Nhân ngày Năm Thánh
cho các thừa tác viên
Tìm Hiểu về Các
Thừa Tác Vụ
Đàlạt 10/10/2010
Lịch cử hành Ngày Năm Thánh cho các thừa tác viên trong
Giáo phận được ghi vào ngày kính Chân phước Giáo hoàng Gioan XXIII, nhưng hôm
nay chúng ta quy tụ tại nhà thờ Chính tòa để tiện cho việc tham dự đông đảo các
thành phần là độc viên hay người trao Mình Thánh Chúa. Xin chân thành các ơn
các sơ, các cụ và anh chị em đã nhiệt tình hưởng ứng, để cùng đào sâu và hiểu
hơn công việc phục vụ của chúng ta.
Với danh xưng "thừa
tác viên", chúng ta chỉ dừng lại trong các hành động phụng vụ và gợi lại
mốc thời gian cách đây vừa tròn 40 năm : Sách lễ Rôma mới được canh tân theo
nghị quyết của Công Đồng Vatican II do Đức Thánh Cha Phaolô VI công bố, ấn bản
mẫu lần I phát hành vào lễ Tiệc Ly 26/3/1970 thay cho Sách Lễ của Thánh giáo
hoàng Piô V được dùng trong suốt 400 năm (từ 1570, sau Công Đồng Trentô).
Điểm lại rất vắn tắt về Công Đồng Vatican II, chúng ta
biết đây là Công Đồng rất gần gũi với chúng ta và giáo huấn của Công Đồng vẫn còn
rất hợp thời, cần được đào sâu. Vào những thời điểm quan trọng, chính cố Giáo
hoàng Gioan-Phaolô II và đấng kế nhiệm là Đức đương kim Giáo hoàng đều nhấn
mạnh đến việc trung thành với giáo huấn phong phú của Công Đồng.[1]
Được khởi xướng từ sáng kiến của Chân phước Giáo hoàng
Gioan XXIII ngày 25/01/1959, Công Đồng Vatican II đã khai mạc vào ngày 11/10/1962
(lễ kính Mẹ Thiên Chúa) và kết thúc dưới triều Giáo hoàng Phaolô VI vào lễ Đức
Mẹ Vô Nhiễm 08/12/1965, qua 4 khóa họp thường vào khoảng thời gian từ giữa tháng
9 đến đầu tháng 12 (khóa I. từ 11/10 – 08/12/1962 ; khóa II. từ 29/9 –
04/12/1963 ; khóa III. từ 14/09 – 21/11/1964 ; khóa IV. từ 14/09 – 08/12/1965).
Thành quả Công Đồng là 16 văn kiện (4 hiến chế Phụng vụ thánh, tín lý về Giáo
Hội, tín lý về Mạc Khải, mục vụ về Giáo Hội trong thế giới hôm nay ; 9 sắc lệnh về các phương tiện Truyền thông, các Giáo Hội Đông phương, Hiệp nhất,
nhiệm vụ mục vụ của các Giám mục,
Canh tân thích nghi dòng tu, Đào tạo linh mục, Tông đồ giáo dân, Hoạt động
truyền giáo, Chức vụ và đời sống linh
mục ; và 3 tuyên ngôn về Giáo dục
Kitô-giáo, Liên lạc với các tôn giáo
ngoài Kitô-giáo và Tự do tôn giáo).
Kết thúc Công Đồng, một luồng gió mới đã thổi vào trong
mọi sinh hoạt của Hội Thánh, đặc biệt trong chính sự sống của dân Chúa là đời
sống phụng tự. Văn kiện đầu tiên của Công Đồng là hiến chế về Phụng vụ thánh
ngày 04/12/1963 mở ra việc canh tân phụng vụ cách toàn diện trên nền tảng "gìn giữ những điều cũ tức là kho tàng
truyền thống cũng như chu toàn bôn phận xem xét và khôn ngoan sử dụng những
điều mới" (QCTQ/SLR 15).
Hôm nay, đến tham dự cử hành Thánh Thể, mọi người đều được
mời gọi mang lấy hai tâm tình căn bản được đề ra từ hiến chế về Phụng vụ thánh
: "Mẹ Giáo Hội tha thiết ước mong
toàn thể các tín hữu được hướng dẫn tham dự các cử hành phụng vụ cách trọn vẹn,
ý thức và linh động" (PV 14 ; 11).[2]
"Là thừa tác viên hay là tín hữu,
trong các cử hành phụng vụ, mỗi người khi chu toàn phận vụ, chỉ thi hành trọn
những gì thuộc lãnh vực mình, tùy theo bản chất sự việc và những quy tắc phụng vụ"
(PV 28).[3]
Với định hướng rõ rệt như thế, chúng ta đã quá quen thuộc với thánh lễ gồm hai
phần chính là phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể, được cử hành bằng ngôn
ngữ bản quốc, tham dự cụ thể vào vào hai phần thánh lễ, được công bố Lời Chúa
và phụ giúp vào bàn thờ...
Nhưng điểm lại gần 50 năm trước, những ai lớn tuổi một
chút hẳn còn nhớ lại thánh lễ cử hành bằng ngôn ngữ duy nhất là tiếng la tinh, rồi
bàn thờ được đặt sát tường nhà thờ, tất cả mọi người đều quay lên, cung thánh
được hàng rào bao quanh, lên rước lễ tại bao lơn với khăn phủ... và dường như
chỉ mình chủ tế làm tất cả, từ việc đọc sách thánh (bởi bài đọc bằng tiếng la
tinh, cũng rất ngắn và không phân biệt năm A, năm B, năm C). Sau khi công bố hiến
chế về Phụng vụ thánh, phần thường lễ được cử hành bằng ngôn ngữ địa phương.
Nhưng phải đợi đến khi phát hành Sách lễ Rôma mới năm 1970 thì mới bắt đầu có
việc canh tân phụng vụ hoàn toàn, và tiếc thay cũng có một nhóm nhỏ (Huynh đoàn
Piô X) còn hoài cổ chỉ cử hành lễ bằng tiếng la tinh do Đức cha Marcel Lefèbre đứng
đầu, đưa tới mối bất hòa trong Hội Thánh.[4]
Mở đầu Sách lễ có phần Quy chế tổng quát, trong đó nói
đến những thừa tác vụ riêng biệt. Đặc biệt số 70 ghi nhận : "Dù không lãnh tác vụ, nam giáo dân cũng
có thể thi hành tất cả các phần việc thấp hơn các tác vụi thuộc riêng thầy phó
tế. Tất cả các tác vụ thi hành ở ngoài cung thánh cũng có thể trao cho phụ nữ,
tùy sự xét đoán khôn ngoan của vị quản thủ thánh đường. Tuy nhiên, Hội đồng Giám
mục có thể cho phép phụ nữ có tư cách được đọc các bài đọc trước bài Tin Mừng,
và có thể xướng các ý nguyện của lời nguyện cho mọi người ; Hội đồng Giám mục
có thể xác định thêm về chỗ thích hợp để người đó công bố Lời Chúa giữa cộng
đoàn phụng vụ".
Đến đây, chúng ta cùng tìm hiểu và ý thức rõ ràng về phẩm giá kitô-hữu của
chúng ta, rồi xác định một vài danh từ liên hệ.
Là kitô-hữu, qua bí tích Rửa tội đã lãnh nhận, con người
"được tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô, vào sứ vụ tiên tri và vương đế
của Người, họ là giống nòi được Thiên Chúa tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả,
là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Ngài,
Đấng đã gọi ... (họ) ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền (1Pr
2,9). Bí tích Rửa tội cho họ tham dự vào chức tư tế cộng đồng của các tín hữu"
(GLHTCG 1268).
Nhưng "mọi chi thể không có cùng một chức năng. Một
số chi thể đã được Thiên Chúa kêu gọi trong và qua Hội Thánh, để đặc biệt phục
vụ cộng đoàn. Những thừa tác viên này được tuyển chọn và được thánh hiến nhờ bí
tích Truyền Chức Thánh, qua đó Chúa Thánh Thần làm cho họ có khả năng hành động
trong cương vị của Đức Kitô là Đầu (in persona Christi Capitis) để phục vụ mọi
chi thể của Hội Thánh" (GLHTCG 1142).
"Chức tư tế thừa tác hay phẩm trật của các Giám mục
và linh mục, và chức tư tế cộng đồng của tất cả các tín hữu, mỗi chức theo cách
của mình, tham dự vào chức tư tế duy nhất của Đức Kitô, tuy khác nhau về bản
chất, nhưng cả hai tùy thuộc lẫn nhau. Theo nghĩa nào ? – Chức tư tế cộng đồng
của các tín hữu được thực hiện qua việc làm tăng triển ân sủng Phép Rửa, đời
sống tin-cậy-mến, đời sống thao Chúa Thánh Thần ; còn chức tư tế thừa tác là để
phục vụ chức tư tế cộng đồng, giúp làm tăng trưởng ân sủng Phép Rửa của mọi
kitô-hữu..." (GLHTCG 1547).
Thánh Augustinô có một câu rất thời danh để nói về khác
biệt của hai chức tư tế : "Cho anh em, tôi là Giám mục ; cùng với anh em,
tôi là kitô-hữu. Danh hiệu đầu là do chức vụ, anh hiệu sau là do ân sủng ; danh
hiệu đầu là một nguy cơ, danh hiệu sau dẫn đến ơn cứu độ".
Một danh xưng nay đã trở nên quen thuộc với chúng ta
là "thừa tác viên", phát xuất từ một "thừa tác vụ" gắn liền
với nhiệm vụ thuộc những người có Chức Thánh. Nay chúng ta thấy bí tích Truyền Chức
Thánh chỉ bao gồm ba cấp : Giám mục, linh mục và phó tế ; nhưng trước ngày 15/8/1972
là ngày Đức Giáo hoàng Phaolô VI ban hành Tông thư dưới hình thức Tự sắc Ministeria quaedam về việc sửa đổi các
chức trước chức phó tế,[5]
người ta còn thấy các chức được gọi là chức nhỏ gồm : Giữ cửa, Đọc sách, Trừ tà, Giúp lễ và Phụ phó tế. Từ
đây liên quan đến những người được gọi lên chức thánh chỉ còn hai tác vụ Đọc sách và Giúp lễ.
Để làm sáng tỏ hơn về sự duy nhất trong sứ vụ của Giáo
Hội mà tất cả các tín hữu được kêu mời tham gia qua bí tích Rửa tội và sự khác biệt
chính yếu của các chủ chăn do bí tích Truyền chức thánh, chúng ta nên đọc lại
Tông huấn Kitô-hữu giáo dân của Đức
Gioan-Phaolô II ngày 30/12/1988,[6]
cũng như Huấn thị của Bộ Giáo sĩ và liên bộ về sự cộng tác của các tín hữu giáo
dân với thừa tác vụ các linh mục, ngày 15/8/1997.[7]
Là người phục vụ cung thánh, khi bước vào cử hành, ước mong mỗi người mang
lấy tâm tình tạ ơn vì được chọn làm người "hầu cận trước tôn nhan và phụng
sự Chúa" (KNTT II). Tâm tình thứ hai là chuẩn bị cho mình xứng đáng thi
hành nhiệm vụ bằng thái độ khiêm tốn của người phục vụ, đồng thời cũng bằng cử
chỉ và điệu bộ thích hợp. Điều này diễn tả một tâm tình “mặc lấy Chúa Kitô” (Rm
13,14).
