Bộ Phụng Tự Và Kỷ Luật Các Bí Tích: Chỉ Nam Giảng Thuyết -
Tam Nhật Vượt Qua
(daminhvn.net) 01/04/2015
6
BỘ PHỤNG TỰ VÀ KỶ LUẬT CÁC
BÍ TÍCH
***
PHẦN II
NGHỆ THUẬT GIẢNG THUYẾT
37. Khi mô tả về
nhiệm vụ giảng thuyết, Đức Giáo Hoàng Phanxicô dạy rằng: “Tâm điểm và cốt lõi của
sứ điệp rao giảng vẫn luôn là một: Thiên Chúa, Đấng mặc khải tình thương vô
biên của Người nơi Đức Kitô chịu đóng đinh và phục sinh” (EG 11). Mục đích của
phần thứ hai này trong Chỉ Nam Giảng Thuyết là để cung cấp những ví dụ và những
đề nghị cụ thể nhằm giúp nhà giảng thuyết thực hành những nguyên tắc được trình
bày trong văn kiện này bằng cách xem xét các bài đọc Kinh Thánh trong Phụng Vụ
qua lăng kính mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô chịu đóng đinh và phục sinh. Đây
không phải là những bài giảng mẫu, nhưng là những phác thảo đưa ra những lối tiếp
cận khác nhau về các chủ đề và bản văn trong suốt năm phụng vụ. Phần dẫn nhập
trong Sách các bài đọc đưa ra những mô tả ngắn gọn liên quan đến việc chọn lựa
các bài đọc “nhằm giúp các vị chủ chăn hiểu biết trật tự sắp xếp của các bài đọc,
ngõ hầu việc sử dụng trở nên sinh động và đem lại nhiều hoa trái nơi các tín hữu”
(OLM 92). Chính vì thế, tài liệu trên sẽ còn được trích dẫn trong văn kiện này.
Trong các đề nghị liên quan đến toàn bộ các bản văn Thánh Kinh, phải luôn nhớ rằng
“Bài đọc Tin Mừng là đỉnh điểm của phụng vụ Lời Chúa. Những bài đọc khác, theo
trật tự truyền thống, tức là từ Cựu Ước đến Tân Ước, đều nhằm chuẩn bị cộng
đoàn đón nhận Tin Mừng” (OLM 13).
38. Điểm xuất
phát ở đây chính là các bài đọc của Tam Nhật Vượt Qua, vì đây chính là tâm điểm
của năm phụng vụ, và một số bản văn quan trọng nhất trong cả Cựu và Tân Ước được
công bố trong những ngày rất thánh này. Theo sau là những suy sư về mùa Phục
Sinh và Hiện Xuống. Tiếp theo, các bài đọc trong các Chúa Nhật mùa Chay sẽ được
xem xét. Các ví dụ khác được trích ra từ chu kỳ Mùa Vọng – Giáng Sinh- Hiển
Linh. Cách tiến hành này theo điều mà Đức Biển Đức XVI gọi là “khoa sư phạm
khôn ngoan của Giáo Hội, nghĩa là công bố và lắng nghe Sách Thánh theo nhịp điệu
của năm phụng vụ.” ĐTC nói tiếp “Ở trung tâm của tất cả, mầu nhiệm Vượt Qua toả
sáng và gắn liền với mầu nhiệm ấy là tất cả mầu nhiệm của Đức Kitô và lịch sử cứu
độ được hiện tại hoá theo cách bí tích…” (VD 52). Vì thế, những gì được đề nghị
ở đây không có tham vọng trình bày kỹ càng về các chủ đề, tức là những gì có thể
nói về một cử hành cụ thể nào đó hay đi vào từng chi tiết trong cả năm phụng vụ.
Dưới ánh sáng của mầu nhiệm trung tâm Vượt Qua, văn kiện chỉ muốn đưa ra những
chỉ dẫn về cách thức tiếp cận một số bài đọc phù hợp với một bài giảng nào đó.
Những kiểu mẫu được gợi lên qua những ví dụ trong văn kiện này có thể được
thích ứng cho các Chúa nhật Thường Niên và các dịp khác. Kiểu mẫu này cũng có
giá trị và hữu ích cho cả những nghi lễ khác trong Giáo Hội Công Giáo dùng sách
bài đọc khác với nghi lễ Rôma.
