Huấn thị về cầu nguyện xin chữa lành bệnh
(congdiao.info) 7/8/2012
6:40:38 PM – Tác vụ chữa lành bệnh đã đóng một vai trò quá quan trọng trong
cuộc đời Chúa Giêsu nên không thể nào các môn đệ Ngài lại không tiếp thực hiện
việc làm của lòng nhân hậu Ngài cũng như việc Ngài phục hoạt sức khỏe thân xác
hoặc tinh thần cho người ta.
|
|
Lời người dịch
Cầu nguyện xin chữa
lành bệnh, kêu cầu Chúa Thánh Thần ban ơn đoàn sủng (có người dịch là đặc sủng)
để người bệnh được chữa lành, đây là trào lưu đã được một số người công giáo
háo hức đi theo, nhưng cũng làm cho nhiều tín hữu (kể cả các giám mục) e ngại.
Người theo thì cho rằng tham gia trào lưu cầu nguyện như thế sẽ
mang lại hứng khởi cho việc sống đạo; hơn thế nữa, đây là một thể nghiệm đức
tin mà kitô-hữu vào thời sơ khai của giáo hội đã kinh qua. Người đặt thành vấn
đề thì cho rằng sư kiện này phát sinh do một trào lưu văn hóa tôn giáo nhất thời
lẫn lộn ân sủng cuộc sống siêu nhiên với những xung động
tâm lý. Nói cách khác, nhân danh lòng sùng đạo, người ta biến cuộc sống đức tin
kitô giáo thành một hình thức ma thuật. Hơn thế nữa, việc tổ chức những nhóm cầu
nguyện sinh hoạt bên ngoài và bên trên sinh hoạt mục vụ chung
dưới sự chăn dắt của giáo hội qua các giám mục sở tại, tư nó đã là một dấu chỉ
tiêu cực.
Trước thục trạng này,
tháng 9 năm 2000.Thánh Bộ Tín Lý đã chính thức lên tiếng qua Huấn thị về cầu
nguyện chữa lành bệnh.
Trước khi đi vào bản
văn, chúng tôi xin giới thiệu một đoạn dẫn nhập của hồng y Suenens qua cơ sở
FIAT do ngài sáng lập.
Nguyễn Đăng Trúc
Reichstett, Pháp, tháng
07 năm 2012
Dẫn nhập
Lời nhà xuất bản FIAT
Hồng y Suenens không bao giờ viết một tài liệu nào đặc loại
để nói đến đoàn sủng chữa lành bệnh. Nhưng trong cuốn Một lễ Hiện
Xuống mới?, ngài kêu gọi chúng ta tăng cường đức tin để
đón nhận tất cả những ơn của Thánh Thần, kể cả đoàn sủng chữa lành bệnh. Đồng
thời Đức hồng y cũng nhắc lại tầm quan trọng của sự suy xét và việc cần thiết
phải có các hướng dẫn mục vụ, vì việc đó liên quan đến
sự chân thật và đáng tin của Canh tân ‘trong Thánh Thần’. Ngài còn viết: “Các
giám mục là người hướng dẫn tinh thần của dân Chúa cần phải gần với dân Ngài, đặc
biệt trong các vấn đề tế nhị này, để tránh những sai lệch và hao sức vô ích.”
Bản
phụ đính này góp lại nhiều tài liệu có thể giúp làm căn bản cho ai muốn hiểu về
đoàn sủng chữa lành bệnh. Có nhiều bản văn trích dẫn; trước hết từ cuốn Một lễ
Hiện Xuống mới?, tiếp đó là Hiến Chế Lumen Gentium cũng như Giáo Lý Công Giáo,
và cuối cùng là toàn bản văn Huấn thị về cầu nguyện để xin chữa lành bệnh, được
Thánh Bộ Tín Lý phổ biến vào tháng 9 năm 2000.
Hội
đồng giáo hoàng về giáo dân đã tổ chức một cuộc thảo luận về ‘cầu nguyện xin chữa
lành bệnh và Canh tân đoàn sủng trong Giáo hội công giáo’ từ ngày 10 đến ngày
13 tháng 11 năm 2001.
Đức
Cha T. Bertone, Tổng thư ký của Thánh bộ Tín Lý đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng
của tài liệu Huấn thị về cầu nguyện xin chữa lành bệnh, tổng kết lại những lối
cầu nguyện hiện nay trong truyền thống của Giáo hội. Hồng y John Francis
Strafford, chủ tịch Hội đồng giáo hoàng về giáo dân tuyên bố: “Lối tiếp cận về
việc cầu nguyện xin chữa lành bệnh qua cái nhìn tín lý, lịch sử, linh đạo và
giáo luật, rất là tích cực.” Hội đồng giáo hoàng về giáo dân cho rằng một trong
những kết quả của cuộc thảo luận này về lâu dài sẽ là ‘việc mở vòng trói buộc’
để chân nhận những đoàn sủng của các cộng đoàn mới và việc đưa họ hội nhập vào
sinh hoạt mục vụ giáo xứ.