QCTQ/SLR 339
về phẩm phục ; 101 cho độc viên : "Họ phải là những người có khả năng thi hành nhiệm vụ
này và được chuẩn bị kỹ lưỡng để, khi nghe đọc Sách Thánh, các tín hữu cảm nghiệm
được trong lòng sự ngọt ngào và sức sống của Sách Thánh" ; hay 102 cho ca viên : "người hát thánh vịnh cần có nghệ thuật đọc thánh vịnh,
có khả năng phát âm và đọc cho đúng" .
RS 146tt ; 158-159 về thừa tác viên ngoại lệ cho rước lễ.
Lưu ý “Mọi tín hữu, theo họ chọn,
luôn liôn có quyền rước lễ bằng miệng. Nếu người rước lễ muốn nhận Thánh Thể
bằng tay, trong những miền mà HĐGM cho phép,
với sự xác nhận của Tông Tòa, có thể ban Mình Thánh cho họ. Nhưng trong trường hợp này, phải chăm chú theo
dõi MTC được người rước lễ rước bánh thánh ngay trước mặt thừa tác viên, tránh
không để một ai cầm MTC trong tay mà đi ra khỏi đó. Nếu có nguy cơ xúc phạm,
không được cho tín hữu rước lễ bằng tay” (RS 92).
BÀI ĐỌC THÊM
THỰC HÀNH CHỨC NĂNG
III. NHỮNG THỪA TÁC VỤ RIÊNG BIỆT
Thừa tác vụ của thầy Giúp lễ và Đọc sách
QCTQ/SLR 2000 98.
Thầy giúp lễ lãnh tác vụ để
phục vụ bàn thờ, giúp linh mục và phó tế. Công việc chính của thầy là chuẩn bị
bàn thờ và các bình thánh ; nếu cần, thầy còn là thừa tác viên ngoại lệ cho tín
hữu rước lễ [x. Giáo luật, điều
910 §2 ; Huấn thị liên bộ về một số vấn đề liên quan tới việc giáo dân cộng tác
vào sứ vụ của các linh mục, Về mầu nhiệm
Hội Thánh (Ecclesiae de Mysterio), ngày 15.08.1997, số 8 : AAS 89
(1997), tr. 871].
Trong khi phục vụ bàn thờ, thầy giúp lễ có những phận vụ riêng phải thi
hành (x. số 187-193).
99. Thầy đọc sách lãnh tác vụ
để đọc các bài đọc Thánh Kinh, trừ bài Tin Mừng. Thầy cũng có thể xướng các ý nguyện
của lời nguyện chung, và, khi không có người hát thánh vịnh, thầy cũng có thể
đọc thánh vịnh giữa các bài đọc.
Trong khi cử hành Thánh Thể, thầy đọc sách có phận vụ riêng (x. số 194-198), mà thầy phải đích thân thi hành.
100. Khi không có thầy giúp lễ
đã lãnh nhận tác vụ, để phục vụ bàn thờ và giúp linh mục và phó tế, có thể cử những
thừa tác viên giáo dân mang thánh giá, đèn nến, bình hương, bánh, rượu, nước,
và cũng có thể được cử làm thừa tác viên ngoại lệ trao Mình Thánh Chúa [x. THÁNH BỘ PHỤNG TỰ VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Huấn thị
Đức ái bao la (Immensae Caritati),,
ngày 29.01.1973, số 1 : AAS 65 (1973), tr. 265-266].
101. Khi không có thầy đọc sách
đã lãnh nhận tác vụ, thì có thể cử những giáo dân khác để đọc Sách Thánh. Họ
phải là những người có khả năng thi hành nhiệm vụ này và được chuẩn bị kỹ lưỡng
để, khi nghe đọc Sách Thánh, các tín hữu cảm nghiệm được trong lòng sự ngọt
ngào và sức sống của Sách Thánh [ x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế về Phụng
vụ thánh, Sacrosanctum Concilium, số 24].
102. Người hát thánh vịnh có nhiệm
vụ đọc hoặc hát thánh vịnh hay ca khúc Thánh Kinh, xen vào giữa các bài đọc. Để
chu toàn phần việc của mình, người hát thánh vịnh cần có nghệ thuật đọc thánh
vịnh, có khả năng phát âm và đọc cho đúng.
103. Trong hàng tín hữu, ca đoàn có phận vụ của họ trong phụng vụ, họ phải
lo chu toàn cách thích đáng các phận vụ riêng của mình, tùy theo các loại ca
khúc khác nhau ; họ lại phải lo giúp tín hữu tham dự cách linh động vào việc ca
hát [x. THÁNH BỘ NGHI LỄ, Huấn thị Musicam
Sacram, ngày 05.03.1967, số 19 : AAS 59 (1967), tr. 306]. Những điều nói về ca đoàn
cũng có giá trị đối với các nhạc công khác, nhất là đối với người sử dụng phong
cầm, trừ những gì phải giữ riêng.
104. Nên có ca viên hay ca trưởng
để điều khiển và trợ giúp cộng đoàn khi họ hát. Hơn nữa, nếu không có ca đoàn,
ca viên sẽ điều khiển các bài hát, còn cộng đoàn sẽ tham dự hát phần dành cho họ [x. Sđd., số
21 : AAS 59 (1967), tr. 306-307].
105. Những người sau đây cũng có
phận vụ trong phụng vụ :
a) Người coi phòng thánh phải sắp
đặt cẩn thận các sách phụng vụ, lễ phục và những thứ khác cần thiết trong việc
cử hành Thánh lễ.
b) Người dẫn
lễ là người tùy nghi nói vài lời vắn tắt giải thích và hướng dẫn, để đưa tín
hữu vào Thánh lễ và giúp họ hiểu Thánh lễ hơn. Những lời hướng dẫn của người
dẫn lễ phải được soạn kỹ trước và phải vắn tắt rõ ràng. Trong khi lo phần vụ
của mình, người dẫn lễ sẽ đứng ở nơi thuận tiện, trước mặt cộng đoàn, nhưng không
được đứng ở giảng đài.
c) Những người
làm nhiệm vụ xin tiền trong nhà thờ.
d) Trong một vài miền, còn có những người đón tiếp
tín hữu ở cửa nhà thờ, dẫn họ vào chỗ xứng hợp và xếp đặt chỗ cho họ khi đi rước.
106. Nên có một thừa tác viên có khả năng chuyên môn
gọi là chưởng nghi, ít nhất là trong các nhà thờ chánh tòa và nhà thờ lớn, để
lo liệu cho các hành động phụng vụ được diễn tiến cách thích hợp và được các thừa
tác viên thánh chức và các tín hữu giáo dân thực hiện cách trang nghiêm, trật
tự và đạo đức.
107. Những phận vụ phụng vụ không phải là phận vụ của
riêng linh mục hay phó tế, như đã nói trên (số
100-106), có thể được cha sở hoặc cha quản thủ thánh đường trao cho những
giáo dân có khả năng bằng sự chúc lành theo phụng vụ hoặc bằng sự ủy nhiệm tạm thời.
Còn về việc giúp linh mục tại bàn thờ thì hãy tuân theo những chỉ thị do Giám
mục ban hành cho giáo phận mình.
339. Các thừa tác viên giúp lễ, đọc sách, và các thừa
tác viên giáo dân khác có thể mặc áo alba hay một kiểu áo khác được Hội đồng
Giám mục chấp thuận cách hợp pháp cho mỗi miền.
Tại Việt Nam, ngoài áo dài trắng chung cho các
thừa tác viên phụng vụ, các thừa tác viên nam không chức thánh có thể mặc âu phục
với cà vạt hoặc áo dài khăn đóng ; nữ có thể mặc áo dài thông thường hoặc áo
dài với khăn vành truyền thống Việt Nam.
Nhân dịp kỷ niệm 25 năm
giáo hoàng 16/10/1978 – 2003, Cố giáo hoàng đáng kính đã gửi đến toàn thể Hội
Thánh Thông điệp Giáo hội sống nhờ Thánh Thể, ký ngày thứ năm tuần thánh 17/4/2003.
Tại thông điệp này, Ngài đã truyền cho các Cơ quan chuyên trách của Tòa Thánh
soạn thảo một văn kiện chuyên môn với những nhắc nhở về luật,[8]
và ngày 25/3/2004 Bộ Phụng tự và Kỷ luật bí tích ban hành Huấn thị Redemptoris Sacramentum về một số điều phải
tuân thủ hoặc phải xa lánh liên quan đến Phép Thánh Thể Chí Thánh, trong đó có
những chỉ dẫn liên quan đến người tín hữu giáo dân.
chương II
SỰ THAM DỰ CỦA GIÁO DÂN
VÀO VIỆC CỬ HÀNH BÍ TÍCH THÁNH THỂ
1. MỘT SỰ
THAM DỰ TÍCH CỰC VÀ Ý THỨC
36. Việc cử hành Thánh Lễ, như là hành
động của Đức Kitô và của Giáo Hội, là trung tâm của cả đời sống kitô-hữu đối
với Giáo Hội hoàn vũ cũng như địa phương, và đối với mỗi người tín hữu,[9]
“mà nó có liên quan cách khác nhau với từng chi thể, tuỳ theo khác biệt về phẩm
trật, phận vụ và sự tham dự sống động.[10]
Bằng cách này, dân kitô-hữu, “là dòng giống được lựa chọn, là tư tế vương giả, là
chủng tộc thánh thiện, là dân được cứu chuộc”[11]
biểu lộ sự kết hợp chặt chẽ và cách tổ chức phẩm trật của nó”.[12]
Chức tư tế chung của các tín hữu và chức tư tế thừa tác hay phẩm trật, tuy khác
nhau không chỉ về cấp bậc mà còn về yếu tính, song cả hai bổ túc cho nhau ; thực
vậy, cả hai, đều tham dự vào chức tư tế duy nhất của Chúa Kitô theo cách thức
riêng của mình”.[13]
37. Nhờ phép rửa, mọi tín hữu của Đức
Kitô được giải thoát khỏi tội lỗi của mình và sáp nhập vào Giáo Hội ; vậy do ấn
tích của phép rửa, họ được cử vào việc phượng tự của Kitô-giáo,[14]
để, căn cứ vào chức tư tế vương giả,[15]
kiên trì cầu nguyện và ca ngợi Thiên Chúa,[16]
họ dâng hiến chính con người mình làm lễ vật sống động, thánh thiện, làm vui lòng
Thiên Chúa và chứng thực một tiến vật như thế bằng tất cả việc làm của họ.[17]
Họ làm chứng cho Chúa Kitô khắp nơi trên thế giới, và, trước mọi người chất vấn
họ, họ không ngần ngại trình bày về niềm tin của họ về một đời sống bất diệt.[18]
Do đó, chính việc tham dự của giáo dân vào việc cử hành Thánh Thể và những nghi
lễ khác của Giáo Hội không thể chỉ là một sự kiện đơn thuần, hơn nữa thụ động, nhưng
nó phải được coi là một sự luyện tập thật sự của đức tin và phẩm cách của phép
rửa.
