong nhà Dòng qua kinh nghiệm là bề dưới con
thấy là Bề Trên phải làm nhiều điều cho
chị em trong Dòng mình, cũng như nhiều điều các Ngài muốn nơi bề dưới của mình.
Nhưng con xin gom lại trong những điểm sau:
I
. NHỮNG ĐIỂM BỀ TRÊN CẦN LÀM CHO BỀ DƯỚI.
1 . Công bằng với
chị em, không thiên vị.
Được Chúa đặt lên coi sóc mọi chị em hay ít là
một nhóm các chị em, chị phải đối xử công bằng với họ. Việc trước tiên chị phải
làm để thực thi công bằng với chị em là lo cho phần rỗi linh hồn của chị em.
Chị sẽ sử dụng hết những phương tiện có thể như lời cầu nguyện, gương sáng,
nước mắt, những hy sinh mệt nhọc… để chu toàn bổn phận lớn lao đó. Những việc
đạo đức mà chị em cần có và thời gian để họ thực hiện những việc ấy chị phải
cung cấp đầy đủ theo đúng như luật Dòng ban cho họ. Nhiều lúc có thể vì thế mà
phải hy sinh lợi ích vật chất của Dòng thì Chị đừng do dự, thà Hội Dòng chịu
túng thiếu còn hơn một chị em trong Dòng phải hư mất đời đời vì không có của ăn
thiêng liêng.
Là
Bề Trên, chị có bổn phận phải lo cho sức khỏe của chị em, vốn là tài sản và kho
báu của Dòng. Sự an hòa của Dòng cũng
tùy thuộc vào yếu tố này, vì thế chị phải bồi bổ sức khỏe cho chị em khỏi đau
yếu, qua bữa ăn chung hay riêng cho chị em nào, tùy hoàn cảnh và sự cần của mỗi
người. Thật là sỉ nhục và bất công khi tiết kiệm mấy đồng bạc mà Bề Trên từ
chối không cung cấp cho chị em những sự
cần, khiến chị em thay nhau “nâng cao tay nghề cho bác sĩ.” Hay vì kiếm thêm
mấy đồng bạc mà Bề Trên để cho chị em chết gục trong công việc.
Ngoài
ra, theo lẽ công bằng, chị phải đối xử với ai cũng như nhau, đừng vì thấy chị
em nào dễ thương, dễ bảo, ăn nói ngon ngọt, hay giúp đỡ mà Chị dành cho một
tình cảm riêng, sâu sắc hơn những người khác. Đừng để thứ tình cảm mờ tối đó đi
sâu vào chị đến đỗi chị đi đâu cũng chỉ có chị em đó được đi, chị ốm chỉ người
chị em đó được chăm sóc, và nếu có ai thấy như thế không tốt và góp ý thì bị
chị coi là ganh tỵ. Thật đáng sợ và đáng trách khi chị đối xử như thế và hậu
quả bi đát xảy ra là sự ấm ức, ganh tỵ, bất hòa trong gia đình Dòng, khi đó
Dòng sẽ chết dần và người phải chịu trách nhiệm đầu tiên là chị.
2.
Cầu nguyện cho chị em.
Trong
gia đình Dòng, Bề Trên là người mẹ của gia đình, là mẹ của các linh hồn mà Chúa
ủy thác cho. Vì thế chị phải hành động như một người mẹ. Phương tiện hữu hiệu
để giáo dục con cái mà bà mẹ nắm trong tay là cầu nguyện. Do đó, chị nhớ tới
từng chị em của mình khi ở trước Chúa Giêsu Thánh Thể; chị hãy xướng lên từng
tên của họ, nhất là những chị em đang làm chị bận tâm. Chị phó thác và trao
dâng cho Chúa Giêsu, Ngài sẽ huấn luyện và sửa dạy các chị em cho Chị.
3. Không quá cứng nhắc trong vấn
đề kỷ luật.
Kỷ
luật đối với đời sống tu trì chỉ như thân xác đối với linh hồn mà thôi. Nó cần
thiết nhưng không phải là điều chủ yếu. Vì thế, khi lợi ích của cộng đoàn đòi
hỏi, cũng như những lúc cá nhân chị em đó cần thiết, chị sẽ uyển chuyển cho họ.
Khi uyển chuyển trong những trường hợp cần thiết, chị không làm cho luật lỏng
lẻo nhưng đề cao luật. Lacordaire nói: “luật là hải đăng chứ không phải cái ụ.”
Nếu cứng nhắc quá theo mặt chữ sẽ dẫn tới những phản kháng phá luật, giữ luật
cách hình thức, vô tâm. Vì vậy khi Chị uyển chuyển luật cách khôn ngoan, chị sẽ
giúp chị em giữ luật ở mức độ cao. Điều này cần và rất cần đối với các em mới
vào tu, chúng cần được uốn nắn từ từ. Vì thế Chị hãy ôn tồn chấp nhận những sai
lỗi ban đầu của họ và dần dần đưa họ vào kỷ luật cách khôn ngoan. Chị hãy mềm
mại dịu hiền khi quở trách và tha thứ lỗi lầm của họ. Như thế Chị sẽ chiếm được
lòng họ, gây cho họ những thiện cảm, nhờ đó việc huấn luyện sẽ thành công.
4. Bác ái với chị em.
Người
mẹ nào mà chẳng yêu con. Là mẹ trong gia đình Dòng, Chị hãy đối xử yêu thương
bác ái với mọi chị em. Chị hãy nhắm mắt bỏ qua nhiều chuyện của con cái mình,
bỏ qua cách dễ dàng những lỗi lầm của những em mới vào Dòng. Chị hãy thực thi
tình khoan nhân và lòng thương xót cách rộng rãi. Đặc biệt Chị hãy tha thứ tất
cả những gì xúc phạm đến riêng cá nhân Chị, hãy nhẫn nhục chịu đựng nết xấu của
chị em. Hãy kiên trì chờ đợi từng bước chậm chạp của chị em trên con đường biến
đổi, đừng bực bội oán thù hay nổi giận, càu nhàu khi chị em lỗi lầm. Chị hãy
niềm nở tỏ ra sẵn sàng đón tiếp họ trong bất cứ giờ nào, về bất kỳ việc gì. Làm
như thế họ mới dám đến để tỏ lộ tâm can cùng chị và như thế chị sẽ thành công
trong việc huấn luyện.
Ngoài ra, Chị hãy cảm thương với chị em
trong Dòng, bày tỏ lòng cảm thương bằng những lần viếng thăm, an ủi khi họ đau
ốm. Cảm thương với những chị em đi phục vụ ở xa nhà. Khi họ về, Chị hãy hỏi han
tỉ mỉ, lên tinh thần cho họ, khuyến khích khen tặng họ khi họ thành công và an
ủi họ khi họ thất bại. Chị hãy hòa mình với chị em, khiêm tốn nghe họ góp ý,
nghe họ trình bày những khăn khăn trong cuộc sống với sự cảm thông giúp đỡ. Đặc
biệt Chị hãy nghe họ đối thoại trước một mệnh lệnh họ không thể thi hành. Chị
đừng áp đặt, nhưng hãy giải thích để có được sự vâng lời tự nguyện từ nơi họ.
Khi bác ái và thông cảm như thế, Chị sẽ được chị em yêu mến, kính trọng và hiệu
quả lớn hơn là họ sẽ yêu mến Dòng, đồng thời ý thức hơn việc giữ kỷ luật, đi
vào tinh thần Dòng.
5 . Phục vụ chị em.
“Ta
đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ.” Chị hãy nên giống Đức Giêsu, -
nhà đào tạo các nhà đào tạo, khiêm tốn phục vụ chị em: Những việc hèn mọn trong
cuộc sống Chị làm, những lời xin lỗi Chị nói, những trách nhiệm Chị phải chịu
do sai lỗi của chị em… Có phục vụ như thế Chị mới hy vọng đào tạo chị em thành
những người phục vụ.
Đó
là những điều các Bề Trên tương lai cần làm và không nên làm cho chị em của
mình. Còn sau đây là những điều các Bề
Trên mong muốn có nơi các ứng sinh và bề dưới của mình.
II. NHỮNG ĐIỀU CẦN CÓ
NƠI BỀ DƯỚI.
1. Biết quý trọng ơn gọi.
Ơn
gọi là quà tặng Thiên Chúa ban cho kẻ Người chọn. Vì thế em hãy quý trọng, đừng thờ ơ lãnh đạm
trong việc duy trì và phát triển ơn gọi Chúa ban cho em. Trái lại phải tích cực
làm lớn mạnh ơn gọi bằng cách nỗ lực sống tinh thần đặc sủng và linh đạo của
Dòng. Kẻ không quý trọng ơn gọi hễ gặp trái ý là đòi về.
