Hoà
Đức Hồng
y GB. Phạm Minh Mẫn trong các bài phát biểu, khi bàn về các mối tương quan trong
xã hội và Giáo Hội, hay mượn câu nói của Mạnh Tử “Thiên thời, địa lợi, nhân hoà” để diễn tả. Thật vậy, trong quan niệm Nho giáo, nhân hoà là yếu
tố
quan trọng nhất. Về phương diện xã giao, quan hệ giữa người với người,
giữ được hoà khí là điều cần
thiết.
Vậy, thử xem chữ hoà trong quan niệm Nho giáo và Công giáo có
khác
biệt không?
1. Nghĩa của chữ hoà
Hoà, có bốn chữ Hán:
Chữ đang bàn là
chữ có nghĩa: (dt.) (1) Êm ái, yên ổn: hoà ái, hoà hợp, dung
hoà, thuận hoà, trung hoà. (2) Kết thúc chiến tranh hay tranh chấp: hoà bình,
hoà hảo, hoà nghị, hoà ước. (3) Phép cộng, tổng, tổng số: Ngũ hoà ngũ như thập: (tổng số của 5 và 5 là 10). (4) Vừa phải, không thái quá, không bất cập: Lễ chi dụng, hoà
vi quý (dựa theo lễ hành sự, phải hoà mới là quý). (5) Tên nhạc khí cổ,
đại sanh gọi là sào,
cái nhỏ
gọi
là hoà. (6) Cái chuông xe, cũng gọi là loan, vì vậy
chuông xe còn gọi là hoà
loan. (7) Tấm ván ở hai đầu áo quan: Hoà đầu. (8) Danh từ toán học: Hoà hiệu (số này so với số kia thì số tăng lên gọi là hoà, số giảm đi gọi là hiệu). (9) Dịch âm tiếng
Phạn nghĩa là chắp tay
làm
lễ: Hoà-nam (giốc lòng kính lễ). (10) Dịch âm tiếng Phạn, nghĩa là ông thầy dạy
mình
tu học: Hoà thượng. (11) Tên nước Nhật: Hoà Quốc. (12) Áo kimônô của phụ nữ Nhật: Hoà phục. (13) Họ Hoà. (đt.) (14) Tốt với nhau: Hoà
mục. (15) Không phân thắng bại:
Hoà kỳ (đánh cờ hoà nhau). (16)
Bằng, đều: hoà giá (làm cho
giá đồng đều). (17) Pha đều: Hoà
dược
(hoà thuốc). (18) Làm lẫn vào nhau
đến mức không
có sự phân biệt: mồ hôi hoà nước mắt.
(19)
Làm lành với nhau:
hoà hảo như sơ (làm lành như trước). (20) Cộng lại: tổng hoà (tất cả cộng lại). (21) Nhận chúng vào: Hoà âm, hoà tấu. (22)
Mang (theo):
Hoà y nhi miên (mang bộ áo đang mặc đi ngủ). (23)
Tương ứng: Phụ hoà. (24) Hát theo: Ứng hoà. (25) Đồng ý:
Ứng hoà. (tt.) (26) Không trái với ai, không có mâu thuẫn, xung đột: hoà giải, giảng hoà, hoà khí; (27) Hiệp đều: Hoà hài
(hài hoà). (28) Ấm: Phong hoà nhật lệ (gió ấm trời đẹp). (29)
An
tường: Tâm bình khí hoà. (lt.) (30) Cùng, và, với, luôn cả:
Ngã hoà nễ (tôi và anh). (Giới từ) (31) Tương quan: Hoà nễ bỉ (so
sánh
với anh).
Nghĩa Nôm là:
(1) Đều: Vẹn cả hoà hai. (2) Mà: Để hoà nối
dõi tông đường.