38. Giáo lý không thay đổi của Giáo
Hội về bản tính của Phép Thánh Thể, được xem chẳng những như là một bữa tiệc,
mà còn và trước hết là một hy tế, một cách chính xác được coi như là một trong
những chìa khoá chính để hiểu và thực hiện việc tham gia đầy đủ của tất cả các
tín hữu vào một Bí Tích cao trọng dường ấy.[19]
“Bỏ đi giá trị hy tế của nó, Thánh Thể chỉ có ý nghĩa và giá trị của một cuộc gặp
gỡ thân hữu trong một bữa tiệc thông thường mà thôi”.[20]
39. Để xúc tiến và biểu lộ việc các
tín hữu tham dự cách tích cực, việc canh tân các sách phụng vụ mới đây, theo
những ý định của Công Đồng, đã góp phần phát triển các lời tung hô của dân chúng,
những lời đáp, việc hát thánh vịnh, các điệp ca, các bài hát, cũng như những
hành động hay cử điệu, và những tư thế của thân thể, và việc canh tân đó đã
quan tâm ấn định việc thinh lặng thánh khi cần thiết, đồng thời cũng dự trù, trong
phần chữ đỏ, những phần thuộc về các tín hữu.[21]
Hơn nữa, có dành một phần rộng rãi để tự do thích nghi hợp thời, được căn cứ trên
nguyên tắc là mỗi cử hành phải được thích ứng với nhu cầu của người tham dự,
cũng như với khả năng của họ, với sự chuẩn bị nội tâm và tài năng riêng của họ.
Trong mỗi cử hành, có rất nhiều khả năng để lựa chọn các bài hát, các giai điệu,
các lời nguyện và các bài đọc kinh thánh, cũng như trong khuôn khổ bài giảng
lễ, trong việc soạn thảo kinh nguyện của các tín hữu, trong những lời huấn dụ
đôi khi được công bố, và trong việc trang hoàng nhà thờ theo mùa phụng vụ.
Những yếu tố này phải góp phần làm nổi bật cách rõ ràng hơn sự phong phú của
truyền thống phụng vụ, và, luôn chú trọng đến các nhu cầu mục vụ, chúng góp phần
cẩn thận mang đến một ý nghĩa đặc biệt cho việc cử hành, nhằm mục đích giúp cho
tham dự nội tâm. Tuy nhiên, phải nhớ rằng hiệu quả các hành động phụng vụ không
nằm trong việc thay đổi thường xuyên các nghi lễ, nhưng thực ra trong việc đào
sâu lời Thiên Chúa và mầu nhiệm được cử hành.[22]
40. Dù không thể chối cãi rằng việc
cử hành phụng vụ có đặc tính là việc tham dự của các tín hữu phải tích cực,
nhưng không phải do đó cần thiết mọi người, theo nghĩa cụ thể, phải làm cái gì
khác hơn những cử điệu và tư thế thân thể đã được dự liệu, như là mỗi người cần
đảm nhiệm một chức vụ đặc thù trong lãnh vực phụng vụ. Đúng hơn phải làm thế
nào, khi dạy giáo lý, ân cần quan tâm sửa chữa các quan niệm và thực hành nông
cạn đã phổ biến về chỉ định này ở một số nơi, trong những năm gần đây, và phải
làm sao, khi dạy giáo lý, ân cần không ngừng khơi lại nơi các tín hữu ý nghĩa
đổi mới của lòng khâm sùng sâu sắc đối với đặc tính cao cả của mầu nhiệm đức
tin này, là Phép Thánh Thể. Trên thực tế, trong cử hành Thánh Thể, Giáo Hội
không ngừng đi "từ cái cũ đến cái mới".[23]
Quả nhiên, trong cử hành Thánh Thể, cũng như trong cả đời sống kitô-hữu, mà Phép
Thánh Thể ban cho sức mạnh và hướng về đó, Giáo Hội, như thánh Tông Đồ Tôma,
sụp lạy, phụng thờ Chúa chịu đóng đinh, chịu chết, chịu mai táng và phục sinh
"trong sự huy hoàng viên mãn của Thiên Chúa, và Giáo Hội liên tục thốt lên
: lạy Chúa tôi và Thiên Chúa tôi".[24]
41. Để khơi dậy, xúc tiến và làm tăng
trưởng ý nghĩa nội tâm của sự tham dự phụng vụ, việc cử hành chuyên cần và kéo
dài Giờ Kinh Phụng Vụ tỏ ra rất hữu ích, cũng như việc dùng các á-bí-tích và
các việc thuộc lòng đạo đức bình dân Kitô-giáo. Những thực hành đạo đức này, “mang
một phẩm cách và tầm quan trọng đặc biệt, tuy theo mặt luật chặt chẽ mà nói,
không thuộc Phụng Vụ thánh”, phải được giữ lại vì sự liên hệ của chúng với việc
tổ chức phụng vụ, nhất là khi chúng được chính Huấn Quyền phê chuẩn và ca tụng [25];
việc này có giá trị đặc biệt cho chuỗi Mân Côi.[26]
Hơn nữa, vì những thực hành đạo đức này đưa dân kitô-hữu năng lui tới các bí tích,
nhất là với bí tích Thánh Thể, “cũng như suy gẫm các mầu nhiệm Ơn Cứu Chuộc
chúng ta hay noi gương các thánh, chính nhờ đó, chúng góp phần giúp chúng ta
tham dự việc phụng tự theo phụng vụ với rất nhiều ơn ích cứu độ”.[27]
42. Cần nhìn nhận rằng Giáo Hội không
được thành lập bởi quyết định của loài người, nhưng được Thiên Chúa triệu tập
trong Chúa Thánh Thần và bằng đức tin, Giáo Hội đáp trả với lời kêu gọi nhưng
không của Ngài : quả nhiên, từ ekklesia liên quan đến klesis, có
nghĩa là “kêu gọi”.[28]
Vậy, người ta không thể kể Hy Tế Thánh Thể theo nguyên nghĩa “đồng tế” của linh
mục với dân chúng hiện diện.[29]
Trái lại, Thánh Lễ do các linh mục cử hành là một quà tặng “triệt để vượt trội quyền
hạn của cộng đoàn [….]. Để thực sự là một cộng đoàn thánh thể, cộng đoàn cùng
nhau quy tụ để cử hành Thánh Thể tuyệt đối cần một linh mục đã được truyền chức
để chủ toạ. Mặt khác, cộng đoàn không có khả năng tự cung cấp cho mình thừa tác
viên có chức thánh”.[30]
Tất cả cần phải được khẩn cấp khởi công ngay để loại bỏ mọi nhập nhằng trong lãnh
vực này, và sửa chữa các khó khăn nảy sinh trong những năm gần đây. Vì thế, chỉ
phải sử dụng cách cẩn thận các từ ngữ như "cộng đoàn đồng tế" (communauté
célébrante, assemblée célébrante) được dịch ra trong nhiều ngôn ngữ hiện đại
khác bằng những từ “celebrating assembly”, “asamblea celebrante”, “assemblea celebrante”, và những từ
khác thuộc loại này.
2. NHỮNG
CHỨC NĂNG CỦA GIÁO DÂN TRONG VIỆC CỬ HÀNH THÁNH LỄ
43. Vì lợi ích của cộng đoàn và của
toàn thể Giáo Hội Thiên Chúa, thật là công bình và đáng khen, trong hàng giáo
dân, có một ít người, theo truyền thống, thi hành một số chức năng trong khuôn
khổ của việc cử hành Phụng Vụ thánh.[31]
Nên có nhiều người chia sẻ với nhau để chu toàn các chức năng khác nhau, hay những
phần khác nhau của cùng một chức năng.[32]
44. Thêm vào các thừa tác vụ giúp lễ
và đọc sách được thiết lập,[33]
trong những chức năng đặc biệt, được nêu trên đây, có những chức năng của người
giúp lễ [34]
và người đọc sách,[35]
được cử tạm thời, thêm vào đó có những chức năng khác được miêu tả trong Sách Lễ
Rôma,[36]
và cả những chức năng chuẩn bị bánh lễ, giặt giũ đồ phụng vụ và những chức năng
khác tương tự. Để phụng vụ của Giáo Hội được diễn biến cách xứng đáng và thích hợp,
tất cả, “thừa tác viên có chức thánh hay giáo dân, khi thực hiện thừa tác vụ
hay chức năng của mình, phải làm tất cả những gì thuộc về mình và chỉ những điều
ấy mà thôi”,[37]
trong chính khi cử hành phụng vụ cũng như trong lúc chuẩn bị.
45. Phải tránh mối nguy cơ làm lu mờ
tính bổ sung giữa sự hoạt động của các giáo sĩ và sự hoạt động của giáo dân, để
phận sự của người giáo dân không bị, như người ta nói, là “giáo sĩ hoá”, và các
thừa tác viên có chức thánh, về phần mình, không cáng đáng không đúng luật những
gì thuộc riêng về đời sống và hoạt động của giáo dân.[38]
46. Người giáo dân, được kêu gọi phụ
giúp trong các cử hành phụng vụ, phải được chuẩn bị hợp lệ và được chọn thể theo
đời sống kitô-hữu, đức tin, hạnh kiểm và lòng trung thành của họ đối với Huấn
Quyền của Giáo Hội. Nên cho đương sự được đào tạo về mặt phụng vụ thích hợp với
lứa tuổi, địa vị, lối sống và trình độ tôn giáo của họ.[39]
Đừng chọn bất cứ ai mà việc chỉ định có thể gây ngạc nhiên cho các tín hữu.[40]
47. Hoàn toàn đáng ca ngợi việc duy
trì tập quán đặc biệt là sự hiện diện các trẻ em hay các thanh niên - thường
được gọi là “người giúp lễ” hay “thiếu nhi cung thánh” -, các em giúp việc bàn
thờ như các tá viên giúp lễ, và, tuỳ theo khả năng của chúng, được bồi dưỡng
giáo lý thích hợp với công việc của chúng.[41]
Đừng quên rằng, trong số các trẻ giúp việc bàn thờ này, suốt bao thế kỷ, đã cho
vô số thừa tác viên có chức thánh.[42]
Để cung ứng có hiệu quả các nhu cầu mục vụ cho các trẻ giúp việc bàn thờ này, cần
thiết lập và xúc tiến cho các em những đoàn thể, và kêu gọi cả cha mẹ các em
tham gia và giúp đỡ. Khi các đoàn thể loại này đạt đến chiều kích quốc tế, Bộ
Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích có nhiệm vụ thiết lập các đoàn thể đó, hay xem xét
và phê chuẩn quy chế của chúng.[43]
Các thiếu nữ hay các phụ nữ có thể được chấp nhận giúp việc bàn thờ, tuỳ theo sự
phán đoán của Giám mục giáo phận ; trong trường hợp này, phải theo các quy tắc
được thiết lập về vấn đề này.[44]
chương VII : NHỮNG
CHỨC VỤ NGOẠI THƯỜNG CỦA GIÁO DÂN
146. Chức tư tế thừa tác là tuyệt đối không thay thế được. Quả nhiên, nếu
một cộng đoàn không có linh mục, thì không có thực hành được chức năng bí tích
của Đức Kitô, là Đầu và là Mục Tử, một chức năng cốt yếu của chính đời sống của
cộng đồng giáo hội.[45] Trên thực tế,
“chỉ duy có tư tế đã được truyền chức hữu hiệu làm thừa tác viên hiện thân của
Đức Kitô, in persona Christi, mới có
khả năng cử hành bí tích Thánh Thể”.[46]
147. Tuy nhiên, nơi nào nhu cầu của Giáo Hội đòi hỏi, vì thiếu thừa tác viên
có chức thánh, người giáo dân có thể thay thế trong một số chức vụ phụng vụ,
theo các quy định của giáo luật.[47] Các tín hữu
này, được gọi và được cử để thi hành một số chức vụ được xác định, ít nhiều quan
trọng, được ơn Chúa nâng đỡ. Ngày nay nhiều giáo dân đã và đang phục vụ một
cách quảng đại, nhất là trong các xứ truyền giáo, nơi Giáo Hội còn ít được truyền
bá hay đang trong hoàn cảnh bị bắt bớ,[48] cũng trong
những miền khác trên hoàn cầu bị bị tác động vì thiếu linh mục và phó tế.
