C. Các Chúa Nhật III, IV và V Mùa Chay
69.
Về ba Chúa nhật tiếp sau, cho năm A được sử dụng các bài Tin Mừng theo truyền
thống nói về khai tâm Kitô giáo: Người phụ nữ Samari, người mù từ lúc mới sinh
và ông Ladarô sống lại. Vì các bài Tin Mừng này có tầm quan trọng, nên cũng có
thể được sử dụng cho các năm B và C, nhất là tại những nơi có anh chị em tân tòng.
Tuy vậy, các bài đọc khác cũng được đề nghị : cho năm B, các bài Tin Mừng
theo thánh Gioan loan báo việc tôn vinh Đức Kitô nhờ Thập Giá và Phục Sinh, và
cho năm C, các bài về việc sám hối… Các bài đọc về người phụ nữ Samari, người
mù từ lúc mới sinh và ông Ladarô sống lại, từ nay được đọc trong ngày Chúa nhật,
nhưng chỉ buộc đọc một trong ba năm (năm A), còn trong các năm khác, có thể chọn
đọc các bài này trong tuần nhờ ba “thánh lễ tuỳ nghi” mà người ta sẽ tự do sử dụng
vào một ngày thích hợp trong tuần (OLM 97 và 98). Sự nhấn mạnh đến giáo lý là
nét đặc thù của Mùa Chay được bày tỏ rõ ràng trong các bài đọc và lời cầu nguyện
của năm A. Mối liên hệ giữa một bên là các chủ đề về nước, ánh sáng và sự sống,
và một bên là phép thanh tẩy, thật rõ nét. Qua các bài đọc Thánh Kinh và lời
nguyện Phụng Vụ, Giáo Hội hướng dẫn các anh chị em tân tòng đến việc khai tâm
bí tích, điều sẽ được hoàn trọn trong lễ Phục Sinh. Giai đoạn cuối cùng này
trong việc chuẩn bị có tầm quan trọng nền tảng, như có thể nhận thấy trong các
lời nguyện được đọc vào dịp cử hành bỏ phiếu.
Còn
các tín hữu khác thì sao ? Thật là hữu ích khi vị giảng thuyết có thể mời thính
giả coi Mùa Chay như một khoảng thời gian để củng cố bí tích Thanh Tẩy của họ
và thanh luyện đức tin. Tiến trình này có thể được giải thích dưới ánh sáng về
quan niệm mà dân Ítraen đã thủ đắc từ kinh nghiệm của cuộc Xuất Hành. Đây là một
biến cố mấu chốt để huấn luyện Ítraen thành Dân Thiên Chúa, tức là để khám phá
ra những giới hạn và bất trung của họ, nhưng cũng để nhận ra tình yêu trung tín
và vững bền Thiên Chúa dành cho họ. Tiếp đến, biến cố này còn được sử dụng như
hình mẫu giải thích sự tiến bước với Thiên Chúa, trong suốt dòng lịch sử
Ítraen. Như vậy, đối với chúng ta : Mùa Chay là thời gian, mà trong sa mạc là
cuộc sống nơi trần thế, với những khó khăn, những sợ hãi và bất trung, chúng ta
khám phá ra sự thân cận của Thiên Chúa, bất kể mọi thứ có thể gây cản trở, Người
vẫn đưa dẫn chúng ta về Đất Hứa. Khoảnh khắc nền tảng cho đời sống đức tin của
chúng ta tạo nên một thách đố. Các ân sủng đã lãnh nhận trong bí tích Thanh Tẩy,
khi chúng ta được sinh ra, không thể bị lãng quên, cho dù tội lỗi chất chồng và
những sai lầm của con người có thể che mờ những ân sủng đó. Sa mạc là nơi mà đức
tin chúng ta bị thử thách, nhưng cũng tại đó, đức tin của chúng ta có thể được
thanh tẩy và củng cố nếu chúng ta biết đặt đời sống của mình vào Thiên Chúa, mặc
dù có những kinh nghiệm trái ngược. Ba Chúa nhật này đều có chủ đề chính là
cách thức mà đức tin có thể được tăng cường liên tục, bất chấp tội lỗi (người
phụ nữ Samari), sự ngu dốt (người mù từ thuở mới sinh) và cái chết (ông
Ladarô). Đó là những “sa mạc” mà chúng ta được mời gọi vượt qua trong hành
trình đời sống, và cũng là nơi chúng ta nhận ra mình không đơn độc, vì có Thiên
Chúa ở cùng chúng ta.