2. Quan niệm về hoà
2.1. “Hoà”
trong
Nho giáo
Hoà là khái niệm cốt lõi trong
tư tưởng
Nho
giáo. Ý nghĩa cơ bản
của
nó là âm thanh hài hoà tương ứng
nhau, nghĩa mở rộng là hài hoà, hoà hợp, hoà bình, an tường. Hoà là yếu tố trong cùng một sự việc, hay nhiều sự việc khác nhau trong kết cấu hệ thống nhất định, duy
trì được một trạng thái tương đối cân
bằng.
2.1.1 Tư tưởng chuộng hoà của Khổng Tử bắt nguồn từ
quan
niệm chuộng hoà của Sử Bá thời cuối Tây Chu cho đến Yến Anh
thời Xuân Thu:
Trong Quốc Ngữ -
Trịnh Ngữ có ghi lời bình của nhà tư tưởng Sử Bá,[1] ông nói: “Hoà thực sinh vật, đồng tắc bất kế, dĩ tha bình tha vị chi hoà” (Yếu tố bất đồng
nhưng hài hoà nhau,
thì
sự vật được phát triển phồn vinh, nếu yếu tố đồng nhất cộng
lại
nhau mà thôi, thì sự vật sẽ đình trệ hay chết). Nên trời đã dùng thổ hỗn hợp
với kim,
mộc, thuỷ, hoả, thành vạn vật. Cũng như ngũ vị (mặn, ngọt, chua, cay, đắng) hài hoà mới ngon miệng, ngũ âm (cung, thương, giốc, chuỷ, vũ) hài hoà mới sướng tai.
Yến Anh [2]
lại phát huy hàm nghĩa của hoà là sự tương thành tương tế (giúp nhau hình thành lẫn nhau) của những sự vật tương dị. Trong
Tả
Truyện ghi lại cuộc đối thoại giữa Yến Anh
và
Tề Cảnh Công [3]: Tề Cảnh Công hỏi Yến Anh: “Hoà với
đồng khác nhau ư?”. Yến Anh dùng ví dụ trả lời: “Khác chứ. Hoà
thì như là bát
canh. Các thứ thịt,
cá,
rau, muối, dấm,
nước đúng cân đúng lượng, hoà hợp
với
nhau, ăn vào mát ruột. Đạo
vua
tôi cũng vậy. Trong một việc, vua cho là phải, nếu có phần nào chưa phải, tôi cần sửa ngay.
Vua
cho là trái, có phần nào phải, tôi cần biết ngay. Có như thế, chính trị mới công bằng,
dân mới không
thấy
có cái gì trái. Hoà
cũng
như là tiếng nhạc, năm thanh, sáu luật, phải hợp với nhau,
tiếng nhạc mới hoàn hảo. Nay như Lương
Khâu Cứ, điều gì vua
cho là
phải, y liền tán đồng cho
là phải ngay. Điều gì vua
nói là
trái, cũng tán
đồng cho là
trái ngay. Như vậy chỉ có Đồng, chứ không phải
là Hoà. Nếu canh chỉ có một chất nước mà thôi, thì sao gọi
là canh; nếu đàn cầm, đàn sắt chỉ có một âm thanh, sao gọi là nhạc. Hoà khác với Đồng. Như Bệ Hạ và
Lương Khâu Cứ, chỉ
có Đồng
mà thôi”.
Sử Bá và Yến Anh
còn áp
dụng quan điểm hoà và đồng vào phương diện chính trị. Khi Trịnh
Hoàn
Công [4] bàn với Sử Bá về nguyên nhân tật xấu và suy tàn của nhà Chu, Sử Bá cho biết:
“Huỷ diệt sự khác biệt mà nhấn mạnh đồng nhất,
độc đoán chuyên chế, mà không nghe những ý kiến khác, sao mà không
xảy ra tệ đoan xã hội? Bỏ hoà mà giữ đồng chính là nguyên nhân suy tàn của
nhà Chu”.[5]
2.1.2 Khổng Tử chủ trương lấy học thuyết nhân-lễ thống nhất của mình làm chuẩn tắc cơ
bản để hoà hợp
với các ý kiến.
