MỤC TỬ
(giaolyductin.org) 14 / 04/ 2015, 10:04:52
Khi giảng về Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành, tôi có hỏi
giáo dân, “tử” là gì. Nhiều người không biết trả lời, có người nói: “tử” là
chết! Cũng có người nói “tử” là con. Thuật từ này tưởng đơn giản, nhưng thật ra
không đơn giản chút nào. Trong Thánh Kinh, “mục tử” được dùng để dịch chữ
pastor của tiếng Latinh, mà bản tiếng Anh là shepherd, có khi cũng dùng chữ
pastor. Vậy, thử tìm hiểu mấy chữ này có nghĩa gì.
1. Nghĩa của từ shepherd và pastor:
Bản Thánh Kinh La ngữ Phổ thông dịch từ roʿeh trong Cựu Ước tiếng Hipri và poimēn trong Tân Ước tiếng
Hy Lạp là pastor (do động từ pascere: chăn dắt).
Cựu Ước, bản Hipri, dùng từ roʿeh 173 lần để nói về việc chăn nuôi chiên, như trong sach
Sáng Thế (xSt 29,7) hay việc dưỡng nuôi thiêng liêng, chăm sóc đời sống tâm
linh con người, như trong sách Giêrêmia (xGr 3,15).
Tân Ước, bản Hy Lạp, hai từ poimēn: mục tử (vd: Ga 10, 2.12.16; 1Pr 2, 25) hay
người chăn chiên (vd: Mt 26,31; Mc 14,27; Lc 2,8.15.18.22) và động từ poimaino:
chăn dắt, chăn chiên (Mt 2, 6; Lc 17, 7; Ga 21,16) được sử dụng 29 lần, hầu hết
để chỉ Chúa Giêsu. Chẳng hạn, trong Ga 10,11 Chúa Giêsu tự nhận mình là Mục tử nhân lành. Ngài cũng được
gọi là Vị Mục tử
cao cả (Dt
13,20), Vị Mục tử
tối cao (1 Pr
5,4). Trong trình thuật giáng sinh, từ poimēn chỉ các mục đồng tức các người
chăn chiên, theo nghĩa đen (Lc 2, 8.15.18.20).
Bản dịch Thánh Kinh tiếng Việt của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng
Vụ sử dụng từ “mục tử” (69 lần) và “kẻ / người chăn chiên” (13 lần).
1.1. Shepherd (dt.) [Có từ năm 1790, nghĩa ẩn dụ
có từ năm 1820, tiếng Anh cổ là sceaphierde: do từ sceap (= sheep: chiên, cừu)
+ hierde (=herder, từ heord = a herd: người chăn đàn gia súc)[1]]. Shepherd có nghĩa là: (1) Người chăn chiên cừu: Mục tử. (2) Nghĩa ẩn dụ: Người hướng
dẫn tinh thần hay chăm sóc các linh hồn: Linh
hướng. (3) Viết hoa
là chỉ Chúa Giêsu (4) Giáo sĩ: Giám mục.
(5) Chó chăn cừu. (đt.) (6) Chăn giữ chiên (to herd
sheep). (7) Nghĩa ẩn dụ: Chăm sóc, hướng dẫn (watch over or guide): Chăn dắt.
Theo nghĩa ẩn dụ, hạn từ Shepherd dùng để chỉ Thiên Chúa, đặc biệt
truyền thống Do Thái (Tv 23, 1-4), và trong Kitô Giáo đặc biệt chỉ Chúa Giêsu,
Đấng tự xưng là ‘Good Shepherd’. Tổ tiên dân Do Thái là những người sống nghề
chăn nuôi và trong đó có rất nhiều người chăn chiên. Cũng cần lưu ý rằng nhiều
vị anh hùng trong Thánh Kinh xuất thân là những người chăn chiên, trong đó có
các tổ phụ Abraham và Giacob, mười hai tổ phụ của 12 chi tộc, Môisen, vua Đavít
và tiên tri Amos... Trong Tân Ước, các thiên thần đã báo tin Chúa giáng sinh
cho những người chăn chiên. Đức Kitô được gởi đến như mục tử đến với các chiên lạc nhà Israel (Mt
10,6; 15,24; Lc 15,3-7). Người là mục tử tốt lành, dám thí mạng vì đoàn
chiên (Ga 10,11-16; Dt 13,20; 1Pr 13,25). Người mời gọi những người khác trở
nên mục tử trong Giáo Hội, nhưng đoàn chiên vẫn
là của Người (Ga 21,15-17; 1Pr 5,1-4).
