LY DỊ TÁI HÔN
(gpquinhon.org) Thứ tư -
15/04/2015 05:42
1. Giáo huấn của Chúa
Trong các sách Tin Mừng, Chúa Giêsu đã có một giáo huấn khá rõ
ràng về điều này: “Bất cứ ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình; và
ai cưới người đàn bà bị chồng rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình” (Lc 16, 18;
xem Mc 10, 11-12)). Còn Thánh Phaolô trong thư I gửi tín hữu Corintô cũng nhấn
mạnh rằng ngài không cho ý kiến riêng của mình mà là ý của Chúa Kitô khi viết: “
Còn với những người đã kết hôn, tôi ra lệnh này, không phải tôi, mà là Chúa: vợ
không được bỏ chồng, mà nếu đã bỏ chồng, thì phải ở độc thân hoặc phải làm hòa
với chồng; và chồng cũng không được rẫy vợ.” (1 Cr 7,10-11).
2. Giáo huấn của Giáo Hội
Nhiều người đã lên tiếng trách Giáo Hội đã quá khắt khe với chuyện
ly dị tái hôn nhưng đây là giáo huấn của chính Chúa Giêsu mà Giáo Hội không thể
tự ý thay đổi hay châm chước. Trước Chúa Giêsu, thánh Gioan Tẩy Giả đã phải lên
tiếng chống lại việc Herôđê lấy vợ của anh mình là Hêrôđia (x. Mc 6,18) và cũng
vì chuyện này mà đành ngài phải mất mạng sống.
Trung thành với giáo huấn Chúa Kitô, Giáo Hội trình bày cách minh
nhiên tình trạng khá phổ biến hiện nay về ly di-tái hôn trong sách Giáo Lý Hội
Thánh Công Giáo :
1650. Nhiều người Công giáo, ở một số nơi, đã ly dị và tái hôn theo luật
đời. Hội Thánh, vì trung thành với lời của Chúa Giêsu Kitô (“Ai rẫy vợ mà cưới
vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng
khác, thì cũng phạm tội ngoại tình”: Mc 10,11-12), nên không thể công nhận việc
tái hôn như vậy là thành sự, nếu hôn nhân lần đầu đã thành sự. Nếu những người
đã ly dị lại tái hôn theo luật đời, thì họ ở trong tình trạng vi phạm luật
Thiên Chúa một cách khách quan. Kể từ lúc đó, họ không được rước lễ, bao lâu
còn sống trong tình trạng này. Cũng vì vậy, họ không thể đảm nhận một số trách
nhiệm trong Hội Thánh. Sự giao hoà qua bí tích Thống Hối chỉ có thể được ban
cho những ai thống hối vì mình đã vi phạm dấu chỉ của giao ước và của sự trung
thành với Đức Kitô, và tự buộc mình sống tiết dục trọn vẹn.
1651. Đối với những Kitô hữu đang sống trong tình trạng như vậy mà vẫn
giữ đức tin và ao ước giáo dục con cái họ theo Kitô giáo, các tư tế và toàn thể
cộng đoàn phải tỏ ra ân cần quan tâm, để họ đừng tự coi như bị tách lìa khỏi Hội
Thánh: họ có thể và phải tham gia vào đời sống của Hội Thánh với tư cách là những
người đã được rửa tội:
“Họ được khuyến khích nghe Lời Chúa, tham dự Hy tế Thánh lễ, kiên
trì cầu nguyện, góp phần vào các việc bác ái và các việc phục vụ đức công bằng
của cộng đoàn, giáo dục con cái trong đức tin Kitô giáo, sống tinh thần thống hối
và làm các việc đền tội, để như vậy, hằng ngày họ nài xin Thiên Chúa ban ân sủng”[1].
1665. Việc tái hôn của những người đã ly dị khi người phối ngẫu còn sống,
nghịch lại ý định và lề luật của Thiên Chúa mà Đức Kitô đã dạy. Những người này
không bị tách ra khỏi Hội Thánh, nhưng không được rước lễ; họ vẫn sống đời Kitô
hữu, nhất là giáo dục con cái trong đức tin.
Với quan điểm nêu trên của Giáo Hội, việc rước lễ của những người
ly dị- tái hôn xem ra hoàn toàn không có chút hi vọng nào. Nhưng thực ra, Giáo
Hội đã cố gắng tìm những giải pháp giúp giải gỡ những bế tắc này.
· Trường hợp những cuộc hôn nhân không thành sự :
Với Bộ Giáo Luật mới 1983 chúng ta thấy rất nhiều yếu tố mới trong
sự tự do ưng thuận khiến cho nhiều cuộc hôn nhân bất thành. Tòa án hôn phối có
thể đưa những phán quyết tuyên bố cuộc hôn nhân trước đó vô hiệu để những người
đã ly dị về mặt dân sự có thể chính thức tái hôn hợp pháp trong Giáo Hội.