Điểm
cuối này hoàn toàn đi liền với ước vọng của hồng y Suenens: “Ước gì Canh tân
trong Thánh Thần không phải là một phong trào trong Giáo hội, nhưng là Giáo hội
đang chuyển mình".
Trích
dẫn
1. Từ cuốn ‘Một lễ Hiện
Xuống mới?’
“Tác
vụ chữa lành bệnh đã đóng một vai trò quá quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu
nên không thể nào các môn đệ Ngài lại không tiếp thực hiện việc làm của lòng
nhân hậu Ngài cũng như việc Ngài phục hoạt sức khỏe thân xác hoặc tinh thần cho
người ta. Để có thể giúp Ngài tiếp tục hành động như xưa Ngài đã làm, Ngài yêu
cầu chúng ta có một đức tin chờ đón và tin tưởng, như đức tin của phụ nữ đã đụng
đến áo Ngài và được chữa lành nhờ một sức mạnh phát ra từ nơi Ngài.
Chúng
ta cần phải canh tân lòng tin tưởng này của chúng ta vào quyền năng của Chúa, để
Ngài phục vụ người bệnh qua lời cầu nguyện của chúng ta. Chúng ta đừng sợ phải
noi theo gương đức tin sống động như thế nơi anh chị
em Tinh lành. Ngoài ra chúng ta thấy nơi Giáo hội công giáo,
việc cầu nguyện tập thể cho người bệnh được hồi sinh trong các môi trường chịu ảnh
hưởng của Canh tân đoàn sủng. Tôi xét lại lối cư xử của tôi đối vơi những
người bệnh mà tôi có dịp thăm viếng, khi tôi thấy nhiều kitô hữu qui tụ bên giường
một bệnh nhân, cùng cầu nguyện cho người ấy một cách hồn nhiên, đặt tay lên người
bệnh như cử chỉ mà Chúa Giêsu đã làm trong Phúc Âm, và diễn tả mối hiệp thông
Kitô giáo chung quanh người đang đau yếu.
Chúng
ta không dám tin vào Đấng đang ngự trong chúng ta, nghĩa là tin vào Chúa Kitô sống
và hoạt động nơi chúng ta. Chúng ta không dám tin vào lời cầu nguyện có thể
mang lại cả phép lạ.
Lời
cầu nguyện của chúng ta phải gắn liền với toàn bộ phức tạp của hoàn cảnh: Có đủ
thứ bệnh, hữu hình và vô hình, thân xác, tâm lý, bệnh lý, qua những vết thương
sâu kín và xa xưa. Lời cầu xin của chúng ta phải ôm hết trọn bộ những gì cần chữa
lành; nó cần đưa cả cuộc sống con người đang khổ đau, hiện tại cũng như quá khứ
vào ánh sánh ân sủng của Thiên Chúa. Phải nhớ là Đức Giêsu hôm qua cũng là Đức Giêsu hôm nay, Ngài là
Chúa của quá khứ và của hiện tại. Nếu phép lạ chữa lành tức khắc và ngoạn
mục rất họa hiếm, thì việc chữa lành từ từ và chậm cũng do tác động của Chúa. Lời
cầu nguyện không đi ngược lại y lý con người, nhưng ở bên trong y lý.
Chúng ta đừng quên là Thánh Thần chính là sự xức dầu sống động
và là sức mạnh Thiên Chúa; Chúa Giêsu tiếp tục công cuộc của mình qua Thánh Thần
ấy.”
2. Các trích dẫn lấy từ
các tài liệu Công đồng Vaticanô II
Công
đồng có một thái độ đón nhận và cởi mở đối với các đoàn sủng qua một đoạn văn rất
cân bằng, vừa thận trọng vừa nhìn nhận tầm quan trọng của chúng trong hoàn cảnh
hiện nay.
Công đồng lưu ý chúng ta về các đoàn sủng; và nhân đề cập đến
sự kiện này đã mời gọi dân Chúa ý thức hơn nữa về sự hiện diện thường trực và
năng động của Thánh Thần trong Giáo hội.