Nghĩa ẩn dụ cũng được áp dụng cho các linh mục. Trong số
các huy hiệu của các giám mục Công Giáo và Anh Giáo có sử dụng gậy chăn chiên,
nói lên trách nhiệm chăm sóc các tín hữu là đoàn chiên.
1.2. Pastor: Có từ trước thế kỷ 14 (dt.) (1) Chữ
cổ xưa của chữ shepherd.
(2) Vị chức sắc trong giáo hội; Công Giáo dịch là linh mục chính xứ, cha sở; Tin Lành
dịch là mục sư.
(3) Vị linh hướng. (4) Một loài chim. (đt.) (5) Chăn dắt.
Trong một số bản dịch Thánh Kinh tiếng Anh[2], hai chữ này dùng xen kẽ nhau,
có khi dùng pastor (Gr. 2,8; 3,15; 10,21; 12,10; 17,16)
có khi dùng shepherd (Ga 10,11). The New American Bible
2002 (NAB), bản dịch chính thức của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, chỉ dùng chữ shepherd mà thôi.
Theo nghĩa ẩn dụ, shepherd và pastor đều diễn tả quan hệ mật thiết giữa
người cai trị và người dân, hay giữa Thiên Chúa và dân của Ngài. Ngày nay, trên
thực tế, các linh mục chính xứ (cha sở) ở Đức và Hoa Kỳ cũng được gọi là pastor, trong khi những nơi
khác thì gọi là parish priest.
Hầu hết anh em Tin Lành, từ thời John Calvin và Huldrich
Zwingli, đã sử dụng từ pastor(mục
sư) chỉ những người nhận chức phụ trách cộng đoàn, thay cho từ priest (linh
mục). Tuy nhiên các giáo sĩ được tấn phong trong vài giáo hội Lutheran, trong
giáo hội Episcopal và cũng như trong tất cả các chi nhánh của Anh giáo vẫn được
gọi là priest (linh mục).
2. Nghĩa của mục, tử
2.1 Mục: Có
tám chữ: 鉬 (钼), 苜, 艒, 穆, 睦, 目, 牧 (tiếng Việt cũng đọc là tý), 缪 (cũng
đọc là cù, mâu hoặc mậu). Trong hạn từ mục tử là chữ 牧, thuộc loại chữ hội ý, diễn tiến như sau:
Hình này cho thấy một cánh tay cầm roi (chỉ việc chăn giữ)
đang lùa một con bò (chỉ súc vật). Nghĩa gốc là chăn nuôi gia súc, cũng chỉ
người chăn giữ súc vật, như mục nhân,
mục đồng vv... Thời
cổ còn có nghĩa mở rộng là thống trị, như mục vạn
dân (chăn dắt muôn
dân). Chữ mục牧có những nghĩa sau: (dt.) (1) Người làm nghề chăn nuôi gia súc: Mục đồng (đứa trẻ chăn giữ súc vật), mục
nhân, mục dân hay mục phu.
(2) Chỗ chăn nuôi: Mục trường. (3)Nghề chăn nuôi: Du mục, mục nghiệp. (4) Quan coi một châu: Châu mục. (5) (Họ) Mục: Mục Niệm Từ (!) (đt.) (6) Tu luyện: Ti dĩ tự mục dã (卑以自牧也:
Tự nhún mình tôn người để nuôi đức mình. Dịch Kinh). (7) Chăn nuôi: Mục dưỡng. (8) Cai trị: Mục dân. Cụ Đào Duy Anh giải thích:
Ngày xưa các quan cai trị nhân dân gọi là mục dân, ví dân cũng như súc vật, mà
quan như người chăn.
2.2 Tử: Cũng
có bảy chữ: 子, 死, 紫, 仔, 籽, 梓, 啙. Tử trong từ mục tử là chữ子, thuộc loại
chữ tượng hình, diễn tiến như sau:
Chữ giáp cốt và kim văn của chữ này đều có hai cách viết
khác nhau: Một là có một cái đầu và tóc, hai chân giơ lên, một kiểu nữa có đầu,
có hai tay, hai chân quấn kín trong tả lót. Chữ trước hơi rườm rà chữ sau đơn
giản hơn.