148. Đặc biệt, phải kể là rất quan trọng việc thiết lập các giảng viên giáo
lý, những người, mà bằng những cố gắng rất lớn, ngày nay cũng như trong quá
khứ, đang tiếp tục mang đến một sự giúp đỡ đặc biệt và tuyệt đối cần thiết để
truyền bá đức tin và phát triển Giáo Hội.[49]
149. Nhiều giáo dân, được biết dưới danh hiệu là người “phụ tá mục vụ”, rất
gần đây, đã được cử đến một số giáo phận đã được phúc âm rất xa xưa ; không thể
chối cãi là họ rất đông đã làm việc vì lợi ích của Giáo Hội, tạo điều kiện dễ
dàng cho hành động mục vụ của Giám Mục, các linh mục và phó tế. Tuy nhiên, phải
cảnh giác rằng hình dạng của một chức năng như thế không quá đồng dạng với sứ
vụ mục vụ của các giáo sĩ. Nói cách khác, phải chăm chú theo dõi đừng để các “phụ
tá mục vụ” đảm nhận những chức năng thuộc riêng sứ vụ của các thừa tác viên có
chức thánh.
150. Sinh hoạt của người phụ tá mục vụ phải nhằm mục đích tạo điều kiện dễ
dàng cho sứ vụ của các linh mục và phó tế, nhằm gợi lên các ơn gọi làm linh mục
và phó tế, và, trong mỗi cộng đoàn, nhằm hăng hái huấn luyện, theo các quy tắc
của giáo luật, các giáo dân đảm nhận nhiều chức vụ phụng vụ khác nhau theo những
đặc sủng khác nhau.
151. Trong việc cử hành phụng vụ, người ta chỉ phải nhờ đến các thừa tác
viên ngoại thường trong trường hợp thật cần thiết. Quả nhiên, sự trợ giúp này không
được dự liệu để đảm bảo cho người giáo dân tham dự đầy đủ hơn, nhưng, tự bản
tính, nó là bổ sung và tạm thời.[50] Tuy nhiên,
dù cần nhờ đến các thừa tác viên ngoại thường phục vụ, cần phải gia tăng lời cầu
nguyện đặc biệt và khẩn thiết, để Chúa nhanh chóng gửi một linh mục đến để phục
vụ cộng đoàn và gợi lên nhiều ơn gọi cho Chức Thánh.[51]
152. Lại nữa, những chức vụ như thế, hoàn toàn có tính cách bổ sung, không
được làm cớ để làm phai lạt chính sứ vụ của các linh mục, đến nỗi các vị này
lúc bấy giờ chểnh mảng không lo cử hành Thánh Lễ cho dân chúng được ủy thác cho
mình, không tự mình chăm sóc bệnh nhân, và tự mình chăm lo rửa tội cho các trẻ em,
không chứng hôn phối và cử hành an táng theo nghi lễ Kitô-giáo, đó là những
lãnh vực thuộc quyền trước hết của sứ vụ của các linh mục, với sự trợ giúp của
các phó tế. Vì thế, trong các giáo xứ, các linh mục phải theo dõi không bao giờ
trao đổi một cách không phân biệt các chức vụ của nghĩa vụ mục vụ của mình với
chức vụ của các phó tế hoặc của giáo dân, để tránh mọi sự lẫn lộn về chức năng
đặc thù của mỗi người.
153. Vả lại, người giáo dân không bao giờ cho phép đảm trách các chức vụ
của phó tế hay linh mục, và mặc những y phục dành riêng cho các ngài, kể cả những
y phục tương tự.
1. THỪA
TÁC VIÊN NGOẠI THƯỜNG CHO RƯỚC LỄ
154. Như đã nhắc lại, “chỉ duy có tư tế đã được truyền chức hữu hiệu là thừa
tác viên hiện thân của Đức Kitô, in
persona Christi, có thể khả năng cử hành bí tích Thánh Thể”.[52] Vì thế, từ
ngữ “thừa tác viên Thánh Thể” chỉ có thể gán một cách thích hợp cho vị linh mục
mà thôi. Cũng thế, các ngài là thừa tác viên thông thường cho rước lễ là Giám Mục,
linh mục và phó tế, vì các ngài đã lãnh nhận bí tích Truyền Chức Thánh [53] ; do đó, việc
cho giáo dân rước lễ khi cử hành Thánh Lễ là thuộc quyền của các ngài. Chính vì
thế, chức năng thừa tác vụ của các ngài trong Giáo Hội được biểu lộ một cách
thích đáng và đầy đủ, và dấu chỉ của bí tích được thực hiện.
155. Ngoài các thừa tác viên thông thường, có thầy giúp lễ, bởi việc lãnh
tác vụ, là thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ, kể cả ngoài lúc cử hành Thánh
Lễ. Vả lại, nếu có lý do thật cần thiết, Giám Mục giáo phận có thể cử vì mục
đích ấy một giáo dân với tính cách là thừa tác viên ngoại thường, ad actum hay ad tempus, theo các quy tắc
của giáo luật,[54] trong trường
hợp này, sử dụng công thức chúc lành thích hợp. Nhưng mà, việc cử hành như vậy
không cần thiết phải có một thể thức phụng vụ ; tuy nhiên, nếu có, việc này
tuyệt đối không thể được coi như là phong chức thánh. Việc cho phép ad actum có thể được ban bởi linh mục, chủ
tọa cử hành Thánh Lễ, chỉ trong những trường hợp đặc biệt và không thể thấy trước
được.[55]
156. Chức vụ này phải được hiểu, theo nghĩa hẹp của nó, có tên gọi là thừa
tác viên ngoại thường cho rước lễ, chứ không phải “thừa tác viên đặc biệt cho
rước lễ”, cũng không phải là “thừa tác viên ngoại thường của Thánh Thể”, hoặc
là “thừa tác viên đặc biệt của Thánh Thể”. Quả nhiên, các tên gọi đó có tác
dụng nới rộng nghĩa của chức vụ đó một cách vừa không đúng phép vừa không thích
hợp.
157. Nếu, thường thường, khi số các thừa tác viên có chức thánh hiện diện
trong cử hành là đủ, kể cả cho việc rước lễ, thì không được phép cử các thừa
tác viên ngoại thường cho rước lễ. Trong những trường hợp này, những ai được cử
cho một thừa tác vụ như thế, thì không được thi hành tác vụ ấy. Vậy, phải dứt
khoát bài trừ thái độ của các linh mục tuy có mặt ở buổi cử hành lại không cho
rước lễ, mà để cho giáo dân đảm nhận một chức vụ như vậy.[56]
158. Quả nhiên, thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ chỉ có thể cho rước
lễ trong trường hợp không có linh mục hay phó tế, khi linh mục bị ngăn trở vì
bệnh tật, vì lớn tuổi hay vì một lý do khác nghiêm trọng, hay nữa khi số tín hữu
đến rước lễ quá đông, có thể kéo dài quá đáng việc cử hành Thánh Lễ.[57] Tuy nhiên,
về vấn đề này, người ta coi việc kéo dài vắn gọn buổi cử hành, về mặt thói quen
và bối cảnh văn hoá địa phương, là một lý do hoàn toàn chưa đủ.
159. Không có trường hợp nào thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ được
phép uỷ quyền trao Mình Thánh Chúa cho một người nào khác, ví dụ như cho người cha
hay người mẹ, người phối ngẫu, hay người con của một bệnh nhân, được rước lễ.
160. Trong lãnh vực này, Giám Mục giáo phận phải xem xét lại một lần nữa
việc thực hành của những năm gần đây, và sửa chữa lại tuỳ theo các trường hợp, hay
xác định cách chính xác hơn những quy tắc phải theo. Trong những nơi, vì thật
sự cần thiết, việc cử những thừa tác viên ngoại thường như vậy là phổ biến, thì
Giám Mục giáo phận phải công bố những quy tắc đặc biệt, do đó, quan tâm đến
truyền thống của Giáo Hội, ngài đặt quy chế cho việc thi hành chức vụ này, theo
những quy tắc của giáo luật.
2. VIỆC
THUYẾT GIẢNG
161. Như đã nói, với bản chất và vì tính quan trọng của nó, bài giảng được
dành cho linh mục hoặc phó tế trong Thánh Lễ.[58] Về những gì
liên quan đến các hình thức giảng thuyết khác, nếu trong những hoàn cảnh đặc biệt
thật sự cần thiết hay vì sự hữu ích đòi hỏi trong những trường hợp đặc biệt,
giáo dân có thể được chấp nhận giảng trong nhà thờ hay trong nhà nguyện, ngoài
Thánh Lễ, theo các quy tắc của giáo luật.[59] Việc này có
thể được chỉ trong những trường hợp cần thiết bổ khuyết các thừa tác viên có chức
thánh quá ít trong một vài nơi ; do đó, một trường hợp như thế, hoàn toàn ngoại
lệ, không được phép trở nên một tục lệ thông thường, và cũng không được xem nó
như là một sự thăng tiến chính thức của hàng giáo dân.[60] Vả lại, mọi
người đều phải nhớ rằng quyền ban phép chỉ thuộc thẩm quyền của các Đấng Bản
Quyền sở tại mà thôi, và luôn luôn là ad
actum, chứ không thuộc quyền ai khác, kể cả các linh mục hay phó tế.