· Những người ly dị tái hôn nhưng hoàn toàn tiết dục trọn vẹn cũng
có thể lãnh nhận bí tích Giao Hòa tức là trong tình trạng sạch tội và như vậy
có thể rước lễ cách kín đáo tránh gương xấu.(x. GLHTCG 1650)
“Sự giao hoà qua bí tích Thống Hối chỉ có thể được ban cho những
ai thống hối vì mình đã vi phạm dấu chỉ của giao ước và của sự trung thành với
Đức Kitô, và tự buộc mình sống tiết dục trọn vẹn.”
3. Văn Kiện của Bộ Giáo Lý Đức
Tin
Bộ Đức Tin đã có một văn kiện gửi cho các Giám Mục, do Đức Hồng Y
Ratzinger Tổng trưởng ký và được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaol ô II chuẩn nhận
ngày 14 tháng 9 năm 1994,về việc rước lễ của những người ly dị tái hôn .
Theo tài liệu này, việc rước lễ của những người ly dị tái hôn được
đề cập đến trong 2 trường hợp:
a- Trường hợp thông thường:
Không được.
Bộ Giáo Lý Đức tin nhắc lại giáo huấn và kỷ luật của Giáo Hội về vấn
đề này như sau: không thể nhìn nhận hôn nhân sau là hữu hiệu nếu hôn nhân trước
đã thành. Người ly dị tái kết hôn về mặt dân sự thì ở trong tình trạng khách
quan đi ngược lại với luật Chúa nên không thể rước lễ được bao lâu mà tình trạng
này còn tiếp diễn.
Đây không phải là quy định mang tính trừng phạt hay phân biệt đối
xử mà chỉ tỏ cho thấy rằng đây là một tình trạng tự nó làm cho việc rước lễ là
không được.
b- Trường hợp đặc biệt:
Giáo Hội không cho phép nhưng theo nhận định lương tâm của các
đương sự với những yếu tố kèm theo:
Theo tài liệu này, Số 3 trình bày những đề xuất như là những giải
pháp mục vụ được áp dụng nơi này nơi kia dù chưa được hoàn toàn đồng thuận của
tất cả các chủ chăn cũng như chưa được nhìn nhận là giáo thuyết chung của Giáo
Hội.
”Trong những năm gần đây, ở nhiều vùng, các giải pháp mục vụ trong
lĩnh vực này đã được đề xuất, theo đó, chắc chắn việc chấp nhận chung cho những
người ly dị và tái hôn được rước lễ là không thể được nhưng họ có thể đến với
bí tích Thánh Thể trong các trường hợp đặc biệt khi họ tự thấy có thể làm như vậy
theo phán quyết của lương tâm. Đây là trường hợp khi họ đã bị bỏ rơi cách hoàn
toàn bất công, mặc dù họ đã chân thành cố gắng để cứu vãn cuộc hôn nhân trước,
hoặc khi họ xác quyết hôn nhân trước đây của họ là không thành sự, mặc dù không
thể chứng minh nó ở tòa ngoài hoặc khi họ đã trải qua một thời gian dài suy tư
và sám hối, hoặc cũng có khi vì những lý do chính đáng về luân lý họ không thể
đáp ứng thỏa đáng việc bắt buộc phải sống tách biệt.
Ở một số nơi, có những đề xuất để khách quan kiểm xét tình huống
thực tế của họ, người ly dị và tái hôn phải trao đổi ý kiến với một linh mục khôn ngoan và có
chuyên môn. Tuy nhiên, Linh mục này phải tôn trọng quyết định cuối cùng của
chính họ khi đến với bí tích Thánh Thể, điều này không ngụ ý một sự cho phép
chính thức.
Trong những trường hợp này cũng như những trường hợp tương tự đó
là vấn đề của một giải pháp mục vụ khoan dung và nhân từ nhằm đem lại công bằng
cho các tình huống khác nhau của người ly dị và tái hôn.” (Văn kiện này được gửi
đính kèm bản tiếng Anh và tiếng Pháp).
Văn kiện này cho biết một số giải pháp cho các trường hợp ly dị
tái hôn đã được áp dụng một số nơi. Chúng ta có thể kể ra những trường hợp sau;
- Những người bị bỏ rơi cách bất công dù đã tìm cố gắng cách cứu
vãn hôn nhân trước.
- Những người tin chắc hôn nhân trước bất thành nhưng không thể chứng
minh ở tòa ngoài (Tòa án hôn phối).
- Những người sau nhiều năm tháng ăn năn sám hối vì tình trạng hôn
nhân không chính đáng
- Những người có những lý do chính đáng theo lương tâm không có điều
kiện để sống tách biệt.