***
I. TAM NHẬT VƯỢT QUA VÀ MÙA PHỤC SINH
A. Bài đọc Cựu Ước Thứ Năm Tuần Thánh
39. “Thứ Năm Tuần Thánh, vào lễ chiều “Bữa ăn
của Chúa”, việc tưởng niệm bữa ăn trước cuộc Xuất hành đem lại một ánh sáng đặc
biệt cho gương mẫu của Đức Kitô khi rửa chân cho các môn đệ, cũng như cho các lời
của thánh Phaolô về việc thiết lập lễ Vượt Qua của người Kitô hữu trong cử hành
Thánh Thể" (OLM 99) . Tam Nhật Vượt Qua bắt đầu với Thánh Lễ ban chiều,
nơi phụng vụ tưởng nhớ việc Chúa lập bí tích Thánh Thể. Đức Giêsu bước vào cuộc
Khổ Nạn của Người bằng cách cử hành bữa ăn tối như mô tả trong bài đọc I : từng
từ ngữ, từng hình ảnh chỉ ra điều mà chính Đức Kitô đã báo trước tại bàn tiệc:
cái chết của Người mang lại sự sống cho chúng ta. Trong bữa tiệc Vượt Qua này,
cũng chính là bữa ăn chúng ta cử hành Thứ Năm Tuần Thánh, những lời trích từ
sách Xuất Hành (Xh 12 : 1-8 , 11-14 ) đạt được ý nghĩa trọn vẹn của chúng.
40. “Mỗi gia
đình hãy hiệp chung với gia đình láng giềng gần nhất để cùng ăn một con chiên.”
Chiều hôm ấy, rất nhiều gia đình tụ họp cùng một nơi, và chúng tôi đã chuẩn bị
được một con chiên. “Con chiên đó phải vẹn toàn, phải là con chiên đực, không
quá một tuổi.” Con chiên không tì vết của chúng ta là chính Chúa Giêsu, Chiên
Thiên Chúa. “Với toàn thể đại hội cộng đồng Israel, con chiên sẽ được sát tế
vào lúc xế chiều.” Khi nghe những lời đó, chúng ta hiểu rằng mình chính là cộng
đồng Israel mới, quy tụ với nhau vào lúc mặt trời lặn; Đức Giêsu đã chịu sát tế
khi Người trao ban cho chúng ta Mình và Máu của Người. “Họ lấy máu bôi lên
khung cửa những nhà có ăn thịt chiên…còn thịt thì nướng lên và ăn ngay đêm ấy.
“Chúng ta sẽ hoàn trọn mệnh lệnh này khi đón lấy máu của Chúa Giêsu nơi môi miệng
và ăn thịt Con Chiên hiện diện trong bánh thánh.
41. Lệnh truyền
phải ăn bữa ăn này với “lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy, văn vội vã như
những kẻ trốn chạy.” Điều này diễn tả đời sống của chúng ta trên thế giới. Lưng
thắt gọn gợi lên việc mau chóng chạy trốn, đồng thời gợ leên bối cảnh của lệnh
truyền được trình bảy trong bài Tin Mừng tối nay, và cử chỉ diễn ra sau bài giảng:
chúng ta được mời gọi để phục vụ thế giới, nhưng như là những lữ khách, mà quê
hương thực sự không phải là ở trần gian này. Từ điểm này của bài đọc, khi chúng
ta được bảo phải ăn lễ này cách vội vã như thể sắp trốn chạy mà Chúa long trọng
gợi lên tên của buổi lễ này: “Đây là lễ Vượt Qua (trong tiếng Do Thái Pesach) của
Chúa! Đêm nay Ta sẽ sát hại các con đầu lòng trong đất Ai Cập... nhưng, thấy
máu, Ta sẽ vượt qua.” Chúa chiến đấu vì chúng ta, ngõ hầu chúng ta có thể chiến
thắng các thù địch là tội lỗi và sự chết, và bảo vệ chúng ta nhờ máu của Con
Chiên.
42. Việc long
trọng loan báo cuộc Vượt Qua kết thúc với một lệnh cuối cùng : “Ngày hôm nay sẽ
là ngày tưởng niệm cho các ngươi... đó là luật cho đếnn muôn đời.” Việc trung
thành tuân giữ lệnh truyền này không chỉ giúp duy trì nét sống động của lễ Vượt
Qua trong mỗi thế hệ cho đến thời Đức Giêsu, nhưng còn giúp chúng ta trung
thành với lệnh truyền riêng của Người, “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, điều
làm cho các thế hệ Kitô hữu nối tiếp nhau được hiệp thông với cuộc Vượt Qua của
Đức Giêsu. Đây chính là những gì chúng ta đang thực hiện khi hằng năm, bắt đầu
Tam Nhật Vượt Qua. Lễ này là một cuộc tưởng niệm do Chúa thiết lập, một nghi lễ
được chu toàn từ đời này sang đời kia, một cuộc tái hiện tại hóa theo phụng vụ
việc Đức Giêsu trao tặng chính Người cho chúng ta.