3. NHỮNG
CỬ HÀNH ĐẶC BIỆT KHÔNG CÓ LINH MỤC
162. Vào ngày được gọi là “chúa nhật”, Giáo Hội trung thành tập hợp lại để
cử hành kỷ niệm Chúa sống lại và toàn bộ mầu nhiệm vượt qua, đặc biệt bằng việc
cử hành Thánh Lễ.[61] Quả nhiên,
“không một cộng đoàn kitô-hữu nào được thiết lập mà không đặt nền tảng và trọng
tâm vào việc cử hành Phép Thánh Thể Chí Thánh”[62]. Do đó, dân
kitô-hữu có quyền được có Thánh Lễ cử hành cho họ, vào chúa nhật và những ngày
lễ buộc, cũng như vào các ngày lễ quan trọng nhất, và ngay cả mỗi ngày, nếu có
thể được. Vì thế, nếu có khó khăn cử hành Thánh Lễ chúa nhật trong một giáo xứ
hay một cộng đoàn tín hữu khác, thì Giám Mục giáo phận, kết hợp với linh mục
đoàn của mình,[63] tìm cách giải
quyết hoàn cảnh này. Trong những cách giải quyết có thể làm được, những cách
chính phải là: kêu gọi các linh mục khác sẵn sàng để cử hành Thánh Lễ, hoặc yêu
cầu các tín hữu đến một nhà thờ gần đó để tham dự cử hành mầu nhiệm Thánh Thể.[64]
163. Tất cả các linh mục, được ủy thác chức linh mục và Thánh Thể “vì lợi
ích” cho người khác,[65] phải nhớ rằng
các ngài buộc phải tạo cho mọi tín hữu có thể làm tròn giới răn tham dự Thánh
Lễ ngày chúa nhật.[66] Về phần mình,
giáo dân có quyền được đòi hỏi không một linh mục nào được từ chối cử hành
Thánh Lễ cho dân chúng, trừ phi thật sự không thể được, hay đòi hỏi một linh
mục khác cử hành Thánh Lễ cho họ, nếu họ không thể làm tròn giới răn tham dự
Thánh Lễ, ngày chúa nhật hay các ngày lễ buộc khác, một cách khác.
164. “Nếu, không có thừa tác viên có chức thánh hay vì một lý do quan trọng
khác, khiến cho việc tham dự cử hành Thánh Thể không thể thực hiện được”,[67] dân kitô-hữu
có quyền được, vào ngày chúa nhật, Giám Mục giáo phận theo dõi, theo khả năng,
cho chính cộng đoàn có một cử hành, được tổ chức dưới chính quyền của ngài và
theo các quy tắc của Giáo Hội. Tuy nhiên, các cử hành ngày chúa nhật đặc biệt
loại này phải luôn luôn được coi như có một tính tuyệt đối ngoại thường. Vì
thế, tất cả những ai được Giám Mục giáo phận chỉ định thi hành một chức vụ
trong những cử hành như vậy, dù họ là phó tế hoặc giáo dân, họ “có trách nhiệm
gìn giữ sống động trong cộng đoàn một sự “khao khát” đích thực bí tích Thánh
Thể, để không bao giờ bỏ lỡ cơ hội nào có Thánh Lễ, bằng cách tận dụng sự hiện
diện ngẫu nhiên của một linh mục, miễn là vị ấy không mắc ngăn trở theo giáo luật”.[68]
165. Phải cẩn thận tránh xa mọi hình thức lẫn lộn giữa những buổi họp cầu
nguyện thuộc loại này với việc cử hành Thánh Thể.[69] Vì thế, các
Giám Mục giáo phận phải thận trọng lượng chừng có nên cho rước lễ trong những
buổi họp như thế hay không. Để bảo đảm một sự phối hợp rộng rãi hơn trong lãnh
vực này, một vấn đề như vậy nên được giải quyết ở cấp Hội Đồng Giám Mục, để đi
đến một nghị quyết và phải được Tông Toà xác nhận, nghĩa là bởi Bộ Phụng Tự và
Kỷ Luật Bí Tích. Vả lại, trong khi vắng mặt linh mục và phó tế, nên phân bổ các
phần khác nhau của việc cử hành cho nhiều tín hữu hơn là để chỉ một tín hữu duy
nhất điều khiển toàn bộ buổi cử hành. Không một trường hợp nào nên nói về một
giáo dân rằng người ấy “chủ tọa” việc cử hành.
166. Cũng thế, Giám Mục giáo phận, mà chỉ mình ngài có quyền quyết định trong
lãnh vực này, không được một cách dễ dàng cho phép những cử hành loại này được
tổ chức các ngày thường trong tuần, nhất là, hơn nữa, cho rước lễ ; việc này
liên quan nhất là đến những nơi mà ngày chúa nhật trước hoặc sau, đã có hay sẽ
có cử hành Thánh Lễ. Các linh mục được khẩn khoản yêu cầu, theo khả năng của mình,
cử hành Thánh Lễ mỗi ngày cho dân chúng, tại một trong các nhà thờ, đã được ủy
thác cho ngài.
167. “Cũng vậy, người ta không thể thay thế Thánh Lễ chúa nhật bằng những
buổi cử hành Lời Chúa có tính đại kết, hay những buổi cầu nguyện chung với các
kitô-hữu của [….] các Cộng đoàn giáo hội, hoặc ngay cả việc tham dự vào các
nghi thức phụng vụ của họ.[70] Hơn nữa, nếu,
vì một sự cấp thiết khẩn cấp, Giám Mục giáo phận cho phép ad actum các người công giáo tham dự vào một buổi cầu nguyện chung
loại này, các mục tử phải theo dõi để sự lẫn lộn không lan tràn nơi các tín hữu
công giáo về việc cần phải tham dự, cả trong những trường hợp đó, Thánh Lễ
buộc, vào một giờ khác trong ngày.[71]
[1] "Cuộc khảo sát lương tâm cũng phải
xét đến thái độ tỏ ra đón nhận thế nào đối với Công Đồng Vaticanô II, một
tặng ân cao cả mà Thần Linh đã ban cho Giáo Hội vào cuối Ngàn năm thứ hai này. Lời của Thiên Chúa đã trở nên hồn sống của
thần học và là nguồn hứng cho cả cuộc sống kitô-hữu, trọn đầy hơn nữa đến mức
nào, theo như hiến chế về Mạc Khải ? Phụng vụ có được sống như là nguồn mạch và
là thượng đỉnh của sinh hoạt thuộc về hội thánh không, theo giáo huấn của hiến
chế về Phụng Vụ ? Giáo-hội-học về việc hiệp thông được diễn giải trong hiến chế
về Giáo Hội có được làm cho vững mạnh nơi Giáo Hội hoàn vũ cũng như nơi các
Giáo Hội riêng biệt không ? Những đặc sủng, những sứ vụ và những hình thức tham
dự khác nhau của dân Thiên Chúa có được thể hiện chăng, một thể hiện không bị
ảnh hưởng bởi ý thức hệ dân chủ và tính cách xã hội tương phản với quan niệm
của Giáo Hội cũng như với tinh thần chân thực của Công Đồng Chung Vaticanô II ?
Một vấn đề quan trọng khác được nêu lên là bản chất của việc liên hệ giữa Giáo
Hội và thế giới. Những chỉ dẫn của Công Đồng –được phác họa trong hiến chế Mục
Vụ và các văn kiện khác– về việc đối thoại một cách cởi mở, tôn trọng và thân
tình, vẫn còn hiệu lực và mời gọi chúng ta phải dấn thân hơn nữa, tuy nhiên, nó
phải được đi kèm với một nhận thức rõ ràng cùng với việc can đảm làm chứng cho
chân lý" (Tông thư Ngàn năm thứ ba
đang đến, 10/11/1994, số 36).
"Đệ cũng thế, khi bắt đầu sứ vụ của Người Kế Vị thánh Phêrô,
Đệ muốn khẳng định cách mạnh mẽ quyết tâm theo đuổi cam kết thực thi Công Đồng Chung Vatican II, theo gương các vị tiền
nhiệm và trong sự tiếp nối luôn trung thành với truyền thống ngàn năm của Giáo hội.
Năm nay chính là năm kỷ niệm 40 năm ngày kết thúc Công Đồng (ngày 8 tháng
12 năm 1965). Qua dòng thời gian, các văn kiện của Công Đồng đã không mất đi
tính thời sự; giáo huấn của những văn kiện này đã chứng tỏ là thích đáng cách
đặc biệt với những đòi hỏi mới của Giáo hội và của xã hội toàn cầu hóa hiện nay"
(Bài giảng ngày 20/4/2005 sau khi được bầu kế nhiệm Đức Gioan-Phaolô II).
[2] "Điều
này sẽ được thực hiện cách thích đáng, nếu ta để ý đến tính chất và hoàn cảnh của
mỗi cộng đoàn phụng tự, mà sắp xếp toàn bộ việc cử hành thế nào, để khuyến khích
việc tham dự ý thức, tích cực và đầy đủ của các tín hữu, nghĩa là tham dự với
cả xác hồn, với lòng tin, cậy, mến nồng nàn. Đó là việc tham dự mà Hội Thánh mong
muốn, và chính bản chất việc cử hành đòi hỏi, lại cũng là quyền lợi và nghĩa vụ
của dân Kitô, phát xuất từ bí tích Thánh Tẩy"
(QCTQ/ SLR 3/18).
[3] "Thật vậy, việc cử hành Thánh Thể là việc của
toàn thể Hội Thánh, trong đó mỗi người chỉ làm và làm trọn công việc thuộc về họ,
tùy theo cấp bậc của họ trong dân Thiên Chúa. Bởi thế, phải chú trọng hơn đến
mấy khía cạnh của việc cử hành, mà qua nhiều thế kỷ, có lúc người ta ít lưu tâm
đến. Vì chưng, dân này là dân Thiên Chúa, được cứu chuộc bằng giá máu Đức Kitô,
được Chúa Kitô quy tụ, được lời Chúa nuôi dưỡng, là dân được Chúa kêu gọi để dâng
lên Thiên Chúa lời cầu nguyện của toàn thể gia đình nhân loại, là dân, trong
Chúa Kitô, dâng lời tạ ơn về mầu nhiệm cứu độ, khi dâng hy lễ của Chúa Kitô ;
và, sau hết, là dân liên kết với nhau nên một, nhờ việc thông hiệp với Mình và
Máu Đức Kitô. Dân này, mặc dầu từ nguồn gốc đã là thánh, nhưng nhờ tham dự ý
thức, linh động và hữu hiệu vào mầu nhiệm Thánh Thể, sẽ liên lỉ tấn tới trên
con đường thánh thiện" (QCTQ/SLR 5).
[4] Đức cha Marcel Lefèbre sinh
29/11/1905 tại Tourcoing, thụ phong linh mục 21/9/1929 thuộc giáo phận Lille –
Pháp, nhập dòng Chúa Thánh Thần (CSSp Congregazione dello Spirito Sancto) năm
1931, Đại diện Tông Tòa Dakar, Senegal 12/7/1947, được tấn phong giám mục ngày
18/9/1947, ... Tgm Dakar 1955..., Bề trên Tổng quyền dòng CTT 1962, tham dự cả
4 khóa Công Đồng Vatican II, từ nhiệm Bề trên 1968 và lập Huynh đoàn Thánh Piô
X phản ứng chống lại canh tân của Công Đồng. Ngày 30/6/1988 tự ý phong chức 4
giám mục... Qua đời ngày 25/3/1991. Huynh đoàn Thánh Piô X có số khá đông linh
mục và tín hữu (x. Thư Đức Thánh Cha Bênêđictô gửi các Giám mục ngày 10/3/2009 giải thích về việc tha vạ tuyệt
thông cho 4 giám mục : "Liệu
chúng ta có thể hoàn toàn dửng dưng với một cộng đoàn gồm 491 linh mục, 215
chủng sinh, 6 chủng viện, 88 trường học, hai học viện ở trình độ đại học, 117
nam tu, 164 nữ tu và hàng ngàn tín hữu ?".