2. Sống đúng ơn gọi.
Là
nữ tu, em phải sống đúng ơn gọi là một tu sĩ theo Hiến Chương và qui luật Hội
Dòng đòi hỏi. Nếu không, em đã tự khinh miệt mình, vì chỉ có bề ngoài là tu sĩ
hay chỉ là tu sĩ trên văn bản giấy tờ mà thôi, còn tư cách sống và cuộc sống
của em không phải là một tu sĩ. Em hãy suy xét và nhìn lại sự lựa chọn của mình
và sống đúng với bản chất của sự lựa chọn đó để tránh lâm vào tình trạng biến
chất và tránh những cái bỉu môi, những câu nói mai mỉa của người đời: “dì Dòng
mà vậy!” Biết rằng để sống đúng với bản
chất tu sĩ của mình, em phải hy sinh bỏ mình rất nhiều và nó càng khó khăn hơn
khi sống giữa thế giới văn minh phát triển và tục hóa này: khó khăn chứ không
phải là không thể, cùng với ơn Chúa.
3. Vâng lời.
Bước
vào Dòng là em chấp nhận Hội Dòng cùng mọi kỷ luật và mọi chị em trong Hội
Dòng. Chính em tự nguyện xin khấn và trong ngày tuyên khấn, em hãnh diện và
trịnh trọng lớn tiếng tuyên bố cho lòng mình và mọi người biết từ nay em sẽ
vâng phục và tình nguyện vâng phục những gì mà Hiến Chương và Quy Luật của Hội
Dòng quy định. Vì thế mong rằng trong cuộc sống, vâng phục phải là nền tảng của
đời em. Để vâng phục bề trên cách mau mắn, em đừng nhìn vào những khuyết điểm
của ngài, nhưng hãy đeo cặp kính đức tin để nhìn thấy căn nguyên sâu xa của
lệnh truyền mà Bề Trên dành cho em là chính ý Thiên Chúa, Người đã gọi em và là
Bề Trên duy nhất của em. Còn Bề Trên chỉ là dụng cụ Thiên Chúa dùng để đưa lệnh
truyền đến cho em mà thôi. Với cặp kính đức tin đó em mới vâng phục trong tình yêu và vui vẻ mà không nghĩ Bề Trên
có hợp với mình hay không, Bề Trên có đủ tư cách hay không, Bề Trên có giỏi hay
không… Hãy cố gắng mua cho mình cặp kính đức tin quý giá ấy qua cầu nguyện.
4. Có tinh thần kỷ luật
Theo
quan niệm chung đời sống tu trì có giá trị cao hơn đời sống giáo dân bình thường.
Vì cuộc sống tu trì phải hy sinh hơn, sống kỷ luật hơn. Đúng như thế, khi chưa
sống đời tu trì thì đời sống thỏai mái không bị ràng buộc, không bị o ép bởi kỷ
luật: thích ăn là ăn, thích ngủ là ngủ; thích nhảy đầm nhảy hồ gì tùy ý; thích
mốt quần này áo nọ không ai cấm, tóc quăn duỗi cho thẳng càng đẹp. Nhưng khi
bước vào nhà Dòng, em sẽ dần dần được các Bề Trên đưa vào khuôn khổ, kỷ luật sẽ
dần huấn luyện em nên con người mới. Chắc lúc đầu em khó chịu vì phải giữ kỷ
luật: đang ngủ em phải dậy, đi đâu phải có phép tắc, mọi thứ đều cứng nhắc theo
một khuôn mẫu theo mặt chữ, kỷ luật làm mất tự do, nhưng chịu làm quen với nó,
em sẽ thành người tri âm tri kỷ với kỷ luật. Vì chỉ có kỷ luật mới dám trách
mắng và tố cáo em khi em phản bội nó, chỉ kỷ luật mới bác ái chỉ cho em những
hố sâu em sẽ rơi vào khi không có nó ở bên. Như vậy “ai giữ luật thì luật sẽ
giữ mình”, em nhớ và hãy sống điều này.
5. Yêu Dòng và xây dựng
Dòng.
Ngày
em bước vào Dòng là ngày em tình nguyện bỏ gia đình tự nhiên để nhận lấy cho
mình gia đình thiêng liêng là Hội Dòng. Vì thế em phải tận tâm tận lực xây dựng
và phát triển Dòng. Trước hết người yêu
Dòng là người "tàn nhẫn" với mình. Điều này có lẽ xa lạ với em, có
thể là vô lý nữa. Nhưng không, nó không vô lý chút nào, trái lại hoàn toàn
chính xác. Bởi vì sống trong gia đình Dòng nếu em không dần bỏ đi những tính
riêng, những thói quen xấu, cắt tỉa những ích kỷ ươn hèn thì em không thể sống
hòa hợp với chị em trong Hội Dòng. Khi hy sinh chịu cắt tỉa những điều xưa nay
gắn bó với mình làm mình phải tê tái, đó chẳng phải là tàn nhẫn với mình sao?
Tiếp
đến yêu Dòng và xây dựng Dòng là cầu nguyện cho các Bề Trên. Vì con thuyền Hội
Dòng có tiến mạnh, tiến nhanh trên con đường thánh thiện cần phải có các Bề
Trên là những bánh lái tốt. Ngoài ra, yêu Dòng là khiêm tốn góp ý với các Bề
Trên về tình trạng những gì mình cảm thấy không được nơi chị em, những điều
không đúng tinh thần Dòng có nơi chị em. Hãy trình bày cho Bề Trên biết để Hội
Dòng trở nên gia đình yêu thương như Chúa và Giáo Hội mong muốn, chứ đừng vì
kiếm chuyện để lấy điểm hay nịnh hót.
Yêu Dòng là đứng về phía các Bề Trên, em đừng vì xích mích với chị em hay không
ưa Bề Trên mà về phe với người khác để chống Bề Trên, chống nhà Dòng. Vì khi em
làm như thế hậu quả bi đát sẽ xảy ra là Hội Dòng bất an và dẫn đến tan rã.
Cuối cùng yêu Dòng và xây dựng Dòng là
tận tụy hy sinh phục vụ Dòng. Em hãy sẵn sàng cho đi sức lực, dâng hiến trí tuệ
và khả năng để phục vụ Dòng như Chúa muốn qua mệnh lệnh của Bề Trên. Đừng cậy
tài hát hay, vũ đẹp hoặc tài nọ cán kia mà bắt Bề Trên theo ý mình. Những người
như thế có trong Dòng thêm tai hại và là ung nhọt trong thân thể Hội Dòng. Để
xây dựng Dòng, em còn phải rất khiêm tốn và biết ơn Dòng vì Hội Dòng là nơi
nuôi ta lớn lên về thể xác, học hành, tri thức và dẫn dắt ta lớn lên trong con
đường nhân đức, chỉ có thái độ biết ơn mới biến em nên người nữ tu đích thực.
C.
KẾT LUẬN
Đó là phần chia sẻ của
nhóm con về những điều cần có nơi các Bề Trên tương lai và những điều mà các
ứng sinh và bề dưới cần luyên tập. Ước mong chia sẻ này góp phần vào công tác
huấn luyện Bề Trên tương lai và hy vọng nhờ đó đời sống thánh hiến thăng tiến
và có chất lượng hơn trong thời đại hôm nay.
[11]
Dẫn
Nhập
Để đến một nơi nào đó, ta có rất nhiều con đường
và nhiều phương tiện: chúng ta có thể đi tầu, đi máy bay hay đi ôtô và thậm chí
chúng ta có thể đi bộ. Mỗi người đều có một chọn lựa với sự tự do của mình,
nhưng khi đã bước lên xe là chúng ta sẽ phải phụ thuộc vào người lái xe. Chúng
ta có thể đến đích an toàn hay chúng ta sẽ bị say xe, chúng ta sẽ đến đích bình
an hay chúng ta phải trầy da tróc vảy vì đụng xe, vì lạc đường. Tất cả là phụ
thuộc phần lớn vào sự khéo léo, hiểu biết và phẩm chất của người lái xe.
Ta cũng có thể nhìn thấy hình ảnh chiếc xe chở
khách nơi cộng đoàn Dòng tu của chúng ta, trong đó người lãnh đạo là những bác
tài xế. Như vậy, có thể nói người lãnh đạo có vai trò hết sức quan trọng trong
việc dìu dắt, lèo lái và vun trồng các ơn gọi tiến bước trong cuộc sống tu trì.
Các ứng sinh có an toàn tiến bước trong niềm vui và sự phấn khởi cũng là phụ
thuộc vào sự dẫn đường của người lãnh đạo. Các ứng sinh có phải trầy da tróc
vẩy với những hy sinh, những nước mắt cũng phụ thuộc nhiều vào người lãnh đạo.