70.
Mối liên hệ giữa những người chuẩn bị lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy và các tín hữu
làm cho Mùa Chay thêm sinh động, vì vậy, vị giảng thuyết cần phải cố gắng tạo
nên mối liên kết giữa toàn bộ cộng đoàn và tiến trình chuẩn bị cho những người
sắp được thanh tẩy. Khi cử hành các cuộc bỏ phiếu, rất nên đọc công thức liên
quan đến người đỡ đầu, được ghi trong Kinh Nguyện Thánh Thể ; điều này có thể
giúp mỗi người trong cộng đoàn nhớ lại rằng họ có vai trò chủ động phải thực
thi là “người trợ giúp” cho người sắp chịu thanh tẩy, đồng thời họ có bổn phận
dẫn đưa những người khác về với Đức Kitô. Chúng ta là các tín hữu, như người phụ
nữ Samari, chúng ta được mời gọi chia sẻ đức tin của mình với người khác. Chính
nhờ vậy, vào lễ Phục Sinh, những người tân tòng có thể thông báo với toàn thể cộng
đoàn rằng : “Không còn phải vì lời các bạn kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính
chúng ta đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng Cứu Độ trần gian”.
71.
Chúa nhật III Mùa Chay một lần nữa đưa chúng ta vào sa mạc, cùng với Đức Giêsu,
và trước Người, cùng với dân Ítraen. Dân Ítraen đã lâm cảnh khát nước và sự việc
này đã làm họ nghi ngờ nền tảng vững chắc của hành trình họ đang thực hiện theo
lời mời gọi của Thiên Chúa : Tình trạng có vẻ như tuyệt vọng, cho đến lúc một sự
trợ giúp hoàn toàn bất ngờ : Ông Môsê đã lấy gậy đập vào tảng đá cứng, và nước
đã vọt ra ! Tuy nhiên, vẫn còn một thứ rất cứng và không thể lay chuyển, đó là
tâm hồn con người. Thánh vịnh đáp ca đưa ra lời kêu mời mạnh mẽ với tất cả những
ai hát hay nghe : “Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa ! Người phán :
các người chớ cứng lòng”. Trong bài đọc II, thánh Phaolô tuyên bố rằng niềm tự
hào duy nhất của chúng ta là đức tin, nhờ Đức Kitô, đức tin làm cho ta đạt được
ân sủng của Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch hy vọng. Niềm hy vọng này không phai
nhạt bởi vì Thiên Chúa đã đổ tràn tình yêu vào lòng chúng ta, và như thế làm
cho tâm hồn chúng ta có thể yêu mến. Thiên Chúa thông ban tình yêu cho chúng
ta, không phải để thưởng công, vì Người đã thông ban ngay khi chúng ta còn là tội
nhân, và vì Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Trong những câu này, thánh Tông Đồ mời
gọi chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệm Ba Ngôi chí thánh cũng như các nhân đức hướng
thần là tin, cậy, mến.