Diễn tiến của chữ tử: (1) Nghĩa gốc: (dt.)
Em bé vẫy hai tay, không thể tự lập: Tử đệ,
hài tử. Cho ra nghĩa (2), (6), (9): (2) (dt.)
Em trai: tử nữ (con trai con gái), trưởng
tử (con cả).
(6) (dt.) Hạt giống nhỏ: Tử phòng (phòng nhỏ), ngư tử (cá nhỏ). (9) Thứ tự, thứ nhất
của địa chỉ:Tử ngọ (giữa
trưa), tử dạ (giữa
đêm). Từ số (2) cho ra nghĩa (4), (5) Rộng hơn: (4) (dt.)
Tôn xưng người nam: Phu tử (ông thầy). (5) (dt.)
Tước vị: Tử bộ, tử
tước. Từ số (6) cho ra (7) nghĩa rộng hơn: (tt.)
Hình thể nhỏ: Tử đạn,
tử thành (thành
nhỏ). Từ số (7) lại cho ra (8) nghĩa rộng hơn: (trợ từ) Để sau danh từ, là hình
thể nhỏ: Tỵ tử (mũi), chủng
tử (hạt
giống).
Hiện nay nghĩa là (dt.) (1) (Đọc là Tý) Tý, chi đầu trong mười hai chi: Năm Tý, giờ Tý: từ mười một giờ đêm đến
một giờ sáng là giờ Tý. (2) Con,
xưa, dù con trai hay con gái đều gọi là tử: nghĩa tử, dưỡng tử, hiếu tử, phụ tử tình thâm (tình cha con sâu đậm). Nay chỉ gọi
riêng con trai: Nhất tử nhị nữ (một trai hai gái). (3) Tiếng tôn xưng để tỏ lòng kính
trọng người có đức hạnh và học
vấn cao: Khổng tử;
Lão tử; Mạnh tử, Trang tử. Ở đây, tử có nghĩa là ông, bác, thầy, tiên sinh hay phu tử (tiên sinh ấy). Khổng,
Lão, Mạnh, và Trang là tên họ (family name), còn chữ tử được ghép vào để chỉ
bậc thầy, hay người có học như đã nói. Nói khác đi, nếu chúng ta nói “Ông Khổng
tử” là đã dùng thừa chữ “Ông” rồi vì chữ “Khổng tử” đã có nghĩa là “ông Khổng”,
“thầy Khổng” hay “nhà trí thức họ Khổng”. Có người còn viết Khổng Tử (chữ hoa)
vì kính trọng, chớ không vì Tử là tên ông Khổng; Quân tử君子: Tiếng dùng xưng tụng người có tài đức hoặc gọi người học
trò chín chắn: “Trước xe quân tử tạm ngồi” (Lục Vân Tiên). (4)Tiếng xưng
hô để tỏ lòng kính trọng người thân thuộc, như: Con cháu gọi người trước: tiên tử; chồng gọi vợ: nội tử, vợ gọi chồng: ngoại tử. (5) Chỉ mầm giống của sinh vật hoặc
sinh vật còn non, còn nhỏ, gọi
là: trứng, hạt, giống: Kê tử (trứng gà hay gà con), ngư tử (trứng cá hay cá con), tàm tử (giống tằm), đào tử (hạt đào), lí tử (hạt
mận), thái tử (菜子, hạt cải), khương tử(gừng non). (6) Từ đặt sau một số danh từ để chỉ vật hay người, có nghĩa là: cái, người, chú, gã, kẻ, đám, lũ. Ví dụ: Trác tử (cái bàn), mạo tử (cái nón), kỷ tử (lá cờ), nam tử (người nam),chu tử (chú lái đò), bàn tử (gã mập), hoại phần tử (kẻ gian), nhất loã tử nhân (cả lũ, cả một đám người), tặc tử (thằng giặc)... (7) (Hoá) Phần vật chất rất nhỏ mà khoa học thường dùng như một đơn
vị: Nguyên tử, phân tử.