Về
chính trị, Khổng Tử còn
nêu ra “hoà vô quả” (hoà thì không cô độc),[6] cho rằng các vua chư hầu và các quan đại phu nếu có
thể
đạt được sự hài hoà thống nhất, thì sẽ không cảm thấy
cô độc, ít người. Môn đệ của Khổng
Tử là Hữu Nhược từng
khái quát tư tưởng chuộng hoà của Khổng Tử thành “hoà
vi
quý”.[7]
Tuy nhiên ở thời đại của Khổng
Tử, ông chưa tuyệt đối hoá chữ hoà, cho nên nói “Tri hoà nhi hoà, bất dĩ lễ tiết chi, diệc bất khả hành dã”.[8] Đối với những kẻ bề ngoài có vẻ như trung hoà
song thực ra là “ba phải” như bèo
trôi theo
sóng một cách vô nguyên tắc, thì ông mắng là “Hương nguyện, đức chi tặc
dã” (Kẻ đàn anh
trong làng là kẻ làm hại đạo đức vậy).[9]
2.1.3 Sau Khổng Tử, Mạnh Từ chủ
trương “Thiên thời, địa
lợi, nhân hoà” và nói:
“Thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất
như nhân hoà” (Thiên thời không
bằng địa lợi, địa lợi không bằng
nhân
hoà). Mạnh Tử nhìn từ góc độ
quân
sự, nhân hoà là
quan
trọng nhất,
kế đó là địa lợi,
cuối
cùng mới là thiên thời. Nay có thể áp dụng vào việc cạnh tranh thương nghiệp, thi đấu
thể
thao. Tuân Tử nhìn vấn đề này về góc độ nông nghiệp, thì thiên thời, địa lợi, nhân hoà đều quan trọng, không thứ nào hơn. Tử Tư [10] lại phát huy tư tưởng chuộng hoà của Khổng Tử, coi hoà là đạt đạo của thiên hạ, có thể giải quyết mọi mâu thuẫn của thiên hạ:
“Vạn vật bính dục nhi bất tương hại, đạo
bính
hành nhi bất tương bội”,[11] nghĩa là vạn vật sinh trưởng
mà không
làm
hại nhau, nhật nguyệt vận hành bốn mùa thay
nhau mà không nghịch nhau.
2.1.4 Tóm lại: Hoà là một khái niệm quan trọng và giá trị
cốt
lõi của tư tưởng
văn hoá truyền thống
Nho
giáo. Văn hoá “hoà” của Nho giáo là tinh tuý văn hoá truyền thống Trung Hoa. Hoà bao gồm ba ý nghĩa: “Hoà” của phẩm chất đạo đức, “trung hoà” của bản thể đạo đức, “thái hoà” của bản thể thế giới. Nó bao gồm định hướng giá trị của “hoà vi quý”, cơ
chế động lực của “hoà nhi bất đồng” [12] (hoà với mọi người mà không về hùa với ai), đường hướng phát triển của “hoà thực
sinh vật” [13]
(chỉ khi có hài hoà, hợp thông mới có thể sản sinh và
phát triển vạn vật), cách
suy
tư của
“chấp lưỡng dụng trung”
(nắm hai đầu mà dùng cái ở giữa, ý nói không
thái quá,
không bất cập. Làm việc phải căn cứ vào tình huống khác
nhau, mà dùng
phương pháp thích hợp), nhắm vào mục đích cuối
cùng là “thiên nhân hợp nhất”.[14] Những yếu tố này trở
thành một hệ thống logic, thể hiện thực chất lý luận văn hoá hoà của Nho
giáo.
Cách Nho giáo
thực hiện
hoà chủ yếu là lễ, yêu cầu cụ thể là “minh phận” (hiểu rõ trách nhiệm), “an
phận” (làm theo bổn phận), “tận luân tận trách” (luân là thân phận,
biết
rõ thân phận của mình mà làm trọn bổn phận), “trung tiết”
(làm
việc đúng lễ độ).