Thậm chí các ứng sinh có phải xuống xe giữa đường, bỏ cuộc giữa chừng cũng phụ
thuộc nhiều vào người lãnh đạo.
Nếu người tài xế cầm trong tay vận mệnh của
những hành khách, thì người lãnh đạo cũng nắm trong tay sức sống và ý chí của
các ơn gọi. Và nếu như đòi hỏi người tài xế phải có những phẩm chất, những điều
kiện và giấy phép hành nghề, thì người lãnh đạo cũng cần phải có những tiêu
chuẩn nhất định và phải có giấy phép hành nghề - đó là lương tâm và tình yêu.
Vậy để có một hành trình tu trì đẹp, người lãnh đạo nên làm gì và không nên làm
gì cho các ứng sinh của mình? Và họ mong ước gì hay không trông đợi gì nơi các
ứng sinh của mình?
I. NhỮng điỀu BỀ
TRÊN nên và không nên làm
1)
Gặp gỡ và đối thoại:
Là người đồng hành cùng các ứng sinh, hướng dẫn các ứng sinh thì trước
hết, người lãnh đạo chúng ta phải hiểu các ứng sinh: họ đang cần gì? Đang thiếu
gì? Và đang muốn gì?
Chúng ta sẽ không có thể hiểu được nếu người lãnh đạo và các ứng sinh
đứng ở hai bên bờ khác biệt. Để có thể tiếp cận được và để có thể hiểu được các
ứng sinh, người lãnh đạo cần chủ động bắc lên nhịp cầu gặp gỡ. Có gặp gỡ chúng
ta mới hiểu nhau, có gặp gỡ ta mới biết người cần gì, người có gì?
Gặp gỡ trước hết sẽ giúp ta hiểu người và người hiểu ta. Và có gặp gỡ
mới giúp hai bên khám phá ra sự khác biệt. Theo
G. Marcel: “Gặp gỡ là sự cảm thông giữa hai nhân vị”. Trong đời sống
cộng đoàn, nguyên nhân của phần lớn các cuộc hiểu lầm, xung đột giữa người lãnh
đạo với các ứng sinh là do thiếu gặp gỡ. Thiếu gặp gỡ, sẽ làm cho người trên
không hiểu người dưới, người dưới không hiểu người trên, tạo nên hố cách biệt
sâu thẳm giữa ta với người, dẫn đến sự khó cảm thông.
Gặp gỡ không chỉ giúp người lãnh đạo tạo ra mối thân tình hơn với các
ứng sinh, giúp truy tìm chân lý mà còn giúp người lãnh đạo loại bỏ được những
nghi ngờ, những thắc mắc và loại bỏ được những thành kiến. Khai trừ những khác
biệt giữa người lãnh đạo với bề dưới có thể dẫn đến thái độ áp đặt, độc quyền
và độc tôn, mà hậu quả tai hại là có thể khai trừ chính các ứng sinh. Nhiều
nghi ngờ không được giải toả dẫn đến những vấn đề nghiêm trọng, là do thiếu gặp
gỡ, thiếu hiểu biết dẫn đến ngờ vực hiểu lầm.
Mỗi con người là một huyền nhiệm và trong mỗi người luôn hiện diện một
cái gì linh thiêng, bất khả xâm phạm. Chẳng ai có thể hiểu được thế giới bí ẩn
này nếu chỉ dừng lại nơi những quan sát, phân tích bên ngoài. Huyền nhiệm chỉ
vén mở cho ta khi tha nhân tự nguyện mở cánh cửa và cho phép bắc nhịp cầu tương
giao. Đối thoại là một trong những chìa khoá thích hợp để mở cánh cửa huyền
nhiệm đó, để đi vào thế giới xa lạ này, để hiểu và cảm thông với nhau.
Theo Socrate, sứ mệnh của giáo dục là soi sáng và hướng dẫn, chứ không
phải truyền đạt kiến thức một cách máy móc cho người khác. Nhiệm vụ của giáo
dục cũng không phải là chụp lên đầu ứng sinh những quan niệm tiền chế, nhét vào
óc họ những tri thức khách quan, nhưng là khai mở, soi sáng, hướng dẫn, giúp đỡ
hầu làm triển nở chân lý tiềm ẩn nơi mỗi người. Điều này chỉ có được khi có sự
đối thoại giữa người lãnh đạo với các thụ huấn sinh.
Cám dỗ thường xuyên của các nhà đào tạo là muốn
nhanh chóng loại trừ mọi khác biệt, muốn đúc nặn ứng sinh theo quan niệm và
hình ảnh của riêng mình. Sợ đứa con tinh thần của ta không giống ta. Thế nên ta
cố sức nhào nặn, bắt chúng phải vào một khuôn nhất định, phải cảm nghĩ, tư
tưởng, hành động y hệt như ta. Tệ hơn nữa nhiều khi còn lấy tiêu chuẩn chủ quan
của ta để đánh giá, phê phán và xếp loại ứng sinh: ai phù hợp với tiêu chuẩn
của ta sẽ được liệt vào hạng gương mẫu, còn ai có lối sống, nếp nghĩ, tâm thức
khác ta sẽ bị nghi ngờ hay đánh giá thấp.
Vì không chấp nhận tính đa nguyên đa diện của
ứng sinh, rất nhiều lần sự khác biệt đã gây nên nỗi bất an, lo sợ phiền muộn.
Nhiều khi ta đau khổ vì không chịu nổi sự khác biệt của ứng sinh mà quên rằng
ứng sinh là nhân vị khác ta, và nhìn từ góc độ khác thì chính những khác biệt
đó có thể làm phong phú và triển nở đời sống tu trì. Thế nên mục đích của đối
thoại đòi hỏi hai yếu tố: giữ quan điểm của mình và tôn trọng quan điểm của ứng
sinh, trân trọng những nét riêng biệt của họ.
Gặp gỡ đối thoại cũng là phương thế để người
lãnh đạo thấy mình là người như thế nào? Đường hướng mình đang đi có gì phù hợp
hay chưa phù hợp và có gì cần phải điều chỉnh, củng cố. Đối thoại luôn bao hàm
thái độ dấn thân và chấp nhận thách đố. Nó đòi hỏi người đối thoại phải ra khỏi
tháp ngà định kiến và can đảm sửa đổi chính quan điểm và cuộc sống của mình.
Người đối thoại chân thành là người dám chấp nhận đặt lại ngay cả những xác tín
của riêng mình, dám biến đổi chính cuộc sống hay cách thế sống của mình. Vì
vậy, người lãnh đạo nên gần gũi tiếp xúc, gặp gỡ các ứng sinh một cách thường
xuyên. Chúng ta không nên viện cớ bận nhiều việc, tránh né hoặc gây khó dễ, tạo
khoảng cách làm các ứng sinh ngại gặp gỡ tiếp xúc, khiến các ứng sinh lại né
tránh ta khi có cơ hội gặp gỡ.
2)
Lắng nghe:
Nhưng, gặp gỡ sẽ thực sự thất bại nếu người lãnh đạo không tôn trọng
thái độ của ứng sinh trong gặp gỡ, hay không có tinh thần đối thoại cởi mở
trong tình huynh đệ. Đối thoại là chia sẻ, trao đổi thông tin, quan điểm, kinh
nghiệm. Một cuộc đối thoại đích thực bao hàm hai chiều hỗ tương giữa nói và
nghe, cũng như vừa cho vừa nhận. Thiếu vắng thái độ lắng nghe sẽ không còn là
đối thoại, mà là độc thoại. Khi thực sự biết lắng nghe, chúng ta biểu lộ thái
độ trân trọng những gì người nói muốn thổ lộ và cảm thông với những âu lo, căng
thẳng, thất vọng hay hy vọng của họ. Chân thành lắng nghe sẽ đem đến cho người
nói lòng tự tin và mối thiện cảm.
Là người lãnh đạo, ta không nên chỉ gặp gỡ các em mà lại không có đối
thoại - tức là chỉ nhắc nhở, sửa sai hay liệt kê khuyết điểm này nọ của người
dưới mà không cho người dưới có được sự đối thoại, bày tỏ nỗi lòng. Vì thực tế,
nhiều việc xảy ra như ta thấy nhưng sâu xa lại không phải như ta nghĩ. Vì vậy,
người lãnh đạo hãy đối thoại trong tình cảm thông, tức là phải có sự qua lại
trong sự tôn trọng chân thành, phải nói với ứng sinh nhưng cũng phải nghe ứng
sinh nói.