(8) Một trong bốn loại sách,
theo cách phân loại ngày xưa ở Trung Quốc: Kinh, sử,
tử, tập (tức là kinh
điển, lịch sử, chư tử và văn tập). (9) Một
trong năm (hay sáu) tước, tức là tôn hiệu danh dự, không hàm ý trách nhiệm
và quyền hành, do vua ban cho các người trong hoàng tộc hay những người có công
với tổ quốc: (Vương), công, hầu, bá, tử, nam. Tử tước dưới bá tước và trên nam tước.
Tước tử gồm một mỹ từ và chữ tử. Ví dụ:Kiến Xương tử. (đt.)
(10) Một trong 214 bộ thủ của Hán tự, tức bộ tử (子). (11) (Họ) Tử. (12) (Văn) Có nghĩa như chữ từ (慈): từ ái,
chiếu cố: Tử thứ
dân (chiếu cố người
dân thường). (tt.) (13) Thuộc về mục trước: Tử mục (mục con). (14) Số lẻ, đối với số nguyên mà nói: Như phần tử分子so với phần
mẫu分母, tử kim (子金phần lãi) so
với mẫu tài (母財phần vốn).
3. Nghĩa của thuật từ mục tử.
Mục tử là người chăn. Chăn nuôi, chăn giữ hay chăn dắt? -
Nuôi, giữ hay dắt chẳng qua chỉ là từ ghép đệm âm, vì thực ra trong từ chăn đã
hàm ý nuôi dưỡng, trông nom, gìn giữ, dẫn dắt rồi. Nghĩa ẩn dụ chỉ người hướng
dẫn các linh hồn, người coi sóc việc thiêng liêng hay chăm sóc phần hồn, La ngữ
gọi là pastor, “The New Testament Greek Lexicon” định nghĩa như sau: (1) Người
chăm sóc thú vật, đặc biệt là người chăn chiên; (1a) Nghĩa bóng: Người mà sự
chăm sóc và kiểm soát của người ấy khiến cho những người khác đầu phục, và tuân
theo các lời giảng dạy. (2) Nghĩa ẩn dụ: (2a) Người chủ tịch, quản lý, giám đốc
của bất kỳ một cộng đoàn nào: dùng chỉ Đức Kitô, Đầu của Hội Thánh, (2a1) dùng
chỉ những người coi sóc các cộng đoàn Kitô giáo; (2a2) dùng chỉ các vị vua hoặc
hoàng tử.
Nhiệm vụ của một người chăn cừu ở Cận Đông là: (1) Canh
giữ đàn cừu không để kẻ thù hãm hại; (2) Bảo vệ đàn cừu khỏi những kẻ thù tấn
công; (3) Tìm kiếm và giải cứu những cừu lạc mất hay bị nạn; (4) Chữa lành
những con cừu bị thương hay bị bệnh; (5) Yêu thương, chia sẻ cuộc sống với đàn
cừu và như vậy người ấy được đàn cừu tin tưởng.
4. Vài vấn nạn.
1. Có người cho rằng “mục tử” là từ mới xuất hiện chừng 50
năm nay, có lẽ do người Công Giáo tạo ra vì các từ điển ngoài Công giáo không
thấy có mục từ này?
- Thực ra, một trong bốn nghề lao động phổ biến ngày xưa ở
phương đông là: ngư, tiều, canh, mục. Tức là nghề đánh cá, nghề đốn củi, nghề
làm ruộng, nghề chăn nuôi. Người làm những nghề này, Trung Quốc lần lượt gọi
là: Ngư phu, tiều phu, nông phu và mục phu, còn Việt Nam thì quen gọi là: Ngư
phủ, tiều phu, nông phu và mục tử. Mục phu hay mục tử đều chỉ người giữ súc
vật. Nhưng thực tế việc chăn dắt gia súc, đặc biệt là trâu bò, thường được giao
cho các trẻ nhỏ nên người ta gọi đó là các mục đồng (đồng là trẻ nhỏ). Do đó,
trong văn học hạn từ mục tử rất ít khi được sử dụng so với từ mục đồng. Ít, chứ
không phải là không có. Ví dụ: Trong bài thơ “Cảnh chiều hôm” của Bà Huyện
Thanh Quan (1805-1848): “Gác mái, ngư ông về viễn phố; Gõ sừng, mục tử lại
cô thôn”, hay “Tiếng mục tử xa đưa nơi quãng vắng” của
nhà thơ Phan Văn Dật (1907-1987). Trong truyện ngắn “Das Glasperlenspiel (Ảo
hoá)” của Hermann Hesse, bản dịch của Ni sư Trí Hải (1938-2003): Hoàng tử Dasa
trốn bà mẹ ghẻ, trở thành một mục tử,
chàng chăn bò vùng rừng núi.