2.2. “Hoà”
trong
Công
giáo
Nguyên Giáo Tông Bênêđitô XVI, trước khi từ nhiệm vào ngày 28.2.2013, trong lần cuối cùng gặp các hồng y, ngài nói:
“Hồng y đoàn giống như một dàn nhạc, trong đó có các khác biệt, diễn tả Giáo Hội đại đồng, luôn luôn cùng quy hướng về
sự hài hoà cao hơn”. Ngài nói thêm: “Chúa Kitô tiếp tục bước
đi qua thời gian trong tất cả mọi nơi. Anh em
thân
mến, chúng ta hãy hợp nhất trong mầu nhiệm này, trong lời cầu nguyện, một cách
đặc biệt trong
Thánh Thể hằng ngày”.
Trong buổi tiếp Hồng y
đoàn
ngày 15.3.2013 vừa qua, Đức
Giáo Tông Phanxicô nói:
“Thật thú vị và tôi nghĩ rằng chính là
Chúa Thánh Thần đã tạo ra
một
sự khác biệt trong Giáo Hội. Đấng An Ủi dường như là một tông đồ về một tháp Babel kết
hợp
tất cả những sự khác biệt, không phải bằng cách coi mọi thứ như
nhau, nhưng
bằng cách hài hoà chúng”.
Hài hoà của Công giáo không
thuần tuý
như kiểu thế gian,
mà
được đặt trên nền tảng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là
gương mẫu. Ba Ngôi hoàn toàn
khác
biệt, không đồng nhất, nhưng lại “hoà” trong một Thiên Chúa duy
nhất. Một gương
mẫu
quan trọng khác là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa, vừa là con người. Chính
nhờ sự kết hợp hài hoà này mà con người được cứu rỗi. “Mọi sự ấy đều do bởi
Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta
được
hoà giải với Ngài, và
trao
cho chúng tôi chức vụ hoà giải.
Thật vậy, trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được
hoà giải với Ngài. Ngài
không còn chấp tội nhân loại nữa,
và giao
cho chúng
tôi công bố lời hoà
giải” (2Cr
5,18-19).
Con người được cứu rỗi là được hưởng tôn nhan Chúa, cũng có nghĩa là kết hợp với Chúa, loài thụ tạo kết hợp với
Đấng Tạo Hoá. Nên hài hoà xuất phát từ Thiên Chúa và cũng sẽ kết thúc nơi Thiên Chúa.
Nhờ được kết hợp
hài hoà với Thiên Chúa, con
người cũng
kết
hợp hài hoà với đồng
loại. Về mặt nhân bản, người Công
giáo luôn tôn trọng quyền lợi của người khác, đối xử hài hoà với hết mọi người.
Thánh
Phaolô nói: “Quả thế, bất cứ ai trong anh
em được thánh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức
Kitô. Không còn chuyện
phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ
hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một
trong Đức Kitô” (Gl 3,27-28). Sống hài hoà với mọi người không phải là người không nguyên tắc, Thánh Phaolô
nói, “Với người Do Thái, tôi đã trở nên
Do
Thái, để chinh
phục người Do Thái” (1Cr 9,20). Ngài còn nhấn mạnh thêm: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người
yếu. Tôi đã trở nên
tất
cả cho mọi người, để bằng
mọi
cách cứu được một số người” (1Cr 9,22). Sống hài hoà với mọi người
là để mọi người được giao
hoà
với
Thiên Chúa.
Người Công giáo luôn tôn trọng quyền lợi của người khác để sống hài hoà với nhau. Trong
bài
“Con đường
kiến
tạo hoà bình chân
chính và vững bền”, Đức Hồng y GB. Phạm Minh
Mẫn nói: “Nền hoà bình chân chính, không đơn giản chỉ là vắng bóng chiến tranh, song là một cuộc sống chan hoà niềm tin yêu đối với Thiên Chúa, và tình huynh đệ hài hoà, tình
tương thân tương trợ, tương
kính tương nhượng, giữa
con người với nhau,
cũng
như giữa các dân tộc trên mặt địa
cầu hôm nay”.