B. Bài đọc Cựu Ước Thứ Sáu Tuần Thánh
43. “Cử hành phụng
vụ thứ Sáu Tuần Thánh Về cuộc Khổ Nạn của Chúa có đỉnh điểm là trình thuật của
Gioan về cuộc Thương Khó của Đấng, như đã được loan báo trong sách Isaia như là
Người Tôi Tớ của Thiên Chúa, và Người đã thực sự trở nên ThượngTế duy nhất qua
việc hiến dâng chính mình cho Chúa Cha” . Bài đọc trích từ sách Isaia (Is 52:13
- 53:12 ) là một trong những bản văn Cựu Ước qua đó các Kitô hữu lần đầu tiên
nhận ra được lời loan báo của các ngôn sứ về cái chết của Đức Kitô. Khi liên kết
trích đoạn này với cuộc Thương Khó, chúng ta đi theo một truyền thống tông đồ rất
cổ xưa, vì đó là điều tông đồ Philip đã làm trong cuộc đối thoại với viên hoạn
quan người Ethiopia (Cv 8, 26-40).
44. Cộng đoàn
tín hữu ý thức về lý do sâu xa vì thế họ tụ họp hôm nay: tưởng nhớ cái chết của
Đức Giêsu. Cách nào đó lời của ngôn sứ là một cách giải thích, theo cái nhìn của
Thiên Chúa, việc Đức Giêsu chịu đóng đinh. Chúng ta được mời gọi chiêm ngưỡng
vinh quang ẩn giấu phát xuất từ Thập Giá: “ Này đây, người tôi trung của Ta sẽ
thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật và được suy tôn đến tột cùng.” Chính Đức Giêsu,
trong Tin Mừng Gioan, đã nhiều lần nhắc đến Người sẽ được giương cao. Rõ ràng
trong Tin Mừng, ba chiều kích của việc “giương cao” này hòa lẫn với nhau: trên
Thập Giá, trong cuộc Phục Sinh và Thăng Thiên.
45. Nhưng ngay sau khởi đầu đầy vinh quang
trong lời lý giải của Chúa Cha, điều tương phản được công bố: sự đau đớn tột
cùng trên thập giá. Người tôi trung được mô tả là một người mà “mặt mày tan nát
chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa”. Trong Đức Giêsu, Ngôi Lời vĩnh
cửu không những đã mặc lấy xác phàm của chúng ta, mà còn chấp nhận một cái chết
nhục nhã và ghê tởm nhất. “Người sẽ làm cho muôn dân sững sờ, vua chúa phải câm
miệng.” Những ngôn từ này diễn tả lịch sử thế giới từ ngày thứ Sáu Tuần Thánh đầu
tiên cho đến ngày nay: trước cây Thập Giá nhiều dân tộc đã câm lặng và họ đã
hoán cải, ngược lại một số dân khác thì kinh ngạc và muốn quay mặt đi. Những lời
ngôn sứ này cũng có thể áp dụng cho cộng đoàn và nền văn hoá của chúng ta, và
cho nhiều “dân ngoại” đang cư ngụ nơi mỗi chúng ta, tức là sự cứng lòng và những
khuynh hướng xấu cần được Chúa biến đổi.
46. Điều người
ta nghe tiếp sau đó không còn là lời của Chúa, nhưng là của vị ngôn sứ: “Điều
chúng ta đã nghe, ai mà tin được?”. Tiếp đến là một mô tả với các chi tiết dẫn
tới việc chiêm ngắm chung cuộc về Thập Giá bao gồm cả khổ nạn lẫn vượt qua, cả
đau khổ lẫn vinh quang. Mức độ đau khổ được mô tả cách chính xác đến nỗi dễ nhận
ra rằng, với các Kitô hữu thời đầu, thật là tự nhiên khi đọc những bản văn loại
này và giải thích chúng như là những lời tiên báo về Đức Kitô, vì họ nhận
ra được vinh quang của Người ẩn giấu bên trong. Và như thế, theo lời vị ngôn sứ,
hình ảnh bi thảm này đem lại cho chúng ta một ý nghĩa rất quan trọng: thật vậy
“Chính Người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ
của chúng ta…đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành.”
47. Bản văn
cũng báo trước thái độ của Đức Giêsu trước cuộc khổ nạn: “Bị ngược đãi, Người
cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca…như chiên bị đem đi làm thịt… Người chẳng
hề mở miệng…” Tất cả những trải nghiệm này thật khác thường và gây kinh ngạc.
Nhưng quả thật, cuộc Phục Sinh cũng được gián tiếp báo trước trong lời ngôn sứ:
“Nếu Người hiến thân làm lễ vật đền tội, Người sẽ được thấy kẻ nối dõi được trường
tồn.” Tất cả những tín hữu là những kẻ nối dõi, sự trường tồn của Người chính
là sự sống vĩnh cửu do Chúa Cha ban khi làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết. Và
giờ đây, Chúa Cha lại cất tiếng, tiếp tục công bố lời hứa Phục Sinh: “Nhờ nỗi
thống khổ của mình, người sẽ được nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện…Vì thế,
Ta sẽ ban cho người muôn dân làm gia sản và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt,
người sẽ được chia chiến lợi phẩm, bởi vì người đã hiến thân chịu chết…người đã
mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi.”