Ở số
12 của Hiến chế ta đọc thấy: “Hơn nữa, cũng chính Thánh Thần ấy, không chỉ
thánh hoá và hướng dẫn dân Chúa bằng các bí tích, các chức vụ, và trang điểm họ
bằng các nhân đức, nhưng Ngài còn ban phát các ân sủng đặc biệt cho mọi cấp bậc
tín hữu “phân chia ân huệ cho mỗi người theo ý Ngài” (1 Cr 12,11), khiến người
lãnh nhận các ân sủng ấy có đủ khả năng và sẵn lòng đảm nhận các công việc và
nhiệm vụ khác nhau mưu ích cho việc canh tân, xây dựng và phát triển Giáo hội
như lời chép rằng: “Thánh Thần hiển hiện trong mỗi người hầu mang lại lợi ích”
(1 Cr 12,7). Phải lãnh nhận những đoàn sủng này, từ các ơn chói lọi nhất đến
các ơn thường mà nhiều người lãnh được, với lòng tri ân
và yên ủi vì các ơn đó mang ích lợi và phù hợp với nhu cầu của Giáo hội. Nhưng không nên liều lĩnh kêu nài những ơn đặc biệt, và cũng đừng
vì đó mà tự đắc mong rằng việc tông đồ sinh kết quả. Những vị thủ lãnh
trong Giáo hội có thẩm quyền phán quyết về tính cách chân chính và sự sử dụng hợp
lý các ơn lạ ấy; các ngài có nhiệm vụ đặc biệt phải khảo sát tất cả, không phải
để dập tắt Thánh Thần, nhưng để giữ lại những điều thiện hảo (x. 1 Th 5,12 và
19-21).”
Cũng
một giáo lý đó trong Sắc lệnh về Tông đồ giáo dân, số 3: “Để thể hiện việc tông
đồ này, Thánh Thần thánh hóa dân Chúa qua giáo vụ và các bí tích. Ngài cũng ban
cho các tín hữu những ơn đặc biệt (x. 1 Cr 12,7),
“phân phát những ơn đó cho mọi người tùy ý Ngài” (1 Cr 12,11) để mỗi người tùy
theo ơn đã nhận mà giúp đỡ nhau” và “chính họ trở nên như những người quản lý
trung tín giữ mọi thứ ơn của Thiên Chúa” (1 Pr 4,10) hầu xây dựng toàn thân
trong đức ái (x. Ep 4,16). Do sự đón nhận những đoàn sủng này dầu là những đoàn
sủng thông thường, mỗi tín hữu có quyền lợi và bổn phận sử dụng những ơn đó
trong Giáo hội cũng như giữa trần gian để mưu ích cho mọi người và xây dựng
Giáo hội trong tự do của Thánh Thần, Đấng “muốn thổi đâu thì thổi” (Ga 3,8) và đồng thời sử dụng trong sự hiệp thông với anh em
trong Chúa Kitô, nhất là với các vị chủ chăn của mình. Chính các ngài có nhiệm
vụ xét đoán về bản tính đích thực và việc sử dụng thích hợp những đoàn sủng đó,
không phải để dập tắt Thánh Thần, nhưng để thử nghiệm mọi việc và điều nào tốt
thì giữ lấy (x. 1 Th 5,12; 19-21).”
3. Trong cuốn Giáo lý
Công giáo
Cuốn
Giáo lý Công giáo diễn tả rõ ràng bằng cách nào các đoàn sủng của mỗi người
đóng góp vào việc xây dựng Giáo hội là Thân thể Chúa
Kitô:
“Các đoàn sủng phải được người được hưởng cũng như tất cả
các thành phần Giáo hội đón nhận với lòng biết ơn. Thật
thế, chúng là nguồn ân sủng mang lại sinh lực tông đồ và thánh hóa toàn Thân thể
Chúa Kitô; nhưng chúng phải thực sự là những ơn được Thánh Thần gửi đến và được
thực thi một cách hoàn toàn thích ứng với những thúc đẩy chân thực của chính
Thánh Thần, nghĩa là thể theo đức ái, vốn là thước đo mọi đoàn sủng. (x. 1 Cr
13)
Chính trong ý nghĩa đó mà cần phải luôn luôn suy xét các
đoàn sủng. Không một đoàn sủng nào được chuẩn
khỏi phải qui chiếu và tuân phục các vị mục tử của Giáo hội. ‘Họ đặc biệt
cần thử nghiệm tất cả, không phải để dập tắt Thánh Thần, nhưng giữ lại nhưng gì
thiện hảo’ (Lumen Gentium số 12), hầu tất cả các đoàn sủng trong nét đa biệt và
bổ túc của mình sẽ hợp tác xây dựng ‘công ích’ (1 Cr 12,7).
Thánh Thần ban cho một ít người đoàn sủng
đặc biệt chữa lành bệnh tật nhằm thể hiện ơn huệ của Chúa Phục Sinh. Nhưng, dẫu có cầu nguyện thật sốt sắng cũng không làm cho mọi bệnh
tật biến đi. Vì thế mà thánh Phaolô lấy lời Chúa dạy để nhắc chúng ta rằng:
‘ Ơn huệ của Ta đủ cho ngươi: vì sức mạnh của Ta thể
hiện ra trong sự yếu hèn’ (2 Cr 12,9), và những khổ đau đang gánh chịu phải được
hiểu là ‘tôi hoàn thành nơi thể xác tôi những gì còn thiếu nơi những thử thách
của Chúa Kitô cho Thân thể Ngài là Giáo hội’ (Cl 1,24).”