Nghe ở đây không phải là nghe qua loa nhưng phải là lắng nghe, nghe hết,
nghe rõ, không cướp lời hay cắt lời người đối thoại… nghe không hết, nghe không
rõ là nguyên nhân cho các cuộc gặp gỡ đi đến thất bại, thay vì gặp để gỡ thì nó
lại càng làm cho rối, thậm chí lại còm thêm trầm trọng hơn.
Vì vậy, lắng nghe là một điều không thể thiếu trong các mối quan hệ,
nhất là mối quan hệ giữa người lãnh đạo và người bề dưới, đặc biệt lại là các
ơn gọi mới. Nhưng vấn đề đặt ra là chúng ta phải lắng nghe với thái độ như thế
nào?
Mỗi người là một cá vị, một hành tinh với muôn vàn những bí mật, những
điều thần bí cần được khám phá, ngay bản thân con người là chủ của hành tinh cá
vị mình mà cũng chưa hiểu hết được những bất thường, như thánh Phaolô nói:
“Những việc tốt tôi muốn làm thì tôi không làm”. Chủ thể nhiều khi còn không
hiểu được chủ thể cá vị, huống chi người ngoài cuộc. Đúng là người đời nói chí
phải “Ngố như người ngoài hành tinh”.
Những người lãnh đạo là người đứng bên ngoài cá vị ứng sinh, nếu người
lãnh đạo không tìm cách khám phá, không lắng nghe âm thanh phát ra từ con tim,
từ tâm hồn của người ứng sinh thì người lãnh đạo sẽ chẳng có thể hiểu được gì
ngoài những gì chúng ta thấy ở bên ngoài… Do đó, ta cần phải lắng nghe để thấy,
để hiểu và để cảm thông …
Nhưng trước hết, để có thể lắng nghe người khác, chúng ta cũng phải tập
lắng nghe được chính mình, tiếng nói của con tim mình, tiếng nói của những hành
động của mình, tiếng nói của những cách ứng nhân xử thế của mình. Có lắng nghe
được mình ta mới thấy được mình đã sống thế nào và phải sống ra sao, phải cư xử
thế nào, phải hướng dẫn các ứng sinh làm sao? Từ việc biết lắng nghe mình, ta
mới nghe được người khác nghĩ gì, nói gì, muốn gì và cần gì?
Với cặp mắt tinh tế và tấm lòng yêu thương,
người ta sẽ nắm bắt không phải những lời đã được nói ra, mà ngay cả những gì
chưa được phát ra thành lời. Phải đọc cho ra cái “ý tại ngôn ngoại” như cổ nhân
từng nói. Ngay cả âm điệu, cử chỉ, gương mặt, ánh mắt và toàn thể dáng vẻ của
người nói cũng mang một ý nghĩa độc đáo. Cần lắng nghe qua cách sống của mỗi
ứng sinh. Không phải lắng nghe để xét nét, theo dõi, để phán xét nhưng phải
lắng nghe với thái độ chân thành, tinh thần học hỏi, rộng mở. Nghe với tinh
thần cởi mở là nghe với sự khách quan và đón nhận với một tình yêu chân thành
vô điều kiện. Để nghe với tinh thần học hỏi và cởi mở ta cần phải loại bỏ thành
kiến, loại bỏ tính chủ quan để có thể nhận biết và tôn trọng sự thật. Vì thực
tế, có tâm hồn lắng nghe sẽ giúp ta tránh được những phán đoán lệch lạc, những
quyết định vội vàng, những xử trí vô lý làm cho các ứng sinh phải hứng chịu
những khó khăn, thậm chí những đau khổ.
Là ứng sinh ai cũng mong muốn nơi Bề trên mình có những quyết định đúng
đắn, những cư xử công minh, hợp tình hợp lý, không lệch lạc thiên tư tây vị. Họ
luôn muốn tìm nơi chị giáo một điểm tựa trong ơn gọi khi gặp khó khăn, trắc
trở. Nhưng nếu chúng ta- những chị giáo lại thiếu lắng nghe thì hậu quả mang
lại thật đáng tiếc cho chúng ta và nhất là cho các ứng sinh. Bên cạnh đó, người
lãnh đạo cũng cần phải qua cuộc sống của mình phát ra cho các ứng sinh của mình
một tín hiệu: “Các em đang được tôn trọng, đang được lắng nghe”. Bởi tín hiệu
này rất cần thiết cho các ứng sinh, giúp các em thêm tự tin trong gặp gỡ, thêm
cởi mở trong quan hệ với người lãnh đạo.
3)
Chia sẻ với các ứng sinh
Một yếu tố khác hết sức cần thiết trong các mối quan hệ giữa Bề trên và
bề dưới đó là tinh thần chia sẻ. Là chị giáo, chúng ta hãy chia sẻ cùng các em
những nỗi ưu tư, những trăn trở trong đời tu. Là người trên, người hướng dẫn
đồng hành cùng các ứng sinh, chúng ta cần phải chủ động trong chia sẻ, phải đi
bước trước, và phải trao cho các em cảm giác, cảm nghiệm mình được tôn trọng,
được cảm thông khi được chia sẻ… Người lãnh đạo sẽ rất khó hướng dẫn, đào tạo
các ứng sinh, nếu không chia sẻ và không được các ứng sinh chia sẻ. Nhưng chúng
ta chia sẻ cái gì đây? Cộng đoàn tu trì, nhất là cộng đoàn huấn luyện là cộng
đoàn của những con người cần được chia sẻ, và được mời gọi chia sẻ cùng một tầm
nhìn và cố gắng hết sức để cho tầm nhìn đó được thực hiện.
Nếu như ở gia đình, cha mẹ thường chia sẻ cùng con cái những vui buồn
của cuộc sống, những thành công hay thất bại, lúc khó khăn cũng như trong lúc
thịnh vượng, thì cộng đoàn Dòng tu cũng vậy, người lãnh đạo là người cha người
mẹ của các ứng sinh, chúng ta cũng cần phải chia sẻ với các ứng sinh những vui
buồn, những khó khăn trong đời tu. Chia sẻ như vậy là một cuộc gặp gỡ, là mối
dây thân tình gắn kết ta với các ứng sinh trong tình yêu của Chúa.
4) Tình yêu trao ban:
Tình yêu thương là yếu tố bao trùm và quyết định tất cả mà người lãnh
đạo chúng ta cần phải có. Tình yêu
cũng như sự cảm thông, chính là nguồn phát sinh ra sự sống, mọi khả năng, mọi
cái tốt đẹp. Tình yêu được ví như dòng nước chảy tưới mát cho cánh đồng lúa mùa
hè, tình yêu có sức phục hồi những gì đã tàn úa, khôi phục những gì đã khô
khan, hàn gắn những gì đã nứt nẻ, xoa dịu những gì đã tê tái, phục hồi những gì
đã chai đá và tái sinh những gì đã tàn lụi. Thánh Augustinô đã nói: “Hãy yêu đi
rồi làm gì thì làm”. Quả thật, với tình yêu chúng ta có thể làm được tất cả.
Với tình yêu, chúng ta sẽ biết phải làm gì, cư xử ra sao và quyết định thế nào.
Là người Bề trên mà không có tình yêu chẳng khác gì đầu nguồn không có nước;
đầu nguồn không có nước thì dòng sông lấy đâu nước chảy.
Một cộng đoàn không có tình yêu thật buồn tẻ, không sức sống, thiếu động
lực. Bề trên mà thiếu tình yêu sẽ có những việc làm, những quyết định vô ích,
thậm chí gây ra những hậu quả nghiêm trọng phản tác dụng, phản giáo dục. Là Bề
trên, ta cần có một trái tim yêu thương vô vị lợi; có tình yêu trong mình,
chúng ta mới có thể trao ban tình yêu cho người khác. Vì thế, trước khi trao
phó Giáo Hội cho thánh Phêrô, Chúa Giêsu đã 3 lần hỏi: “Phêrô con có yêu mến
Thầy hơn những người này không?” Tình yêu quả là con đường tuyệt vời nhất để
nối kết con tim mọi người với Thiên Chúa và với nhau.
Đời sống tu trì là một đời sống chứa chan tình yêu, yêu Chúa và yêu
nhau. Các ơn gọi mới (thanh tuyển, Tiền tập, Tập sinh) là những tâm hồn quảng
đại, trong trắng đang khao khát tình yêu
Thiên Chúa, sự cảm thông trong cộng đoàn và nhất là tình thương nơi chị giáo và
Bề trên. Vì vậy, người lãnh đạo hãy dành cho các em một tình yêu chân thành của
người chị, người mẹ trong gia đình qua cách sống, qua việc làm, qua ánh nhìn,
qua lời nói và cử chỉ. Chúng ta không thể nói về tình yêu và đức ái đối với các
em, trong khi chúng ta lại hành động thiếu yêu thương, thiếu bác ái, ích kỷ và
bảo thủ.