C. Các Bài Đọc Cựu Ước Trong Đêm Vọng
Phục Sinh
48. Trong đêm canh thức Vượt Qua, bảy bài đọc
Cựu Ước được đề nghị, trong đó nhắc lại những kỳ công Thiên Chúa thực hiện
trong lịch sử cứu độ. Tiếp đến có hai bài đọc Tân Ước, loan báo biến cố Phục
Sinh dựa theo ba Tin Mừng Nhất Lãm, và một bài đọc trích thư thánh Phaolô về
phép rửa Kitô giáo như là bí tích của Chúa Kitô Phục Sinh. Như sách lễ Rôma quả
quyết, Đêm Vọng Phục Sinh là, “đêm quan trọng và cao quý nhất của mọi lễ trọng”
(Vọng Phục Sinh, 2). Vì thời gian đêm Canh thức quá dài nên không thể diễn giải
đầy đủ bảy bài đọc Cựu Ước. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng những bản văn này là
thiết yếu vì chúng chứa đựng những điều nền tảng của nền thần học Cựu Ước, khởi
đi từ công cuộc sáng tạo cho đến hy lễ của Ápraham, và đến bài đọc quan trọng
nhất, là sách Xuất hành; bốn bài đọc sau đó công bố những chủ đề then chốt của
các ngôn sứ. Hiểu biết về những bản văn này trong mối liên hệ tới mầu nhiệm Vượt
Qua, được thể hiện rất rõ nét nhờ bối cảnh đêm Vọng Phục Sinh, có thể giúp cho
nhà giảng thuyết có được nguồn cảm hứng khi gặp các bài đọc này hoặc những bài
đọc tương tự vào những lúc khác nhau trong năm phụng vụ.
49. Trong bối cảnh
phụng vụ đêm nay, qua các bài đọc này, Giáo Hội dẫn chúng ta đến đỉnh điểm là
cuộc Phục Sinh của Chúa, được thuật lại trong bài Tin Mừng. Chúng ta được dìm
vào dòng lịch sử cứu độ nhờ Những bí tích khai tâm Kitô giáo được cử hành trong
đêm Canh Thức này, như thánh Phaolô nhắc nhớ chúng ta qua bản văn rất đẹp về
Phép Rửa. Có thể có những móc nối rất rõ ràng giữ công trình sáng tạo và sự sống
mới trong Đức Kitô, cũng như giữa cuộc Xuất hành xét như là một biến cố lịch sử,
và cuộc Xuất hành chung cuộc, tức là Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu mà nhờ
Phép Rửa, tất cả các tín hữu đều được dự phần; tương tự, cũng có những mối liên
hệ rất rõ ràng giữa lời hứa của các ngôn sứ và việc thực hiện các lời hứa ấy
nơi các mầu nhiệm được cử hành trong phụng vụ. Các liên hệ này có thể thường được
nhắc lại trong suốt năm phụng vụ.
50. Để hiểu những
mối liên hệ giữa các chủ đề trong Cựu Ước và việc thành toàn nơi mầu nhiệm Vượt
Qua của Đức Kitô có thể tìm thấy một phương thức tuyệt hảo để trợ giúp: tham
chiếu các lời nguyện theo sau mỗi bài đọc. Các lời nguyện này diễn tả cách đơn
sơ và rõ nét ý nghĩa sâu xa về Kitô học và bí tích của các bản văn Cựu Ước, vì
chúng nói về sự tạo dựng, hy lễ, xuất hành, phép rửa, lòng thương xót của Thiên
Chúa, giao ước vĩnh cửu, việc tha thứ tội lỗi, việc cứu chuộc và sự sống trong
Đức Kitô. Đối với nhà giảng thuyết, các lời nguyện này có thể được xem như một
trường dạy cầu nguyện không chỉ trong bối cảnh chuẩn bị bài giảng cho đêm Vọng
Phục Sinh mà còn cho suốt cả năm khi gặp những bài đọc giống như đêm Vọng Phục
Sinh. Một nguồn mạch hữu dụng khác để diễn giải những bản văn Kinh Thánh là các
thánh vịnh đáp ca theo sau mỗi bảy bài đọc; những bài thơ này được hát lên do
các Kitô hữu đã chết trong sự kết hiệp với Đức Kitô và nay đang tham dự vào sự
sống phục sinh của Người. Trong cả năm, càng không nên lơ là những bản văn này
vì chúng giúp hiểu rõ hơn rằng Giáo Hội là người giải thích toàn bộ Kinh Thánh
dưới ánh sáng của Đức Kitô.