[5] Ngày 27/6/1968
Đức Phaolô VI ban hành Tông Hiến Pontificialis
Romani Recognitio về việc Duyệt lại sách Nghi lễ Giám mục Rôma, để thay đổi các Nghi thức Phong chức Giám
mục, Linh mục và Phó tế.
[6] Các tác vụ, chức
vụ và nhiệm vụ của giáo dân
CL 23. Sứ vụ cứu độ của Giáo Hội trong thế giới được thực hiện không những nhờ
các thừa tác viên đã lãnh bí tích Truyền Chức Thánh, nhưng còn nhờ tất cả mọi giáo
dân : thực vậy, nhờ đã được chịu phép thánh tẩy và nhờ ơn gọi chuyên biệt của
mình, các giáo dân, mỗi người theo mức độ của mình, tham dự vào chức vụ tư tế,
ngôn sứ và vương giả của Đức Kitô.
Vì thế, các vị chủ chăn có bổn
phận phải nhìn nhận và cổ võ các tác vụ, chức vụ và nhiệm vụ của giáo dân, những
chức vụ và nhiệm vụ này đặt nền tảng trên bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức,
hơn nữa, đối với phần đông trong số họ, còn thêm bí tích Hôn Phối.
Ngoài ra, khi nhu cầu và lợi
ích của Giáo Hội đòi hỏi, các vị chủ chăn có thể, chiếu theo quy tắc của luật chung,
mà trao phó cho giáo dân một số chức vụ và nhiệm vụ, dù vẫn gắn liền với tác vụ
riêng của vị chủ chăn, nhưng không buộc có ấn tích của bí tích Truyền Chức
Thánh. Giáo luật quy định : “Nơi nào nhu cầu Giáo Hội đòi hỏi, và thiếu thừa
tác viên thánh, thì các giáo dân, dù không có tác vụ đọc sách và giúp lễ, cũng
có thể thay thế họ làm một số công việc : tỉ như thi hành tác vụ Lời Chúa, chủ
tọa buổi cầu nguyện, ban phép Thánh Tẩy, cho rước lễ, theo các quy tắc luật định” [Giáo
Luật, can. 230 §3]. Tuy nhiên, việc
thi hành một nhiệm vụ như thế không biến giáo dân thành một chủ chăn : thực
ra, yếu tố cấu tạo tác vụ không phải do chính hoạt động nhưng là sự truyền chức
thánh bí tích. Chỉ có bí tích Truyền Chức Thánh mới ban cho thừa tác viên được
thụ phong được quyền tham dự đặc biệt vào chức vụ của Đức Kitô Thủ Lãnh và Mục
Tử, cũng như vào chức tư tế vĩnh cửu của Ngài [x. CĐ Vatican II, Sắc
lệnh về chức vụ và đời sống Linh Mục, s. 2 và 5]. Nhiệm vụ được thi hành với tư cách thay thế có được sự hợp pháp cách
chính danh và trực tiếp khi được vị chủ chăn ủy nhiệm chính thức và, khi thi
hành nhiệm vụ này cách cụ thể, người thay thế phải tuân theo sự điều khiển của
quyền bính Giáo Hội [x. CĐ Vatican II, Sắc lệnh về Tông Đồ giáo
dân, s. 24].
Thượng-hội-đồng vừa qua đã trình
bày một toàn cảnh rộng lớn và đầy ý nghĩa về tình hình Giáo Hội liên quan đến
các tác vụ, chức vụ và nhiệm vụ của những người đã được thánh tẩy. Các Nghị Phụ
đã nồng nhiệt biểu lộ lòng quý mến vì sự cộng tác quan trọng trong việc tông đồ
của người giáo dân, nam cũng như nữ, trong đời sống Giáo Hội bằng các đoàn sủng
và mọi họat động của họ để phục vụ chío việc Phúc-âm-hóa, và đem tinh thần
Kitô-giáo vào các thực tại trần thế. Đồng thời, các ngài cũng đánh giá cao sự
tận tụy thường xuyên của họ trong các cộng đồng giáo hội và sự quảng đại của họ
sẵn sàng thay thế trong những trường hợp nghiêm trọng hay nhu cầu kéo dài [Giáo Luật liệt
kê một số nhiệm vụ và hoạt động dành cho thừa tác viên có chức thánh, tuy nhiên
trong một số trường hợp đặc biệt và nghiêm trọng, cụ thể khi không có linh mục
và phó tế, các việc đó có thể do một giáo dân thi hành trong một thời gian nào
đó, với sự chấp thuận hợp pháp trước đó và sự ủy nhiệm của thẩm quyền giáo hội
: x. can. 230 §3 ; 517 §2 ; 776 ; 861 §2 ; 910 §2 ; 943 ; 1112 ; v.v…].
Tiếp theo sau cuộc canh tân phụng
vụ do Công Đồng cổ võ, chính giáo dân, vì đã ý thức rõ ràng hơn về các công
việc thuộc về họ trong cộng đoàn phụng vụ hoặc trong việc chuẩn bị cộng đoàn
này, nên , nên rất sẵn sàng cho cử hành của họ : quả thực, cử hành phụng vụ là
một hành động thánh của toàn thể cộng đoàn, chứ không của riêng hàng giáo sĩ mà
thôi. Vì thế, hoàn toàn hợp lý khi những họat động không thuộc riêng các thừa
tác viên có chức thánh lại được các giáo dân thi hành [x. CĐ Vatican II, Hiến chế về Phụng Vụ,
s. 28 ; Giáo Luật, can. 230 §2 viết : “Các giáo dân có thể được chỉ định
tạm thời thi hành chức vụ đọc sách trong các hoạt động phụng vụ. Cũng thế, tất cả
các giáo dân có thể thi hành công tác của người dẫn giải, ca trưởng hoặc những
chức năng khác theo luật định”]. Một khi có
được sự tham dự hữu hiệu của giáo dân vào trong họat động phụng vụ, thì đương
nhiên ta cũng chấp nhận sự tham gia của họ vào việc loan báo Lời Chúa và công
tác mục vụ [Giáo Luật trình bày
các chức năng hay nhiệm vụ khác nhau mà giáo dân có thể thi hành trong cơ cấu tổ chức của Giáo Hội : x. can, 228 ; 317 § 3 ; 436
§ 1, 50 và §2 ; 483, 494 ; 537 ; 759 ; 776 ; 784 ; 785 ; 1228 § ; 1435 ;
v.v…].
Tuy thế, cũng trong Thượng-hội-đồng
vừa qua, bên cạnh những nhận định tích cực, cũng không thiếu những phê phán.
Các phê phán này đề cập đến việc sử dụng không phân biệt từ ngữ “tác vụ”, sự
lẫn lộn và đôi khi san bằng giữa chức tư tế cộng đồng và chức tư tế thừa tác,
việc áp dụng không đúng đắn một số quy tắc và luật lệ của Giáo Hội, giải thích
tùy tiện theo quan niệm “thay thế”, khuynh hướng “giáo sĩ hóa” giáo dân và nguy
cơ tạo nên trong thực tế một cơ cấu phục vụ trong Giáo Hội song song với cơ cấu
đặt nền tảng trên bí tích Truyền Chức Thánh.
Hẳn nhiên, để tránh những nguy
cơ ấy, các Nghị Phụ đã nhấn mạnh đến nhu cầu phải minh định, bằng thuật ngữ
chính xác hơn [x. Đề nghị 18], sự duy
nhất về sứ vụ của Giáo Hội, mà mọi người đã được thánh tẩy đều tham dự, và sự
khác biệt chính yếu về tác vụ của các chỉ chăn, đặt nền tảng trên bí tích Truyền
Chức Thánh, so với các tác vụ, chức vụ và nhiệm vụ khác trong Giáo Hội, đặt nền
tảng trên bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức.
Vì
thế, khi nhìn nhận và trao phó cho giáo dân các tác vụ, chức vụ và nhiệm vụ, trước
hết, các vị chủ chăn cần đặc biệt lưu ý dạy cho họ hiểu rằng các công việc ấy
bắt nguồn từ bí tích thánh tẩy. Sau nữa các ngài cũng phải đề phòng đừng dễ dãi
và lạm dụng nại tới “những tình huống” được phỏng đoán là “khẩn cấp” hay “sự
thay thế cần thiết”, khi khách quan không có hoặc khi có thể tránh được bằng
cách sắp xếp chương trình mục vụ hợp lý hơn.
Các chức vụ và nhiệm vụ khác
nhau mà người giáo dân có thể thi hành cách hợp pháp trong phụng vụ, trong việc
chuyển đạt đức tin và trong những cơ cấu mục vụ của Giáo Hội, phải được thi
hành phù hợp với ơn gọi giáo dân đặc biệt của họ, khác với ơn gọi của các
thừa tác viên có chức thánh. Theo nghĩa này, tông huấn Loan báo Tin Mừng (Evangelii
nuntiandi) đã mang lại những hệ quả rất lớn lao và tốt đẹp để gợi lên việc cộng
tác đa dạng của giáo dân vào đời sống và sứ vụ
Tin Mừng của Giáo Hội. Tông huấn nhắc nhở rằng : “Cánh đồng dành cho
họat động truyền giáo của giáo dân là cả một thế giới bao la và phức tạp của
chính trị, xã hội, kinh tế, và của cả văn hóa, khoa học, nghệ thuật, đời sống
quốc tế, những phương tiện truyền thông xã hội, cũng như một số thực tại khác
đang đặc biệt chờ được Phúc-âm-hóa như tình yêu, gia đình, giáo dục thiếu nhi
và thanh niên, nghề nghiệp, đau khổ. càng có nhiều giáo dân được thấm nhuần
tinh thần Tin Mừng, có trách nhiệm về những thực tại này và minh nhiên dấn thân
vào đó, có khả năng phát huy chúng và ý thức mình có bổn phận phát huy tất cả
khả năng Kitô-giáo của mình cho tới lúc đó thường bị chôn vùi và bóp nghẹt, thì
những thực tại này càng góp phần xây dựng Nước Thiên Chúa và Sự Cứu Rỗi trong
Đức Kitô, mà không đánh mất hay hy sinh giá trị nhân loại của chúng, nhưng trái
lại còn biểu lộ một chiều kích siêu việt thường ít được biết đến” [Đức PHAOLÔ
VI, Tông Huấn Loan báo Tin Mừng, 70].
Trong thời gian Thượng-hội-đồng
làm việc, các Nghị Phụ đã nghiên cứu rất kỹ về tác vụ Đọc Sách và Giúp Lễ. Xưa
kia, trong Giáo Hội latinh, các tác vụ này chỉ là những giai đọan chuẩn bị tinh
thần trên con đường tiến đến các chức thánh ; Tự Sắc “Một số tác vụ” (Ministeria
quaedam) của Đức Phaolô VI (ngày 15/8/1972) đã xác định một mức độ tự trị
và vững bền nào đó cho các tác vụ này và chúng có thể được trao ban cho giáo
dân, nhưng chỉ cho nam giới mà thôi. Bản Giáo Luật mới cũng theo chiều hướng
này [Giáo Luật, can. 230 §1].