Gabriel Mercel nói: “Cần tạo cho cộng đoàn bầu khí
gia đình thực sự, để nhờ môi trường này, mỗi người được tự do thể hiện kinh
nghiệm sống bản thân và sống cái huyền nhiệm của mình một cách đậm nét hơn”.
Cộng đoàn cũng là gia đình, người lãnh đạo là chính cha mẹ. Hãy đón nhận các
ứng sinh và dành cho họ tất cả tình yêu của mình trong tình yêu của Chúa Giêsu
Mục Tử nhân lành, Người đã đi tìm kiếm con chiên lạc đã hy sinh tính mạng vì
đàn chiên.
5)
Khiêm tốn học hỏi để có quyết định sáng suốt
Nhà đào tạo cần có sự khiêm tốn”, vì nếu không
khiêm tốn, chúng ta sẽ chẳng nhận ra được những tín hiệu phản hồi từ những hành
động mình đang làm, không có khiêm tốn chúng ta chẳng có thể nhận ra được những
điều không đúng, những thiếu xót hay những cư sử không phù hợp của mình. Ly
nước đã đầy thì không thể chứa thêm được, càng rót thêm nó lại càng trào ra.
Người không khiêm tốn sẽ không thể nhận thêm được gì từ khách quan bên ngoài.
Không có khiêm tốn dễ đưa chúng ta đến với sự bảo thủ, tự phụ cho rằng mọi
quyết định của mình luôn đúng, không sai lầm.
Ngày nay, nhiều ứng sinh có trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật cao hơn
chúng ta, tân tiến hơn chúng ta, các em cũng có những nhận định, những đòi hỏi
nơi chúng ta. Nhưng nếu thiếu khiêm tốn, chúng ta sẽ chẳng nhận ra được nơi các
em những tín hiệu nào khác ngoài những gì chúng ta đang ép, đang gò các em vào
một khuôn mẫu theo tiêu chuẩn của cá nhân với những hiểu biết giới hạn của ta.
Tinh thần khiêm tốn sẽ giúp chúng ta nhận ra những bất toàn của mình về
hiểu biết tri thức, về tầm nhìn xã hội và những tiến bộ của khoa học công nghệ.
Khiêm tốn sẽ giúp chúng ta có những cách cư xử ôn hoà, cảm thông và khích lệ
ứng sinh. Hãy cho các em cơ hội thể hiện con người, cá tính và cả khả năng của
các em. Và từ đó chúng ta sẽ uốn nắn các em với những nét rất riêng của các em,
để các em ngày một thăng tiến và không ngừng phát triển trong đời sống ơn gọi
tu trì.
II. Những kỳ vọng nơi ứng sinh
Cha mẹ khi vừa sinh con ra đời đã bắt đầu đặt nơi con mình rất nhiều kỳ
vọng: mong cho con mạnh khoẻ, mong cho con thành danh, mong cho con hạnh phúc…
Bề trên và Chị giáo cũng đặt rất nhiều hy vọng nơi các con em mình, bởi thế hệ
trẻ là tương lai của Hội Dòng. Vậy người đào tạo trông mong điều gì và không
mong gì nơi các thụ huấn sinh của mình?
Mục đích của đào tạo là giúp các Ứng sinh trở thành môn đệ của Đức Kitô
mỗi ngày một hơn, bằng sự kết hợp với Người và trở nên đồng hình đồng dạng với
Người. Các ứng sinh phải làm sao để ngày càng thấm nhuần tâm tình của Đức Kitô,
mỗi ngày tham dự sâu hơn vào hoạt động hiến dâng của Người cho Chúa Cha và phục
vụ Người trong gia đình nhân loại hơn. Các ứng sinh thực hiện việc tăng trưởng
này theo đặc sủng và linh đạo của Hội Dòng.
1. Về nhân bản:
Các nhà đào tạo mong cho con em mình có đời sống nhân bản trưởng thành,
với những đức tính căn bản mà một con người cần phải có. Phải làm một con người
tốt mới làm một kitô hữu tốt, và rồi mới sống tốt đời tu trì được. Người trưởng
thành khám phá và nhận diện chính mình, biết yêu quí và trách nhiệm về chính
bản thân, để rồi mở ra và đi tới tha nhân.
Nhà đào tạo luôn mong các ứng sinh có thái độ cởi mở, cái nhìn đúng đắn
và thực tế về bản thân, không tự cao tự đại mà cũng chẳng giả bộ hạ mình cách
kệch cỡm. Nhưng biết chấp nhận con người thật với ưu và khuyết điểm để tìm
đường hướng vươn lên và phát huy. Thái độ chấp nhận thực tại này sẽ giải thoát
các ứng sinh khỏi những nỗi lo sợ vô ích và có được bình an nội tâm. Nhờ đó,
làm chủ cảm xúc, biết sống yêu thương chan hoà, có khả năng mở rộng tâm hồn cho
người khác và đón nhận người khác đến với mình.
Người trưởng thành can đảm bước vào cuộc sống mới, đoạn tuyệt với lối
sống cũ, đương đầu với khó khăn, thách đố, với những chọn lựa và quyết định
phức tạp, mâu thuẫn. Không có chọn lựa nào mà không có mất mát và trả giá. Điều
quan trọng là làm sao thực hiện được chính mình và giữ được mức quân bình cần
thiết giữa những căng thẳng, mâu thuẫn, không thái quá cũng chẳng bất cập.
2. Trưởng thành tâm linh:
Không chỉ trưởng thành về nhân bản, mà cần nhấn mạnh hơn về trưởng thành tâm linh: chú trọng việc tu
thân, luyện tính, cải hoá, thanh luyện nhằm hướng đến một mô hình nhân cách,
hình thành một thái độ và một cách thế sống. Các nhà đào tạo mong các ứng sinh biến đổi nếp sống, lối nghĩ, giảm thiểu
tham, sân, si, và kiểm soát tốt hơn những xung lực tự nhiên; đòi hỏi một sự
lột xác đích thực, một phương pháp trị liệu những khuyết điểm và thói hư tật
xấu. Học vấn có thể cho ta một số vốn kiến thức, nhưng chưa làm cho ta trở
thành người tu sĩ biết nhìn, biết phán đoán, đánh giá sự đời và người thế một
cách đúng đắn dưới ánh sáng Tin Mừng. Các ứng sinh hãy mặc lấy những tâm tình của Đức Kitô, can đảm để Thần Khí đổi mới tâm
trí và mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh
Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.
Điều cần thiết nơi ứng sinh là phải có một lý tưởng tu trì đúng đắn, thực
sự muốn theo Chúa Kitô. Chính ứng sinh là người trách nhiệm trước tiên của
lời thưa “xin vâng”, đáp lại lời mời gọi tình yêu của Thiên Chúa. Xác định đúng
mục đích của đời tu, ứng sinh mới sống
hết mình, phát huy hết khả năng, vượt qua mọi gian khổ, không ngừng phấn đấu
vươn lên và sẽ sẵn sàng cho việc rèn luyện, chỉnh sửa để thích ứng với lối sống
của Dòng. Đồng thời bộc lộ một tâm
huyết, một nhiệt tình đối với Hội Dòng, với lý tưởng đời tu, trung thành với
đời tu, với đặc sủng và linh đạo của Dòng, trung thành với Chúa Kitô và Phúc
âm, trung thành với Giáo Hội và sứ mệnh của Giáo Hội, và trung thành với thời
triệu của Chúa Thánh Thần.
Người tu sĩ trẻ ngày nay rất năng động, khôn ngoan, nhạy bén. Điều đó
rất tốt. Nhưng các nhà đào tạo không muốn
thấy một lớp người sống xa rời căn tính của đời tu, quá chú trọng đến những đòi
hòi của xã hội mà làm lu mờ đi đời sống nội tâm. Hăng say làm việc, hoạt đồng
tông đồ là tốt, nhưng đừng vì thế mà đời sống huynh đệ, đời sống chung trong
cộng đoàn bị tổn thương hoặc mai một đi.
Nhà đào tạo rất mong các ứng sinh không ngừng hướng tới việc trở nên
đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, bước đi trên con đường cứu độ, vào sâu trong
kinh nghiệm và chia sẻ những thao thức của Người, hăm hở vì sứ vụ như Người và
sẵn sàng vác thập giá với Người.