Những người này có thể tìm đến với những linh mục khôn ngoan và có
chuyên môn để các ngài giúp đỡ họ nhìn rõ hơn và đúng đắn vấn đề hơn để có thể
tự quyết định theo lương tâm sau khi đã cân nhắc trước mặt Chúa về việc rước
Thánh Thể.
Chắc chắn không ai có thể chính thức cho phép mà chính đương sự tự
quyết theo lương tâm có nên lên rước lễ không. Đương nhiên, việc rước lễ phải
tránh gương mù cho cộng đoàn và có thể bị thừa tác viên cho rước lễ từ chối.
GÓP Ý
Vấn đề ly dị tái hôn là vấn đề nhức nhối và đau đớn. Một đằng Giáo
Hội không thể từ chối tuân theo giáo huấn của Chúa, một đằng muốn tỏ lòng
thương xót muốn giúp cho các đôi hôn nhân đang bị rối. Một khi hôn nhân đã
thành sự và là bí tích thì không thể can thiệp được.
1. Tuy nhiên, theo quan điểm mới của Giáo Hội về những yếu tố chi phối
tính thành sự của Hôn Nhân được trình bày trong Giáo Luật thì Tòa Án hôn phối
có thể dựa vào những yếu tố ấy mà tuyên bố nhiều hôn nhân đã không thành. Đây
không phải là tháo gỡ dây hôn phối mà chỉ tuyên bố hôn nhân trước vô hiệu.
Phương cách này giúp giải gỡ những cuộc ly dị tái hôn được kết hôn hợp pháp. Vì
vậy, các tòa án hôn phối cần hoạt động hiệu quả hơn để giúp đỡ cách thiết thực
cho vấn đề này.
2. Một tình huống duy nhất được
chấp nhận là những người ly dị tái hôn vì hoàn cảnh cụ thể chưa thể sống tách
biệt nhưng hoàn toàn tiết dục trọn vẹn cũng có thể lãnh nhận bí tích giải tội
và như vậy cách nào đó có thể rước lễ (x. GLHTCG 1650). Những người ở trong trường
hợp này cần được hướng dẫn cách đầy đủ để giúp họ đến gần với Giáo Hội hơn.
3. Văn Kiện của Bộ Giáo Lý Đức Tin năm 1994 nêu ra những tình huống
được áp dụng ở một số Giáo Hội địa phương. Tuy không cho rằng đó là cách áp dụng
phổ thông hay chính thức nhưng cũng không có sự phản bác cách dứt khoát và quyết
liệt về cách làm này. Vì thế, HĐGMVN có thể nghiên cứu những trường hợp ấy và
cách đã được áp dụng để xem có nên đưa ra những cách hành xử tương tự với những
điều kiện phù hợp hơn. Thí dụ nhờ đến các linh mục chuyên môn được chỉ định rõ
ràng cho việc này nhằm giúp cho những trường hợp mà hôn nhân trước đã vô hiệu
nhưng không thể chứng minh ở tòa ngoài được. Để chắc chắn, có thể viết thư hỏi
ý kiến của Bộ Giáo Lý Đức Tin và xin thử nghiệm.
4. Điều cần nhấn mạnh ở đây là không tìm cách giúp cho tất cả mọi người
li dị tái hôn được rước lễ mà chỉ cố gắng giúp cho những người không vi phạm luật
Chúa, những người mà hôn nhân trước của họ chưa thành, có điều kiện để lãnh nhận
bí tích.
5. Trong hoàn cảnh hiện nay của Giáo Hội VN, tòa án hôn phối của các
giáo phận có thể chưa đủ thẩm phán, nhân viên tòa án, các chuyên viên… để tiến
hành các vụ án hôn phối. Có những người không biết hôn nhân mình vô hiệu hoặc
không thể chứng minh được dù hôn nhân trước đây đã không thành sự. Trong tất cả
những trường hợp nêu trên, hôn nhân đều chưa hữu hiệu. Nếu hôn nhân trước chưa
thành sự thì hôn nhân sau không bị coi là tái hôn, sống nghịch với luật Chúa. Vậy
nếu không vì lỗi của họ mà hôn nhân không thể giải gỡ thì cần tìm những giải
pháp giúp cho họ có thể lãnh bí tích Thánh Thể.
6. Những người ly dị tái hôn không phải là những người bị vạ tuyệt
thông mà chỉ là những người không đủ điều kiện lãnh nhận bí tích Hòa Giải và
Thánh Thể nên cần giúp đỡ họ hiểu rõ hoàn cảnh của mình và khích lệ họ tham gia
các sinh hoạt của Giáo Hội, kể cả việc tham dự Thánh Lễ.
[1] X.
ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris
consortio, 84: AAS 74 (1982) 185.
Tác giả: Lm Giuse Nguyễn Ngọc Bích, CSsR.
Nguồn: giaolyductin.net