Nhiều từ điển Việt Nam (tác giả ngoài Công giáo) không có
hạn từ mục tử ? - Chúng tôi thấy có trong hai cuốn
từ điển của Thanh Nghị (1958)[3] và Nguyễn Lân (2000)[4]. Tuy nhiên cả hai tác giả này
đều cho rằng mục tử đồng nghĩa với mục đồng, tức là “kẻ chăn súc vật” hay là
“trẻ em chăn gia súc”[5] (!).
Trong giới Công giáo, có lẽ Lm. Eugène Gouin[6] (1957) là người đầu tiên đã dùng từ
mục tử để dịch từ pasteur trong tiếng Pháp, và sau đó là nhóm phiên dịch các
văn kiện Thánh Công Đồng Chung Vaticanô II (1972) và Điển Ngữ Thần Học Thánh
Kinh (1973) của Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X. Các bản Thánh Kinh tiếng Việt
thường dịch là: mục đồng,
người chăn, kẻ chăn, kẻ chăn chiên, Đấng chăn chiên, Chúa chăn, Chúa chiên...
chỉ có bản của Lm. Nguyễn Thế Thuấn (1976) và Nhóm Phiên Dịch CGKPV sử dụng từ mục tử.
2. Có người cho rằng “tử” nguyên nghĩa là con, chỉ những
gì nhỏ bé, tầm thường, nên khi kết hợp với chữ nào để thành từ mới, cũng được
hiểu là bé nhỏ, tầm thường (xem nghĩa thứ (6) của chữ tử). Nên xem ra sử dụng
từ mục tử để chỉ Chúa Giêsu thì không thích hợp lắm?
- Trong Hán văn, có nhiều chữ hàm ý chỉ người, nhưng có
chỗ tiểu dị. Như chữ: Giả者: thường đi sau một động từ, chỉ người làm việc gì đó: Đọc giả, khán giả, tác giả. Khách客: người ở
ngoài đến tham gia việc gì đó: Hành
khách, thực khách, thích khách. Sư 師: người thuộc
bậc thầy trong một chuyên môn: Nhạc sư,
giáo sư, thiền sư. Phu 夫: người có
nghề nhất định, thiên về tay chân: Ngư phu,
nông phu, tiều phu. Sĩ 仕: người có nghề
nhất định, thiên về trí óc: Nhạc sĩ,
viện sĩ, tu sĩ. Dân 民: người cùng
một giới: Bần dân,
cư dân, nông dân. Hữu友: người cùng chí hướng: Chiến
hữu, giáo hữu, Kitô hữu. Viên 員: người trong
một tổ chức: Học viên,
giáo viên, vận động viên. Trưởng 長: người đứng
đầu: Viện trưởng, gia trưởng, lớp
trưởng. Phó副: người giúp người trưởng: Viện phó,
giám mục phó, lớp phó.
Trường hợp chữ tử 子khá đặc biệt
là vừa hàm ý trọng, tức là
chỉ người chín chắn thuộc bậc đáng kính: (Bách
gia) chư tử, nam tử, quân tử, sĩ tử; lại có trường hợp hàm ý khinh, tức là chỉ kẻ tầm
thường thuộc hạng phàm phu: chu tử (chú lái đò), bàn tử (gã mập), hoại phần tử(kẻ gian), tặc tử (thằng giặc)... Tương tự như chữ gia 家 cũng có ý trọng: chỉ người chuyên
làm việc gì đó: Nông gia,
thương gia, luật gia hoặc
bậc học giả, có học thuyết riêng: Bách gia
(chư tử), triết gia, thần học gia; nhưng cũng có trường hợp hàm ý khinh: Cánh, bọn, lũ...: cô nương gia (姑娘家: cánh con
gái), hài tử gia (孩子家: lũ trẻ)...