[12]
A. Dẫn Nhập
Con người mơ ước cuộc sống hạnh phúc là điều dĩ nhiên với tất cả mọi
người, nên cũng không loại trừ đời tu. Ứng sinh ươc mơ những việc phù hợp với
khả năng: Khấn xong sẽ đi xứ, tập hát, đánh đàn, giúp hội nọ hội kia sao cho
nên hoành tráng..., và toại nguyện vì đã làm trọn bổn phận là môn đệ Chúa
Giêsu. Nhưng ít ai dám hướng tới mơ ước làm Bề Trên: Tại sao vậy? Vì mơ ước đó
đó đòi con người phải hy sinh, phải cho đi chính mình, là điều tự nhiên con
người rất ái ngại.
Nhưng Cha Giáo lại nói “đó là một hồng ân Chúa ban cho những ai Ngài yêu
và tín nhiệm”, khiến chúng con bớt run và can đảm hơn nếu sau này được Chúa tín
nhiệm ân ban chức vụ Bề Trên - Chị Giáo. Để chuẩn bị trước cho việc đón nhận
hồng ân này Cha Giáo đã hết lòng quan tâm, tạo cơ hội cho chúng con có dịp ngồi
lại với nhau, cùng nhau đưa ra những điều tích cực và loại trừ những điều tiêu
cực, để mỗi người chúng con khi được Chúa trao ban nhiệm vụ Bề Trên - Chị Giáo,
chúng con cũng biết nương theo đó sao cho hợp và đúng với tư cách người lãnh
đạo theo gương Chúa Giêsu.
b. NỘi Dung
1. Vươn Tới Ước Mơ
Khi được trao nhiệm vụ gì, chúng ta ai cũng muốn làm thật tốt, trước hết
cho Chúa, cho nhà Dòng và cho chính mình. Với tư cách là Bề Trên - Chị Giáo
tương lai, chúng ta có chung ước mơ lấy Chúa Giêsu làm mẫu gương phục vụ. Chúa
Giêsu đã làm gì cho các con dân của Ngài thì chúng ta cũng ước ao theo gương
Ngài mà làm những điều đó cho các em của chúng ta.
v
Mẫu gương Thầy
Giêsu
a. Giêsu-Người tôi tớ.
Chúa Giêsu đã nói “Ai muốn làm lớn hãy là
người phục vụ và là đầy tớ mọi người.” Lời đó không chỉ để cho người khác phải
thực hành còn mình thì không, nhưng chính Ngài đã đi bước trước trong tinh thần
phục vụ như chúng ta đã thấy trong bữa tối cuối cùng: Ngài đã rửa chân cho các
môn đệ. Chúa Giêsu đã làm như thế là muốn gửi cho chúng ta sứ điệp YÊU THƯƠNG
và PHỤC VỤ. Như thế tinh thần của một Bề Trên - Chị Giáo như Chúa Giêsu dạy là
hoà mình, phục vụ và trở nên đầy tớ mọi người.
Mỗi chị em chúng ta ngồi đây, nếu sau này
được Chúa yêu thương tuyển chọn cùng Ngài vác thập giá trong chức vị Bề Trên,
chúng ta sẽ làm gì với trách vụ mới này? Chắc chắn ai cũng lên rất nhiều chương
trình này kia cho các em của mình. Chị Giáo sẽ làm gì cho cá nhân từng em dưới
quyền của chị đây? Điều trước tiên chị phải làm cho các em của chị là gương
sáng, vì chị không thể chỉ dậy cho các em làm mà chính chị lại không thực hành
trước. Cuộc sống con người ngày nay rất cần gương sáng như dân gian thường nói
“Lời nói lung lay, gương bày lôi cuốn”
Trước
hết, chị giáo phải là một con người cầu nguyện, coi sự thánh thiện của chính
mình là công việc chủ yếu và đầu tiên trong nhiệm vụ huấn luyện các em; chị
phải là người trung thành trong việc giữ các việc đạo đức mà Hiến Chương Dòng
đã quy định. Nếu chị cẩu thả và lơ là trong việc cầu nguyện thì sẽ không hi
vọng các em của chị sẽ trung thành với ơn gọi, vì một ơn gọi chỉ được phát
triển và vươn lên khi có đời sống tương quan mật thiết với Thiên Chúa.
Để
các em có thể vươn lên cách mạnh mẽ trong ơn gọi, chị sẽ phải hy sinh rất nhiều
trong việc huấn luyện, vì các em ngày nay nói chung rất năng động và nhiều sáng
kiến, nên chúng cũng đòi hỏi nhiều nơi chị giáo sự hoàn hảo về mọi phương diện.
Vì thế để việc huấn luyện của chị có hiệu quả nơi các em, chị phải là người có
tự do nội tâm, không bị những đam mê hay tình cảm lệch lạch, không bị chi phối
bởi tình cảm yêu hay ghét, thích hay không thích, chị cũng không nên quyết định
vì có ác cảm hay bởi thù oán, ghen tị với ai. Điều đó đòi chị phải trưởng thành
về tình cảm: chính sự trưởng thành này giúp chị không có khuynh hướng lệch lạc
với người dưới quyền, không lạm dụng nhưng luôn giữ được sự chính trực và công
bằng. Khi chị tập và thực hành được như thế là chị đã phần nào giống Chúa
Giêsu, người tôi tớ thánh thiện, khiêm tốn phục vụ, không thiên tư tây vị.
b. Giêsu người bạn thân.
Trong tin mừng thánh Gioan, chúng ta
gặp được mẫu tình bạn thật tuyệt vời giữa Chúa Giêsu và anh Lazarô. Tuy tác giả
không diễn giải tỉ mỉ về đôi bạn này, nhưng chi tiết Chúa Giêsu đã khóc khi
Lazarô chết cũng đủ để chúng ta hiểu được đôi bạn họ đã sống với nhau như thế
nào? Trong sách I Samuel, chúng ta cũng tìm thấy một tình bạn cao đẹp, bất hủ
và hài hoà nơi Đavít và Gionathan.
Về phương diện xã hội học, người ta thường nói
rằng con người là động vật sợ cô độc, và sống ở trên đời không ai là một hòn
đảo. Đời sống cộng đồng làm cho con người có thể phát triển toàn diện và hài
hoà. Điều này lại càng đúng hơn khi nói về tình bạn, một tình bạn chân thành:
người ta có thể thiếu thốn về vật chất, nhưng không thể thiếu vắng tình bạn,
nhờ tình bạn mà con người có thể chia vui sẻ buồn, có thể chia sẻ tiếng lòng
với nhau. Đã là người hiện diện trên trần gian này không ai dám tự phụ nói rằng
tôi không cần đến bạn hữu. Nhiệm vụ của người bạn thân khi bạn mình yếu đuối sa
ngã là luôn ở bên cạnh, và khi bạn sống an vui cũng vẫn có họ. Tình bạn thật như
vậy không phải chỉ hiện diện khi vui hay khi buồn trong chốc lát, nhưng luôn
sẵn sàng nhẫn nại và không nghi ngờ. Tình bạn không chỉ là nguồn động viên,
khích lệ, đỡ nâng và an ủi đắc lực khi hoạn nạn, mà còn phải can đảm uốn nắn
sửa daỵ, nhắc nhở nhau khi sai trái.
Phác
hoạ về tình bạn như thế chắc có người sẽ cho rằng chả ăn nhằm gì với trách vụ
của Bề trên. Nhưng nó thật sự rất cần cho vai trò của Bề Trên – Chị Giáo chúng
ta mai sau. Nếu Bề Trên- Chị Giáo không thể cúi xuống cùng đồng hành chia sẻ
với các em của mình thì e rằng nó chỉ giống như một cái khuôn ép buộc chứ không
có sự tự do tự nguyện trong đó. Vậy chúng ta phải làm gì cho các em theo mẫu
gương Giêsu, Người đã từng đóng vai là bạn của chúng ta. Để các em được sự tự
do thoải mái khi tiếp xúc, chia sẻ với Bề Trên –Chị Giáo, chúng ta phải hạ mình
để đồng hành với các em, đồng thời hãy quan tâm, hỏi han tới hoàn cảnh cụ thể
của từng em và khi có thể hãy đến thăm gia đình các em. Khi các em cần thời
gian, hãy sẵn sàng nhẫn nại, lắng nghe và giải đáp những khúc mắc trong đường
đời để giúp họ vươn lên. Điều đặc biệt nữa là biết xin lỗi khi mình sai, để các
em thấy được tinh thần khiêm tốn nơi chị và đó cũng là tấm gương giúp các em
biết nhận lỗi và dám chấp nhận những yếu đuối của mình.
c. Giêsu – Người không kết án
Đứng
trước người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình mà các biệt phái
Pharisêu kết án là phải chết, Chúa Giêsu chỉ im lặng với ngón tay khẽ viết trên
đất. Thái độ im lặng của Ngài không phải là đồng tình với tội phạm của chị ta,
nhưng là thái độ của lòng yêu thương tha thứ, nhờ đó mà chị đã hoàn toàn biến
đổi cuộc đời. Trong việc huấn luyện, là những Bề Trên và chị giáo tương lai,
chúng ta có suy nghĩ gì trước một hành vi sai lỗi của các em? Chắc hẳn mỗi
người chúng ta có một phương thế khác nhau để sửa sai lỗi đó mong các con nên
tốt. Là người trực tiếp hướng dẫn, chúng ta phải biết cách làm sao cho các em
thấy được lỗi của họ, cho họ thấy chúng ta sửa sai với yêu thương vỗ về chứ
không phải như vị quan toà chỉ biết vạch tội và kết án.