Cuộc
gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari diễn ra trong bối cảnh này, qua một
cuộc đối thoại thân thiết gợi lên những thực tại nền tảng liên quan đến sự sống
đời đời, và việc thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực. Đây là một cuộc đối thoại
đầy ánh sáng, vì nó phản ánh việc huấn luyện đức tin. Khởi đầu cuộc gặp gỡ, cuộc
tranh luận giữa Đức Giêsu và người phụ nữ diễn ra ở những mức độ khác nhau. Do
tính khí thực dụng và cụ thể, người phụ nữ chú tâm vào nước và cái giếng. Đức
Giêsu phớt lờ mối quan tâm cụ thể này, và Người nhấn mạnh đến nước ban sự sống
là ân sủng… cho đến khi những mục tiêu rất khác biệt gặp nhau và hai người gặp
gỡ nhau. Sau đó, Đức Giêsu đề cập đến câu chuyện đau thương nhất trong cuộc đời
người phụ nữ, tình trạng hôn nhân bất hợp pháp của chị. Điều này làm cho chị nhận
ra sự mỏng giòn của chị và ngay tức khắc, mở tâm trí của chị trước mầu nhiệm
Thiên Chúa ; như chị cho thấy qua việc nêu lên những câu hỏi về việc thờ phượng
phải có đối với Thiên Chúa : Vào lúc chị đón nhận lời mời tin Đức Giêsu là Đấng
Mêsia, chị được tràn đầy ân sủng của Thiên Chúa, và chị đã chạy về gặp những
người trong thành để chia sẻ cho họ điều chị vừa được biết.
Khi
đức tin của chúng ta được nuôi dưỡng bởi lời Thiên Chúa, bí tích Thánh Thể và
việc chu toàn thánh ý Chúa Cha, đức tin ấy sẽ giúp chúng ta mở ra trước mầu nhiệm
Thiên Chúa, được minh hoạ qua hình ảnh “nước hằng sống”. Ông Môsê đã đập vào tảng
đá và nước đã vọt ra ; người lính đã đâm vào cạnh sườn Đức Kitô, và máu cùng nước
đã chảy ra. Và đó là điều mà Giáo Hội kính nhớ khi đặt trên môi miệng những người
đang tiến lên rước lễ: “Chúa nói : “Ai uống nước tôi cho, thì nơi người ấy, nước
đó sẽ thành một mạch nước chảy vọt, mang lại sự sống đời đời”.
72.
Không chỉ có chúng ta là những người khát nước. Lời tiền tụng của ngày lễ này đọc
như sau : “Khi xin người phụ nữ Samari nước uống, Người đã ban cho bà ơn đức
tin. Vì Người tha thiết ước mong bà tin vững mạnh, nên đã đốt lên trong lòng bà
ngọn lửa yêu mến Thiên Chúa”. Đức Giêsu đã ngồi bên bờ giếng vì mỏi mệt và khát
nước. (Thật vậy, vị giảng thuyết có thể nêu rõ sự kiện là các bài Tin Mừng của
ba Chúa nhật Mùa Chay này cho thấy bản tính nhân loại của Đức Giêsu : sự mỏi mệt
Người trải qua khi ngồi bên bờ giếng, cử chỉ Người lấy bùn trộn với nước miếng
để chữa lành người mù từ thuở mới sinh, nước mắt Người chảy ra khi đứng trước mộ
ông Ladarô). Cơn khát của Đức Giêsu đạt tới cao điểm vào những giây phút cuối đời
khi Người kêu lên lúc đang bị treo trên thập giá : “Tôi khát !”. Điều này có
nghĩa là Đức Giêsu muốn hoàn thành thánh ý của Đấng đã sai Người và hoàn tất
công trình cứu độ. Rồi sự sống vĩnh cửu vọt ra từ cạnh sườn bị đâm thủng của
Người, và sự sống ấy được thông ban cho chúng ta qua các bí tích. Khi chúng ta
thờ phượng trong thần khí và sự thật, thì lúc đó chúng ta lãnh nhận lương thực
cần thiết để tiếp tục tiến bước trên hành trình của mình.
73.