Các Nghị Phụ cũng mong muốn duyệt lại “Tự Sắc” Ministeria quaedam, lưu ý
đến tập tục các Giáo Hội địa phương và nhất là cần nêu ra những tiêu chuẩn quy
định cách thức tuyển chọn những ứng viên cho mỗi tác vụ” [Đề nghị 18].
Vì vậy, một Ủy Ban đặc biệt được
thành lập không những để đáp lại mong muốn rõ ràng của các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng,
nhưng còn và nhất là để nghiên cứu cách sâu xa những vấn đề khác nhau về thần
học, phục vụ, pháp lý và mục vụ được đặt ra do hiện nay có nhiều tác vụ được
trao phó cho giáo dân.
Trong khi chờ đợi Ủy Ban đưa
ra kết luận, để việc thi hành trong Giáo Hội các tác vụ trao phó cho giáo dân được
trật tự và mang lại hiệu quả, thì tất cả mọi Giáo Hội địa phương phải trung
thành tôn trọng các nguyên tắc thần học được nhắc tới trên đây, đặc biệt là sự
khác biệt chủ yếu giữa chức tư tế thừa tác và chức tư tế cộng đồng, và do đó,
sự khác biệt giữa các tác vụ do bí tích Truyền Chức Thánh và các tác vụ do bí
tích Thánh Tẩy và Thêm Sức.
[7] Huấn thị
Bộ Giáo sĩ và liên bộ ngày 15/8/1997
Điều 1.
Trong bài diễn văn đọc trước những người tham dự
hội thảo về "Sự hợp tác của người giáo dân với thừa tác vụ linh mục",
Đức thánh cha đã nhấn mạnh tới sự cần thiết làm sáng tỏ và phân biệt những
nghĩa chữ lâu nay gán cho danh từ "thừa tác vụ" (ministerium, ministère)
trong ngôn ngữ thần học và giáo luật [x. Gioan Phaolô II, Diễn văn tại cuộc Hội thảo về “Sự tham gia
của giáo dân vào thừa tác vụ Linh mục” (22/4/1994), n.3].
§1 "Đã qua một thời gian, có thói quen gọi là thừa tác vụ (servitium, ministère), không
những chỉ các nhiệm vụ (officia,
offices) và các phận vụ (munera,
charges) do các mục tử thực hành bằng vào bí tích Truyền Chức, nhưng cũng gọi
là thừa tác vụ những phần vụ và trách vụ do những tín hữu không được tấn phong
thực hành, bằng vào chức tư tế do bí tích Rửa Tội. Vấn đề ngôn ngữ còn trở nên
phức tạp và tế nhị hơn khi công nhận tất cả mọi người tín hữu có khả năng thực
hành – với tư cách là người bổ sung, do việc ủy nhiệm chính thức phía các mục
tử – một số chức vụ riêng biệt hơn dành cho giáo sĩ, nhưng lại không đòi hỏi
phải có ấn tín Truyền Chức. Phải công nhận rằng ngôn ngữ trở nên bất định, hỗn
tạp, và như vậy là vô ích để diễn tả giáo lý đức tin, mỗi khi bằng bất cứ cách
nào, che giấu sự khác biệt "về bản chất chớ không phải cấp bậc mà thôi" hiện hữu giữa chức tư tế do bí tích Rửa Tội và chức tư tế được tấn
phong" [Ibid].
§2 "Điều này đã cho phép, trong vài trường hợp, nới
rộng từ thừa tác vụ đến những phần vụ riêng của giáo dân, vì những trách
vụ đó, theo mức độ của chúng, cũng là một sự tham dự vào chức tư tế độc nhất
của Chúa Kitô. Những nhiệm vụ tạm
thời giao phó cho họ, ngược lại, chỉ là hậu quả của một ủy nhiệm của Giáo Hội.
Chỉ có một sự qui chiếu vĩnh viễn với nguồn mạch duy nhất là "sứ vụ của Chúa Kitô" [...] cho phép, trong một mức độ nào đó. Áp dụng
từ thừa tác viên cho các giáo dân,
không mơ hồ : nghĩa là từ đó không được hiểu và sống như một nguyện vọng trái
với thừa tác vụ được thụ phong, hay
là như một sự xói mòn từ từ đặc tính riêng của nó.
Theo
nghĩa gốc này, (danh) từ thừa tác vụ (servitium)
chỉ mô tả công trình do đó các thành phần Giáo Hội nối dài, cho chính mình và
cho thế giới, "sứ mệnh và tác
vụ của Chúa Kitô". Ngược lại khi
(danh) từ đó được dùng theo nghĩa riêng trong tương quan và so sánh giữa các trách vụ và phần vụ, thì bấy giờ nên cảnh báo rõ ràng rằng duy chỉ nhờ sự Truyền Chức Thánh, (danh) từ
đó mới đạt sự đầy đủ và nguyên nghĩa mà truyền thống đã dành cho nó" [x. Gioan Phaolô II, Diễn văn
tại cuộc Hội thảo về “Sự tham gia của người giáo dân vào thừa tác vụ Linh mục”
(22/4/1994), n.3].
§3 Người
tín hữu không được tấn phong có thể được gọi chung là "thừa tác viên bất thường" chỉ khi họ được thẩm quyền kêu mời thực hành,
trong các chức vụ bổ sung mà thôi, những trách vụ nói trong can. 230, § 3, [ x. Hội Đồng Giáo Hoàng Giải Thích Văn Bản Luật
Pháp, Response (1/6/1988) : AAS 80
(1988), p.1373] và các can. 943 và 1112. Dĩ nhiên
ta có thể dùng (danh) từ cụ thể quyết định theo giáo luật nhiệm vụ được giao
phó, như ví dụ giáo lý viên, thầy cầm đèn, thầy đọc sách, v.v...
Sự
ủy nhiệm tạm thời trong các việc phụng vụ nói trong can. 230, § 2 không đặt một tên riêng nào cho người tín hữu không được tấn phong [x. HĐGH Giải Thích
Văn Bản Luật pháp, Response (11/7/1992)
: AAS 86 (1994), pp. 541-542. Bất cứ nghi thức nào liên hệ với việc ủy nhiệm
những người không được tấn phong để hợp tác trong thừa tác vụ giáo sĩ, không
được có gì tương tự như Nghi Thức Truyền Chức Thánh, nghi thức đó cũng không
được có một hình thức giống như Nghi Thức trao ban tác vụ đọc sách hay giúp lễ].
Như vậy điều bất hợp pháp
nếu gọi những tín hữu không được tấn phong là "mục
tử", “tuyên úy", "tuyên
úy nhà nguyện", "người tổ chức", "người
điều hành" hay là bằng những
danh xưng nào khác mà, dù thế nào, có thể lẫn lộn vai trò của họ với vai trò vị
mục tử, danh từ chỉ dành riêng cho Giám Mục và Linh mục [Những ví dụ đó phải
gồm tất cả những phát biểu từ ngữ giống hay tương đương trong ngôn ngữ của
nhiều nước, và chỉ một vai trò lãnh đạo hoặc một sinh hoạt thay thế].
[8]
Vì thế tôi cảm thấy có nhiệm vụ phải lên tiếng một cách cương
quyết để trong Cử Hành Thánh Thể, những quy luật phụng vụ được tuân giữ một
cách trung thành. Những quy luật đó là một cách diễn tả cụ thể tính giáo hội
đích thực của Bí Tích Thánh Thể ; đó là ý nghĩa sâu xa nhất của chúng. Phụng vụ
không bao giờ là một sở hữu riêng tư của ai, kể cả chủ tế và cộng đoàn cử hành
các Mầu Nhiệm đó. Thánh Tông Đồ Phaolô phải lên tiếng mạnh mẽ với cộng đoàn
Côrintô để tố cáo những lỗi phạm nghiêm trọng đối với việc Cử Hành Thánh Thể,
những lỗi phạm đã đưa đến những chia rẽ (schismata) và bè phái (airéseis)
(x. 1Cr 11, 17-34). Vào thời đại chúng ta cũng vậy, việc tuân giữ luật phụng vụ
phải được khám phá lại và nêu rõ như một phản ánh và chứng từ của Giáo Hội duy nhất
và phổ quát hiện diện trong tất cả mọi cử hành Bí Tích Thánh Thể. Linh mục nào
trung thành cử hành Thánh Lễ theo những quy luật phụng vụ và cộng đoàn nào tuân
theo đó, chứng tỏ tình yêu của họ đối với Giáo Hội một cách âm thầm nhưng rõ
rệt. Thật vậy, để tăng cường ý thức sâu xa ấy về luật phụng vụ, tôi đã yêu cầu
những cơ quan chuyên trách trung ương Tòa Thánh soạn thảo một văn kiện chuyên
môn hơn với những nhắc nhở về luật, trong vấn đề có tầm quan trọng lớn lao này.
Không ai được phép đánh giá thấp Mầu Nhiệm được trao trong tay chúng ta : nó
cao cả đến nỗi không ai có thể đối xử với nó theo ý mình, không tôn trọng tính
cách linh thánh và chiều kích phổ quát của nó.
[9] x. ibidem, n. 41 ; Công Đồng Chung Vatican II,
Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium,
n. 11 ; Sắc lệnh về chức vụ và đời sống các linh mục Presbyterorum ordinis, nn. 2, 5, 6 ; Sắc lệnh về nhiệm vụ mục tử
của các Giám Mục trong Giáo Hội Christus
Dominus, n. 30 ; Sắc lệnh về đại kết Unitatis
redintegratio, 21/11/1964, n. 15 ; Thánh Bộ Nghi Lễ, Huấn thị Eucharisticum mysterium, nn. 3 và 6 ;
Sách Lễ Rôma, Quy chế tổng quát, n. 16.
[10] x. Công Đồng Chung Vatican
II, Hiến chế về Phụng Vụ thánh Sacrosanctum Concilium, n. 26 ; Sách Lễ
Rôma, Quy chế tổng quát, n. 91.
[11] 1 Pr 2,9 ; x.
2,4-5.
[12] Sách Lễ Rôma, Quy chế
tổng quát, n. 91 ; x. Công Đồng Chung Vatican II, Hiến chế về Phụng Vụ thánh Sacrosanctum
Concilium, n. 14.
[13] Công Đồng Chung Vatican
II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, n. 10.
[14] x. Thánh Tôma Aquinô,
Tổng Luận Thần Học, III, q. 63, a. 2.
[15] x. Công Đồng Chung Vatican
II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, n. 10 ; x. Đức Gioan-Phaolô
II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 28.
[16] x. Cv 2,42-47.
[17] x. Rm 12,1.
[18] x. 1 Pr 3,15 ;
2,4-10.
[19] x. Đức Gioan-Phaolô
II, Thđ Ecclesia de Eucharistia, nn. 12-18 ; Id., Thư Dominicae
Cenae, 24/2/1980, n. 9.
[20]
Đức Gioan-Phaolô II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n.
10.
[21]
x. Công Đồng Chung Vatican II, Hiến chế về Phụng Vụ thánh Sacrosanctum
Concilium, nn. 30-31.