Đã
là con người, không ai lại muốn người ta làm cho mình những điều mình không
muốn. Vậy để đẹp cả đôi đàng, nếu chị không muốn người ta làm điều gì cho mình
thì chị cũng đừng làm điều đó cho các em.
Về
công việc: chắc chị rất buồn khi Bề Trên không trao cho chị công việc gì,
vì chị sẽ cảm thấy mình vô dụng và chán nản. Khi có công việc để làm, ứng sinh
sẽ rất chú tâm và phát triển khả năng trong công việc đó, và như thế họ có thể
sẽ trở thành nhà truyền giáo tốt của Giáo Hội và nhà Dòng sau này. Nếu chỉ nhìn
với vẻ bên ngoài để chọn người làm việc thì chị thất bại to. Tài năng của mỗi
người khi chưa được khai thác còn nằm im một chỗ; khi biết tin tưởng gợi hứng,
khả năng tiềm ẩn nơi con người mới được cơ hội triển nở. Tóm lại, chị không nên
để các em quá rảnh rỗi, trong khi các em khác lại quá vất vả, hãy tạo cho các
em có cơ hội để tập việc, hãy khích lệ và an ủi các em khi các em thất bại.
Về cách
ứng xử: Đừng bao giờ chị dùng quyền nóng nảy la rầy các em, làm như vậy sẽ
không còn là giáo dục nữa. Cũng không nên áp dụng trường hợp của em này với em
kia, càng không nên đem hai thế hệ lớn bé ra để so sánh vì mỗi thời mỗi khác.
Đặc biệt hơn nữa là, trong cách đối xử với các em, chị đừng tỏ ra yêu em này,
không thích em kia, không vội xét đoán và kết luận khi chưa có sự đối thoại của
đôi bên.
2. Khắc khoải chờ mong.
Khi quan sát tâm trạng của người trồng
cây ăn quả, hẳn chúng ta sẽ thấy được sự khao khát và thái độ vui sướng chừng nào
khi họ nhìn thấy vườn cây của họ đầy những trái to và đẹp. Đứng vào cương vị
của Bề Trên, Chị Giáo cũng thế, chúng ta hy sinh mọi phương diện để nuôi dưỡng,
huấn luyện các em và điều chúng ta mong ước nơi các em không gì khác hơn là chỉ
mong các em sống đúng với ơn gọi, tinh thần và linh đạo riêng của Dòng. Nhưng
để các em sống đúng là một “tu sĩ chất lượng cao” thì chúng ta cần chờ đợi gì
nơi các em? Có lẽ Bề Trên nào cũng mong ước các em có:
a. Tinh thần cầu nguyện
Cầu
nguyện là đỉnh cao của hành trình gặp gỡ Chúa và sống thân mật với Ngài. Đó
cũng là một thách đố đòi hy sinh, kiên trì và phải cố gắng không ngừng. Vì thế
để đứng vững và bền đỗ trong ơn gọi, các em cần có một đời sống cầu nguyện sâu
xa với Thiên Chúa. Cầu nguyện rất quan trọng và cần thiết cho tất cả mọi người,
không cầu nguyện đời sống chỉ hời hợt bên ngoài, và rất dễ chán nản khi gặp thử
thách, cách riêng đối với các em đang trong bước đầu của cuộc dâng hiến, nếu
các em không đào sâu và tập cho mình thói quen cầu nguyện thì khi gặp những
khủng hoảng trong cuộc sống, e rằng rất khó vượt qua để tiến lên.
Trong
lãnh vực hoạt động Tông đồ cũng thế, chúng ta không thể làm được gì nếu thiếu
lời cầu nguyện. Rồi trong cộng đoàn làm sao chúng ta có thể bỏ qua được những
xung đột khi thiếu cầu nguyện. Như vậy cầu nguyện không thể thiếu với tất cả
mọi người đặc biệt với các em đang sống trong mùa xuân của đời dâng hiến.
b. Trung thành với đặc sủng, linh
đạo và kỷ luật Dòng
Mỗi cha mẹ khi thấy con sinh ra giống mình
thì rất thích và hạnh phúc, thì các Bề Trên cũng rất vui khi thấy các em hăng
say đi trong linh đạo của Hội Dòng. Để trung thành với đặc sủng và linh đạo,
điều đòi hỏi trước tiên là các em phải mền mại để các Bề Trên đưa vào kỷ luật
Dòng, điều này không dễ chút nào đối với các em mới bước vào ngưỡng cửa đời tu,
vì trên thực tế ngày nay các em dễ nản chí, thoái lui khi phải đối diện với khó
khăn, đau khổ, không được dễ dàng và thoải mái. Cần giúp các em có ý chí dấn
thân phục Chúa trong con đường tu trì, vì ở bậc sống nào cũng đòi hỏi nơi con
người sự hy sinh. Nếu các em không chấp nhận đi vào, Dòng không ép các em đi
vào, còn nếu em đã quyết tâm thì phải sống đúng linh đạo của Dòng, tránh tình
trạng ở trong Dòng mà không biết đến đặc sủng linh đạo của Dòng là gì, càng
không được ở trong Dòng mà tinh thần kỷ luật bừa bãi, đã tu ra tu, đừng đứng
nửa chừng, Chúa sẽ mửa ra.
c. Tinh thần trách nhiệm trong công
việc
Trong đời sống cộng đoàn, tinh thần trách
nhiệm trong công việc rất cần thiết vì trong thực tế đời sống chung rất dễ có
sự ỷ lại, điều này đòi hỏi mỗi người phải sống trưởng thành, tự ý thức làm tròn
trách nhiệm. Nếu trong cộng đoàn có những người không có tinh thần trách nhiệm
sẽ rất khó cho Bề trên và chị em, vì mất cái này,vỡ cái kia mà không ai biết...
Người thiếu tinh thần trách nhiệm làm cho người khác khi làm việc với mình rất
bực và mình sẽ mất uy tín. Vì thế điều các Bề Trên – Chị Giáo mong muốn nơi các
em là ngay trong chính bản thân hãy có tinh thần trách nhiệm với mình, sau đó
mới hy vọng làm việc cho Giáo Hội và Hội Dòng.
d. Thật thà và đoan trang trong
cách ăn mặc
Để
cuộc sống được bình an, con người phải có lương tâm ngay thẳng thật thà. Ngày
nay, sự quanh co dối trá dường như là cần thiết để kiếm cớ sinh nhai! Ngay cả
trong đời tu, sự dối trá cũng đang dần len lỏi làm mất đi vẻ đẹp của đời tu.
Tại sao vậy ? Chỉ vì con người chưa dám chấp nhận sự thật về mình nên tìm mọi
cách để khẳng định mình, muốn nâng cao mình, nên đã lầm tưởng rằng mình phải là
con người hoàn hảo, chuẩn mực trong cách nói năng và hành xử, để người khác tín
nhiệm. Nhưng họ lại quên rằng, làm như vậy là đang làm mất đi chính mình. Nếu
trong cộng đoàn có những con người quanh co dối trá, thì cộng đoàn đó sẽ rất
bất an. Sự dối trá không thể chấp nhận với người bình thường, lại càng không
thể chấp nhận với một tu sĩ. Bề Trên cũng mong cuộc sống các em được bình an,
hạnh phúc và vui tươi. Nhờ đó, các em mới có thể an tâm, hăng say trên con
đường theo Chúa.
Điều
các Bề Trên mong chờ nơi các em nữa là trong cách ăn mặc, các em hãy tỏ ra đoan
trang và lịch sự, không nên quá đời,
điều này rất khó, cần các em phải từ bỏ và hy sinh nhiều. Để có thể từ bỏ được
thì chính các em, nhìn lại xem mình đi tu để làm gì, để phục vụ Chúa hay làm đẹp
bản thân, khi ý thức như thế em sẽ rất dễ dàng từ bỏ, nếu không các em sẽ tối
ngày lo may mốt này, đổi mốt nọ thì việc phục vụ Chúa sẽ không có kết quả.