Vậy không thể nói chữ tử trongmục tử hàm nghĩa trọng. Đây cũng là một
trường hợp về sự giới hạn trong ngôn ngữ của con người. Thực ra, hình ảnh con chiên và người
chăn chiên trong
Thánh Kinh nhằm diễn tả thân phận bé nhỏ và lệ thuộc của con người vào Thiên
Chúa - Đấng uy dũng và giàu lòng thương xót, ngày đêm che chở bảo vệ con người
khỏi những tai ương hoạn nạn, tìm kiếm khi lạc đường, cứu chữa khi bệnh tật
thương tích và dưỡng nuôi bằng tình yêu khôn tả: “Ông nuôi nó, nó lớn lên ở
bên ông, cùng với con cái ông, nó ăn chung bánh với ông, uống chung chén với
ông, ngủ trong lòng ông: ông coi nó như một đứa con gái” (2 Sm
12,3).
Con chiên không mang nghĩa xấu: “thuộc
hàng súc vật, nô lệ, cuồng tín, mất khả năng suy nghĩ lập luận bình thường mà
chỉ ngoan ngoãn quên mình trong vâng phục” và người chăn chiên không
phải là “những chủ chăn độc ác, xảo quyệt, huyễn hoặc và khuyến dụ con chiên tin
vào những điều không thực” như những người cố tình đả kích Giáo Hội
đã vẽ ra. Thử hỏi những lời vu khống ấy thực sự sẽ đem lại lợi ích gì cho con
người hôm nay?
5. Kết luận.
Mục tử là tiếng đã có sẵn trong đời sống xã hội Việt Nam,
được Giáo Hội sử dụng để dịch từ pastor,
tức là người chăn giữ gia súc. Nếu chúng ta biết rằng “tử” ở đây không có nghĩa
là chết, cũng không có nghĩa là con, mà chỉ là một hợp tố đi sau một danh từ,
để chỉ người, thì từ này rất
thích hợp và sát nghĩa. Nhưng nếu lưu ý rằng từ pastor của Thánh Kinh cũng hàm ý nghĩa là
người chủ chiên (chúa chiên). Vì từ xa xưa chủ chiên thường không trực tiếp
chăn đoàn chiên của mình, nhưng giao cho con mình trông coi. Họ ít khi giao cho
người làm thuê, vì người làm thuê thì không tậm tâm chăm sóc đoàn chiên, nhưng
con cái trong nhà mới có nhiệt tâm chăm lo tốt được. Vì thế, Chúa Giêsu mong
muốn những người Ngài tuyển chọn để coi sóc đoàn chiên của Ngài phải là những “chủ
chiên”, những mục tử thật (x. Ga 10, 11-13). Mục tử thật luôn hết mình vì đàn
chiên. Mục tử giả chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử thật thì hy sinh cho đàn chiên. Mục tử giả chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử thật luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng
cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Mục tử giả chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính
bản thân mình. Họ sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống
còn của đàn chiên.
Từ xưa (1916), Cha Cố Chính Linh đã dịch chữ “pastor
bonus” trong Ga 10, 11-18 là “Chúa Chiên lành”, danh hiệu này vẫn được dùng
trong phụng vụ cho đến ngày nay. Và theo chúng tôi, khi nói về Chúa Giêsu, chữ
“Chúa Chiên” gần với ý nghĩa Thánh Kinh của pastorhơn
là chữ mục tử.
[1] Xem http://www.etymonline.com:
shepherd.
[2] Ví dụ: King James Bible; Jubilee Bible
2000; American King James Version; Douay-Rheims Bible; Webster's Bible
Translation.
[3] Thanh Nghị, TỪ ĐIỂN VIỆT NAM, Thời Thế
xb, Sài Gòn, 1958, tr. 835.
[4] Nguyễn Lân, TỪ ĐIỂN TỪ VÀ NGỮ VIỆT
NAM, nxb. TP.HCM, TP.HCM, 2000, tr. 1199.
[5] Thanh Nghị, Sđd., tr. 835 và Nguyễn
Lân, Sđd., tr. 1199.
[6] Eugène Gouin, MEP, DICTIONNAIRE
VIETNAMIEN CHINOIS FRANÇAIS, D’Extrême Orient, Sài Gòn, 1957, tr. 838.
Tác giả: Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