Chúa nhật IV Mùa Chay tràn ngập ánh sáng; điều này được nêu rõ trong Chúa nhật “Laetare”
này qua màu sắc tươi sáng của phẩm phục Phụng Vụ và hoa được được trang trí
trong nhà thờ. Mối liên hệ giữa mầu nhiệm Phục Sinh, bí tích Thanh Tẩy và ánh
sáng được diễn tả ngắn gọn qua câu văn sau đây của bài đọc II: “Tỉnh giấc đi, hỡi
người còn đang ngủ ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào ! Đức Kitô sẽ chiếu sáng
ngươi”. Mối liên hệ này gợi lại và đưa đến một soạn thảo sau này trong lời tiền
tụng: “Nhờ mầu nhiệm Nhập Thể, Người dẫn đưa nhân loại đang lần bước trong u tối
đến nguồn ánh sáng đức tin. Nhờ phép Rửa mang lại đời sống mới, Người giải
thoát những kẻ sinh ra đã mắc tội truyền, và nâng lên hàng nghĩa tử của Thiên
Chúa”. Một sự soi sáng như thế, mà nguồn mạch là phép Rửa, sẽ được củng cố mỗi
lần khi chúng ta lãnh nhận Thánh Thể. Thời điểm này được nhấn mạnh qua lời của
người mù từ thuở mới sinh, và được trích lại trong ca hiệp lễ: “Chúa xức bùn
vào mắt tôi: tôi đi, tôi rửa, tôi thấy, và tôi tin Thiên Chúa”.
74.
Tuy vậy, vào Chúa nhật IV Mùa Chay này, chúng ta không chiêm ngắm bầu trời
không có bóng mây: Thật thế, tiến trình cho chúng ta, cuối cùng, “nhìn thấy”
thì trong thực tế phức tạp hơn nhiều so với điều được mô tả ngắn gọn trong
trình thuật chữa lành người mù từ thuở mới sinh. Bài đọc một cho chúng ta nhận
định rằng: “Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó… người phàm chỉ
thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng”. Đây là một lời cảnh
báo bổ ích cho những người sắp lãnh nhận phép Rửa, mà sự chờ đợi tăng dần theo
thời gian khi lễ Phục Sinh đã gần kề, cũng như cho toàn thể cộng đoàn. Lời nguyện
hiệp lễ khẳng định rằng Thiên Chúa soi chiếu tất cả những ai đến từ thế giới
này: tuy nhiên, thách đố phát xuất từ chúng ta tiến gần nhiều hay ít với ánh
sáng, hay từ điều mà chúng ta xa cách. Như vậy vị giảng thuyết có thể mời thính
giả lưu tâm rằng người mù từ thuở mới sinh đã được nhìn thấy lại cách từ từ,
trong khi các địch thủ của Đức Giêsu lại bị tác động từ sự mù loà như thế lại
không ngừng tăng lên. Người vừa được chữa lành bắt đầu gọi người chữa lành cho
mình là “Người tên là Giêsu”; rồi sau đó, anh xác định Người là một vị ngôn sứ;
và sau cùng, anh tuyên bố: “Thưa Ngài, tôi tin”, rồi anh sấp mình xuống trước mặt
Người và thờ lạy Người. Về phần mình, những người Pharisêu lại càng lúc trở nên
mù quáng hơn: thoạt đầu, họ chấp nhận đã có phép lạ xảy ra, và sau đó họ từ chối
coi đây là một phép lạ, và sau cùng họ trục xuất người vừa được chữa lành ra khỏi
hội đường. Trong suốt câu chuyện này, những người Pharisêu hoàn toàn tin chắc
vào điều họ đã biết, trong khi người mù từ thuở mới sinh nhìn nhận sự ngu dốt của
mình. Đoạn văn Tin Mừng kết thúc với lời cảnh báo của Đức Giêsu: Sự xuất hiện của
Người tạo nên một “khủng hoảng”, theo nghĩa đen của từ ngữ, tức là một cuộc
phán xét: Người đem lại ánh sáng cho người mù, còn những kẻ vốn nhìn thấy lại
trở nên đui mù. Trước sự chống đối của người Pharisêu, Đức Giêsu trả lời: “Nếu
các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng:
‘chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn”. Sự soi sáng được tiếp nhận trong
phép Rửa phải được trải dài trên những khoảng sáng và khoảng tối trong cuộc lữ
hành của chúng ta; chính vì vậy chúng ta cầu xin trong lời nguyện nhập lễ: “Lạy
Chúa là ánh sáng muôn đời… xin rộng ban ân sủng làm cho tâm hồn chúng con được
bừng sáng huy hoàng, để chúng con hằng biết suy tưởng những điều đẹp lòng Chúa,
và chân thành yêu mến Chúa mỗi ngày một hơn.”