[22] x. Bộ Phụng Tự, Huấn thị
Liturgicae instaurationes, n. 1 (1970).
[23] x. Sách Lễ Rôma, Thứ hai
sau chúa nhật V mùa Chay, Lời tổng nguyện.
[24] Đức Gioan-Phaolô II,
Tông thư Novo Millennio ineunte, 6/1/2001, n. 21 (2001) ; x. Jn 20,
28.
[25] x. Đức Piô XII, Thông
điệp Mediator Dei ; cf. Công Đồng Chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo
Hội Lumen gentium, n. 67 ; Đức Phaolô VI, Tông huấn Marialis cultus, 11/2/1974,
n. 24 ; Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, Chỉ nam về lòng sùng kính bình dân
và Phụng Vụ, 17/12/2001.
[26] x. Đức Gioan-Phaolô
II, Tông thư Rosarium Virginis Mariae, 16/10/2002.
[27]
Đức Piô XII, Thông điệp Mediator Dei : AAS 39
(1947) p. 586-587.
[28]
x. Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, Huấn thị Varietates
legitimae, n. 22 (1995).
[30] Đức
Gioan-Phaolô II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 29 ; x. Công Đồng
Chung Latran IV, 11-30/11/1215, chap. 1 : DS 802 ; Công Đồng Chung Trente, Khoá
XXIII, 15/7/1563, Giáo lý và các khoản luật về truyền chức thánh, chap. 4 : DS
1767-1770 ; Đức Piô XII, Thông điệp Mediator Dei (1947).
[31] x. Bộ Giáo Luật, can. 230 § 2 ; x. SLR, Quy chế tổng quát, n.
97.
[32]
x. Sách Lễ Rôma, Quy chế tổng quát, n. 109.
[33]
x. Đức Phaolô VI, Tông thư dưới hình thức tự sắc Ministeria
quaedam, 15/8/1972, nn.VI-XII : Pontificale Romanum, được thực hiện theo nghị quyết của Thánh Công Đồng Chung Vaticanô II,
được Đức thánh cha Phaolô VI công bố, Nghi
thức ban tác vụ đọc sách và giúp lễ, Nghi thức tiếp nhận ứng viên lên chức phó tế
và linh mục, de sacro caelibatu amplectendo, ấn bản mẫu, ngày 3/121972, Typis
Polyglottis Vaticanis, 1973 ; Bộ Giáo Luật, can. 230 § 1 ; Sách Lễ Rôma,
Quy chế tổng quát, nn. 98-99, 187-193.
[34]
x. Sách Lễ Rôma, Quy chế tổng quát, nn. 187-190, 193 ; Bộ
Giáo Luật, can. 230 §§ 2-3.
[35]
x. Công Đồng Chung Vatican II, Hiến chế về Phụng Vụ thánh Sacrosanctum
Concilium, n. 24 ; Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, Huấn thị Inaestimabile
donum, nn. 2 và 18 (1980) ; Sách Lễ Rôma, Quy chế tổng quát, nn. 101, 194-198 ; Bộ Giáo Luật, can. 230 §§ 2-3.
[36]
x. Sách Lễ Rôma, Quy chế tổng quát, nn. 100-107.
[37]
Ibidem, n. 91 ; x. Công Đồng Chung
Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ Sacrosanctum Concilium, n. 28.
[38]
x. Đức Gioan-Phaolô II, Huấn từ cho Hội Đồng Giám Mục vùng
Antilles, 7/5/2002, n. 2 ; Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Christifideles
laici, 30/12/1988, n. 23 ; Bộ Giáo Sĩ và các cơ quan khác, Huấn thị Ecclesiae
de mysterio, 15/8/1997, Nguyên tắc thần học, n. 4.
[39]
x. Công Đồng Chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ Sacrosanctum
Concilium, n. 19.
[40]
x. Thánh Bộ Kỷ Luật Bí Tích, Huấn thị Immensae caritatis, 29/01/1973.
[41]
x. Thánh Bộ Nghi Lễ, Huấn thị De Musica sacra, 3/9/1958,
n. 93c.
[42]
x. Hội Đồng Giáo Hoàng về Giải Thích các văn bản Luật,
Responsio ad propositum dubium, 11/7/1992 (1994) ; Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí
Tích, Thư gửi các Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục về những chức năng phụng vụ do giáo
dân thực hiện, 15/3/1994 : Notitiae 30 (1994) pp. 333-335, 347-348.
[43] x. Đức Gioan-Phaolô II,
Tông hiến Pastor bonus, art. 65 (1988).
[44] x. HĐGH về Giải Thích
các văn bản Luật, Responsio ad propositum dubium, 11/7/1992 ; Bộ Phụng Tự và Kỷ
Luật Bí Tích, Thư gửi các Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục về những chức năng phụng vụ
do giáo dân thực hiện, 15/3/1994 ; Thư cho một giám mục, 27/7/2001 : Notitiae
38 (2002) 46-54.
[45] x. Bộ Giáo Sĩ và các cơ
quan khác, Huấn thị Ecclesiae de mysterio, Những dự định thực hành, n.
3.
[46] Bộ Giáo Luật, can. 900
§ 1 ; x. Công Đồng Chung Latran IV, 11-30/11/1215, chap. 1 : DS 802 ; Clément
VI, Lettre Mekhitar, Catholicos d’Armnie, Super quibusdam, 29/9/1351 : DS 1084
; Công Đồng Chung Trente, Khoá XXIII, 15/7/1563, Doctrine et canons sur le
sacrement de l’Ordre, chap. 4 : DS 1767-1770 ; Đức Piô XII, Thông điệp Mediator Dei : AAS 39 (1947) p. 553.
[47] x. Bộ Giáo Luật, can.
230 § 3 ; Đức Gioan-Phaolô II, Huấn từ cho Symposium về “sự cộng tác của giáo dân
vào thừa tác mục vụ của các linh mục” ngày 22/4/1994, n. 2 : L’Osservatore Romano,
23/4/1994 ; Bộ Giáo Sĩ và các cơ quan khác, Huấn thị Ecclesiae de mysterio, Lời nói đầu : AAS 89 (1997) pp. 852-856.
[48] x. Đức Gioan-Phaolô II,
Thông điệp Redemptoris missio, nn.
53-54 ; Bộ Giáo Sĩ và các cơ quan khác, Huấn thị Ecclesiae de mysterio, Lời
nói đầu.
[49] x. Công Đồng Chung
Vatican II, Ad gentes, 7/12/1965, n. 17
; Đức Gioan-Phaolô II, Thông điệp Redemptoris
missio, n. 73.
[50] x. Bộ Giáo Sĩ và các cơ
quan khác, Huấn thị Ecclesiae de mysterio, Những dự định thực hành, art.
8 § 2.
[51]
x. Đức Gioan-Phaolô II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n.
[52]
Bộ Giáo Luật, can. 900 § 1.
[53]
x. ibidem, can. 910 § 1 ; x. Đức Gioan-Phaolô II, Thư Dominicae Cenae, n. 11 : AAS 72 (1980) p.
142 ; Bộ Giáo Sĩ và các cơ quan khác, Huấn thị Ecclesiae de mysterio, Những
dự định thực hành, art. 8 § 1.
[54] x. Bộ Giáo Luật, can.
230 § 3.
[55] x. Bộ Kỷ Luật Bí Tích,
Huấn thị Immensae caritatis, Lời nói đầu (1973) ; Đức Phaolô
VI, Tông thư dưới hình thức tự sắc Ministeria
quaedam, 15/8/1972 : ; Sách Lễ Rôma, Phụ Lục III : Nghi thức ủy nhiệm thừa tác
viên ngoại thường trao Mình Thánh Chúa, p. 1253 ; Bộ Giáo Sĩ và các cơ quan khác,
Huấn thị Ecclesiae de mysterio, Những dự định thực hành, art. 8 § 1.
[56] x. Bộ Bí Tích và Phụng
Tự, Huấn thị Inaestimabile donum, n. 10 : AAS 72 (1980) p. 336 ; Hội
Đồng Giáo Hoàng về Giải Thích các văn bản Luật, Responsio ad propositum dubium, 11/7/1984.
[57] x. Bộ Kỷ Luật Bí Tích,
Huấn thị Immensae caritatis, n. 1 :
AAS 65 (1973) pp. 264-271, ở đây pp. 265-266 ; Hội Đồng Giáo Hoàng về Giải Thích
các văn bản Luật, Responsio ad propositum dubium, 1/6/1988 ; Bộ Giáo Sĩ và các
cơ quan khác, Huấn thị Ecclesiae de mysterio, Những dự định thực hành,
art. 8 § 2 : AAS 89 (1997) p. 871.
[58] x. Bộ Giáo Luật, can.
767 § 1.
[59] x. ibidem, can. 766.
[60] x. Bộ Giáo Sĩ và các cơ
quan khác, Huấn thị Ecclesiae de mysterio, Những dự định thực hành, art.
2 §§ 3-4 : AAS 89 (1997) p. 865.
[61] x. Đức Gioan-Phaolô
II, Tông thư Dies Domini, nhất là nn.
31-51 (1998) ; Tông thư Novo Millennio ineunte, 6/1/2001, nn. 35-36 ; Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 41.
[62] Công Đồng Chung Vatican
II, Sắc lệnh về chức vụ và đời sống các linh mục Presbyterorum ordinis, n. 6 ; x. Đức Gioan-Phaolô II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, nn. 22, 33.
[63] x. Bộ Nghi Lễ, Huấn thị
Eucharisticum mysterium, n. 26 (1967) ; Bộ Phụng Tự, Chỉ nam về các cử hành Chúa
nhật khi vắng linh mục Christi Ecclesia,
2/6/1988, nn. 5 và 25.
[64] x. Bộ Phụng Tự, Chỉ nam
về các cử hành Chúa nhật khi vắng linh mục Christi
Ecclesia, n. 18 (1988).
[65] x. Đức Gioan-Phaolô
II, Thư Dominicae Cenae, n. 2 (1980).
[66] x. Đức Gioan-Phaolô
II, Tông thư Dies Domini, n. 49 ; Thông
điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 41 ;
Bộ Giáo Luật, can. 1246-1247.
[67] Bộ Giáo Luật, can. 1248
§ 2 ; x. Bộ Phụng Tự, Chỉ nam về các cử hành Chúa nhật khi vắng linh mục Christi Ecclesia, 2/6/1988, nn. 1-2.
[68]
Đức Gioan-Phaolô II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 33.
[69]
x. Bộ Phụng Tự, Chỉ nam về các cử hành Chúa nhật khi vắng linh
mục Christi Ecclesia, n. 22.
[70]
Đức Gioan-Phaolô II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 30 ; x. Hội Đồng Giáo Hoàng cổ võ sự
Hiệp Nhất các kitô-hữu, Chỉ nam về việc cổ võ các nguyên lý và quy tắc về hiệp
nhất, La recherche de l’unité,
25/3/1993, n. 115.
[71]
x. HĐ Giáo Hoàng cổ võ sự Hiệp Nhất các kitô-hữu, Chỉ nam về
việc cổ võ các nguyên lý và quy tắc về hiệp nhất, La recherche de l’unité, n. 115.