Trên
đây là tất cả những gì các Bề Trên tương lai mong đợi nơi các em của mình.
Những điều đó không dễ, vì thực tế nó đang là một thách đố đối với thế hệ trẻ
ngày nay. Để các em có được những gì mà
các Bề Trên mong đợi, thì Bề Trên phải là một tấm gương, đồng thời là người
biết cách huấn luyện các em, nhưng điều cần thiết hơn là phải cầu nguyện nhiều
cho các em.
Bề
Trên mong muốn các em của mình chăm chỉ học hành và trau dồi khả năng vì sứ vụ
của Giáo Hội, của Hội Dòng; các em cũng cần học tập để có thể sống cùng sống
với anh chị em của mình. Nhưng cần ý thức rằng tất cả chỉ là phương tiện, chính
căn tính của đời tu và bản chất của ơn gọi Thánh Hiến là được ở trong Đức Kitô
và tham gia sứ vụ mang ơn Cứu Độ của Người đến cho mọi người. Khi việc học hành
có định hướng như thế, các em sẽ tìm được động lực giúp sống sung mãn ơn gọi,
thinh lặng và cầu nguyện để nhận biết ý Chúa và dấn thân làm chứng cho Chúa
vượt qua mọi thách đố của thời đại. Việc học hành và trau dồi khả năng của các
em chỉ có lợi khi các em biết đặt vào đúng vị chí của nó. Nếu các em học chỉ để
hơn người khá, để phục vụ cho mình thì các em đã làm mất đi mục đích đời tu. Vì
thế, để việc học hành của các em được dung hoà, đừng bao giờ để các em vì quá
hăng say, mà bỏ bê việc cầu nguyện. Các Bề Trên cũng không mong chờ nơi các em
chỉ biết học hành mà bỏ qua những gì một nữ tu phải trau dồi và tập luyện.
Những
điều chúng em đưa ra trên đây chỉ là những mong ước nho nhỏ được rút ra từ cuộc
sống qua những mối tương quan với Bề Trên mà chúng em thấy được nơi các ngài.
Tuy nhiên, chúng ta cũng đừng quá đòi hỏi nơi các Bề Trên của mình sự hoàn hảo
,vì các ngài cũng chỉ là con người như chúng ta, cũng có những khuyết điểm, yếu
đuối. Nhưng các Ngài đã được Chúa chọn để huấn luyện chúng ta. Vì thế, khi
chúng ta đến xin điều này điều kia mà các Ngài không cho, chúng ta lại cho là
các ngài khắt khe, không tâm lý, chúng ta chỉ nghĩ đến lợi ích trước mắt, mà
quên rằng các ngài phải thi hành thánh ý Chúa. Con người của chúng ta là thế,
chỉ thích theo những gì là tự nhiên, và hợp với sở thích của mình, mà không
nghĩ đến khó khăn trắc trở của Bề Trên khi thi hành nhiệm vụ, nên đôi lúc chúng
ta đánh gía các ngài quá tầm thường và tỏ ra thiếu tôn trọng. Mỗi người chúng
ta cần thông cảm và tỏ ra ngoan ngoãn khi các ngài trao nhiệm vụ, như thế phần
nào sẽ bớt cho các ngài gánh nặng. Chỉ khi nào chúng ta đặt địa vị mình vào địa
vị của Bê Trên, lúc đó chúng ta mới thấy được sự khó khăn của các ngài khi thi
hành nhiệm vụ.
KẾt luẬn
Là
Bề Trên và Chị Giáo tương lai, hay chỉ là bề dưới đi nữa, chúng ta cần nung nấu
trong trái tim mình hình ảnh phục vụ của Chúa Giêsu, rũ bỏ đi những dính bén
trần tục và đẩy lùi những bụi hồng của địa vị, danh vọng để chỉ tìm kiếm và
viên mãn chỗ đứng phục vụ của mình như người “đầy tớ Giêsu”. Có như vậy, chúng
ta mới có được sự tự do và niềm vui đích thực trong khi xả thân phục vụ các em
và những người dưới quyền coi sóc của mình, niềm vui trong câu ca, trong nụ
cười, niềm vui trong công việc, trong những hy sinh vất vả, và nhất là niềm vui
trong những công việc nội tâm.
Kính thưa Cha Giáo, chúng con rất biết ơn
Cha Giáo đã cho chúng con ngồi lại chia sẻ và cùng nhau đưa ra những định hướng
sẽ làm, không làm, trông chờ và không chờ điều gì nơi các em trong chức vụ Bề
Trên/Chị Giáo tương lai, nhờ đó và qua những tiếp xúc hằng ngày với Bề Trên của
chúng con, chúng con có thêm kinh nghiệm để thâu nạp. Chúng con cũng ước mong được
Cha Giáo tiếp tục hướng dẫn và trau dồi cho chúng con những kinh nghiệm từ cuộc
sống, để làm hành trang cho chúng con, và sau này khi được Chúa yêu thương tín
nhiệm trao ban chức vụ Bề Trên/Chị Giáo, chúng con sẵn sàng đáp lại hai tiếng
xin vâng.
[1] x. 2 Cr 1,3-5: Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an.4 Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó.5 Vì cũng như chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của Đức Ki-tô, thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi.
[2] 2 Cr 4,13: “Vì có được cùng một lòng tin, như đã chép: Tôi đã tin, nên tôi mới nói, thì chúng tôi cũng tin, nên chúng tôi mới nói.”
2 2 Cr 4,7: “Nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại
chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ
Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi.”
[4] Xem loạt bài về Giáo dục Kitô giáo của Lm Giuse Nguyễn Chấn Hưng sdb trong vài nét Chân dung Nhà đào tạo tr. 113-167.
[5] x. Tài liệu về Lãnh Đạo của sư huynh Nguyễn văn Phát.
[6] Xem bài Một vài kinh nghiệm huấn luyện tu sĩ trẻ hôm nay của Lm Antôn
Nguyễn Cao Siêu SJ trong Vài nét Chân
dung Nhà đào tạo tr. 101-112.
[7] CAN July 29, 2009 ĐTC Biển Đức XVI nói về biến cố ngài ngã gãy khuỷu
tay phải rằng thiên thần giữ mình của ngài vâng lệnh trên không tránh cho ngài
tai nạn này. Có lẽ Chúa muốn dạy ngài nhẫn nại và khiêm tốn, cho ngài có nhiều
thời giờ hơn để cầu nguyện và suy niệm.
[8] “Đức mến thì nhẫn
nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều
bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng
khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả,
tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất
được” (1 Cor 13,4-7)
[9] Archbishop Celestino
Migliore, Vatican 6/2/2009: “Luận lý của tình liên đới và nguyên lý bổ trợ là
dụng cụ rất thích hợp để vượt lên mọi vấn đề và bảo đảm sự tham gia của mọi
người cho công cuộc phát triển chung của cộng đồng”; JP II, Centesimus Annus,
số 48 : «Nếu tôn trọng nguyên lý bổ trợ, tổ chức cấp trên không được can
thiệp vào cuộc sống nội bộ của tổ chức cấp dưới bằng cách lấy đi những khả năng
chuyên môn của nó, đúng hơn phải nâng đỡ nó khi cần thiết»
[10] Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss, Bản thảo Người Nữ Tu Sống Tu Đức Toàn
Diện, Học viện Liên Dòng, Bùi Chu 2009.
[11] Cvtđ 25, 16: “Tôi đã trả lời họ rằng người Rô-ma không có lệ nộp bị cáo nào, trước khi đương sự ra đối chất với nguyên cáo, và được cơ hội biện hộ về lời tố cáo.”
[12] Archbishop Celestino Migliore, Vatican 6/2/2009: “Luận lý của tình liên đới và nguyên lý bổ trợ là dụng cụ rất thích hợp để vượt lên mọi vấn đề và bảo đảm sự tham gia của mọi người cho công cuộc phát triển chung của cộng đồng”; JP II, Centesimus Annus, số 48 : «Nếu tôn trọng nguyên lý bổ trợ, tổ chức cấp trên không được can thiệp vào cuộc sống nội bộ của tổ chức cấp dưới bằng cách lấy đi những khả năng chuyên môn của nó, đúng hơn phải nâng đỡ nó khi cần thiết»
[13] x. Đào tạo các nhà đào tạo của lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss.
[14] Rm 7, 14-20: Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí,
nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi
làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi
ghét, thì tôi lại cứ làm… Thật vậy, muốn
sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi
không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi
không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở
trong tôi.
[15] Vatican II, Optatam
Totius, số 4.
[16] Mt 18, 15-17; Lc 17,3; Ga 8,17; 1 Tm 5,19; 2 Cr
13,1.