75.
“Ladarô, bạn của chúng ta, đang yên giấc; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây”.
Chúa nhật trước, cộng đoàn Phụng Vụ đã được nghe lời khích lệ của thánh Phaolô
về việc đánh thức người đang ngủ, trong Chúa nhật này, lời ấy được bày tỏ cách
đầy khâm phục trong dấu lạ cuối cùng, cũng là một trong những “dấu lạ” lớn nhất
do Đức Giêsu thực hiện và được Tin Mừng thứ IV thuật lại, đó là việc làm cho
ông Ladarô sống lại. Tính cách quyết định của sự chết, được củng cố qua sự kiện
ông Ladarô đã chết được bốn ngày, dường như vẫn còn là trở ngại lớn hơn việc
làm cho nước vọt ra từ tảng đá, hay đem lại ánh sáng cho người mù từ thuở mới
sinh. Tuy nhiên, trước tình cảnh này, cô Mátta cũng đưa ra một lời tuyên xưng đức
tin giống như của ông Phêrô: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con
Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”. Niềm tin của cô không chỉ dựa trên điều
Thiên Chúa có thể thực hiện trong tương lai, nhưng trên điều Thiên Chúa đang thực
hiện ở đây và lúc này: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống”. Thành ngữ “Tôi
là”, điều xuyên suốt trong toàn bộ trình thuật Gioan, là một ám chỉ rõ ràng về
mặc khải chính Thiên Chúa đã tỏ cho ông Môsê; ta thấy thành ngữ này xuất hiện
trong tất cả các bài Tin Mừng của các Chúa nhật này. Thật vậy, khi người phụ nữ
Samari nói về Đấng Mêsia, Đức Giêsu trả lời: “Đấng ấy chính là tôi, người đang
nói với chị đây”. Trong trình thuật chữa lành người mù từ thuở mới sinh, Đức
Giêsu nói: “Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian…” Còn hôm
nay, Người nói: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống”. Điều quan trọng cần
có để lãnh nhận sự sống này là đức tin: “Chị có tin thế không?” Mặc dù rất nhiệt
thành tuyên xưng niềm tin, nhưng cô Mátta vẫn lưỡng lự: Khi Đức Giêsu bảo hãy dỡ
bỏ phiến đá đậy ngôi mộ, cô phản đối vì sợ mùi hôi bốc ra. Như vậy, chúng ta được
nhắc nhở lần nữa rằng theo Chúa Giêsu là một sự dấn thân suốt cả đời. Dù chúng
ta đã chuẩn bị lãnh các bí tích Khai Tâm trong hai tuần nữa, hay dù chúng ta là
những Kitô hữu lâu năm, tất cả chúng ta đều phải liên tục dấn mình vào một cuộc
chiến đấu thiêng liêng, với mục đích là tăng cường và đào sâu niềm tin của
chúng ta vào Đức Kitô.
76.
Việc làm cho ông Ladarô sống lại là hoàn thành lời Thiên Chúa hứa được công bố
qua miệng ngôn sứ Êdêkien trong bài đọc I: Ta sẽ mở huyệt cho các ngươi và đưa
các ngươi lên khỏi huyệt. Trọng tâm của mầu nhiệm Phục Sinh hệ tại việc Đức
Kitô đến để chịu chết và sống lại, và để hoàn thành nơi chúng ta điều Người đã
làm cho ông Ladarô: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi”. Người giải
thoát chúng ta không chỉ khỏi cái chết thể lý, nhưng còn khỏi bao nhiêu cái chết
khác vẫn đang hành hạ và làm chúng ta đui mù: tội lỗi, thất bại, đổ vỡ. Vì vậy,
đối với chúng ta là những Kitô hữu, điều thiết yếu là phải luôn dìm mình trong
mầu nhiệm Phục Sinh. Điều này được công bố trong Lời Tiền Tụng của Chúa nhật
này: “Là người thật, Đức Kitô đã khóc Ladarô, bạn hữu Người; là Thiên Chúa hằng
sống, Người đã truyền cho Ladarô sống lại ra khỏi mồ. Ngày nay, cũng vì thương
xót nhân loại, Người đã đưa chúng con vào đời sống mới, nhờ các bí tích nhiệm mầu”.
Cuộc gặp gỡ hằng tuần của chúng ta với Chúa Giêsu chịu đóng đinh và sống lại diễn
tả niềm tin của chúng ta vào Đấng đang là, ở đây và lúc này, sự sống lại và sự
sống của chúng ta. Chính xác tín này làm cho chúng ta có thể, vào Chúa nhật tuần
tới, cùng với Người tiến vào thành Giêrusalem, nhắc lại lời của thánh Tôma tông
đồ: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy”.
D. Chúa nhật Lễ Lá và Cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu
77. “Vào Chúa
nhật lễ Lá cuộc khổ nạn của Chúa, khi đi rước lá, người ta chọn các bản văn
trong ba Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại việc Đức Giêsu long trọng tiến vào thành
Giêrusalem, còn trong Thánh Lễ, người ta đọc trình thuật cuộc khổ nạn của Chúa”
(OLM 97). Hai truyền thống cổ xưa đánh dấu cử hành Phụng Vụ này, cùng một thể
loại: tại Giêrusalem, người ta có thói quen tổ chức rước kiệu, và tại Rôma, người
ta có thói quen đọc trình thuật cuộc khổ nạn. Niềm hân hoan chung quanh việc Đức
Kitô Vua tiến vào thành thánh mau chóng nhường chỗ cho một trong hai bài ca về
Người Tôi Tớ đau khổ và việc long trọng công bố cuộc khổ nạn của Chúa. Phụng Vụ
này diễn ra vào Chúa nhật, mà từ xưa đến nay, luôn đi liền với cuộc Phục Sinh của
Đức Kitô. Làm thế nào vị chủ tế có thể trình bày toàn bộ những yếu tố thần học
rất đặc trưng của ngày này, trong khi vẫn để ý đến những nhận xét mang tính mục
vụ, khi mà ngài được khuyên là giảng vắn tắt? Câu trả lời được tìm thấy trong
bài đọc II, tương hợp với bài ca rất hay trong thư thánh Phaolô gửi giáo đoàn
Philípphê: Bài đọc này trình bày bản tóm tắt tuyệt vời về toàn bộ mầu nhiệm Phục
Sinh. Vì thế, vị giảng thuyết có thể đưa ra nhận định vắn tắt rằng, trong ngày
mà Giáo Hội bước vào Tuần Thánh, chúng ta được mời gọi trải nghiệm Mầu Nhiệm
này trong chính cuộc đời và tâm hồn của mình. Thật thế, vẫn có những thực hành
và truyền thống địa phương thôi thúc dân chúng chú tâm vào những biến cố đã xảy
ra trong những ngày cuối cùng của Đức Giêsu; tuy nhiên, khát khao tha thiết của
Giáo Hội không chỉ là chúng ta cảm động, nhưng là thôi thúc chúng ta đào sâu đức
tin. Trong các cử hành phụng vụ Tuần Thánh, khởi đầu là Chúa nhật lễ Lá, chúng
ta không chỉ giới hạn vào việc nhớ lại điều Đức Giêsu đã làm, nhưng trên hết,
chúng ta muốn dìm mình trong mầu nhiệm Phục Sinh để được chết và sống lại với Đức
Kitô.