Mặt khác, Thánh
Kinh
cũng vạch rõ nguyên nhân
khiến con người bị phân rẽ ngay
bên
trong chính mình, nên cũng phân rẽ với người khác. Nguyên
nhân không gì khác ngoài tội lỗi và sự dữ đã ăn sâu vào trong
mỗi
người (x.
St
3,1-4,16). Tội lỗi làm tan rã chính mình
và
chia cắt với mọi người. Tội lỗi không
chỉ làm người ta đoạn tuyệt mình khỏi Thiên Chúa, đoạn tuyệt mình
khỏi người khác, mà còn đoạn tuyệt mình với chính mình
nữa. Sự xung đột
giữa người với người chỉ chấm dứt khi con
người tìm lại sự hài hoà trong chính bản thân. Muốn được vậy, chúng
ta kiên quyết nhờ vào ơn Chúa, để nỗ lực thống
nhất
đời sống nội tâm của mình. Thống nhất nội tâm là một sự hoà điệu
thâm sâu của toàn thể con người khi được cuốn hút hoàn toàn
trước vẻ đẹp rạng ngời của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi, qua
Đấng Trung Gian hoà giải là Chúa Giêsu Kitô, làm nhịp
cầu nối kết không chỉ các cá nhân đang chia rẽ nhau, mà nhất là Ngài còn hợp nhất lại những gì đã phân rẽ bên
trong mỗi người để có thể sống
đức
ái giao hoà như Thánh Phaolô đã nêu lên: Đức ái thì nhẫn nhục... không nóng giận,
không nuôi hận thù... Đức ái tha
thứ
tất cả, tin tưởng
tất
cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả (1Cr 13,4-7).[15]
Mặt khác, Giáo lý Công giáo dựa trên nền tảng
Thánh Kinh về công trình tạo dựng của Thiên Chúa (x.St 1,26-2,8) không
ngừng nhắc nhở và mời gọi con người ngày nay ý thức sự cần
thiết phải giữ mối hài hoà với thiên nhiên: “Từ ban đầu, Thiên
Chúa đã trao cho nhân
loại
chung sức quản lý, để con
người chăm sóc, chế ngự chúng bằng lao động và hưởng dùng hoa trái của trái đất” (GLHTCG
2402). Trong bài phát biểu trước
các
khách hành hương vào kỳ hè năm 2011,[16] nguyên Giáo Tông Bênêđitô XVI đặc biệt kêu gọi các bậc cha mẹ hãy giáo dục con cái mình trong ý nghĩa này: "Hỡi các cha mẹ, hãy dạy
cho
con cái anh chị em quan sát thiên nhiên, tôn trọng và bảo
vệ
thiên nhiên, như một món quà tuyệt vời, vốn làm cho chúng
ta cảm nhận được sự vĩ đại của
Đấng Tạo Hoá!".
3. Kết
luận
Nho giáo và Công
giáo
đều nói đến hoà, hài hoà. Nhưng Nho giáo chỉ đơn thuần đưa ra quan niệm
hoà về nhân bản (đối
nhân), hay chỉ nói đến cách xử thế ở đời. Còn Công Giáo trước hết quy hướng hoà về mặt đối thần. Hoà trong Chúa, vì Chúa, cho Chúa, hướng đến Thiên Chúa, nhờ đó mà giữ sự hài hoà
trong chính bản thân, rồi cũng từ đó mà hoà với tha nhân và thiên nhiên vạn vật.
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
[1] Người thời Tây Chu (1046-771 TCN).
[2] Nhà tư tưởng thời cuối Xuân Thu (?-500 TCN).
[3] (547-490
TCN).
[4] Vị
vua đầu tiên nước Trịnh, một chư hầu nhà
[5] Quốc Ngữ - Trịnh Ngữ.
[6] Luận ngữ - Quý Thị.
[7] Luận ngữ - Học Nhi.
[8] Luận ngữ - Học Nhi.
[9] Luận ngữ - Dương Hoá.
[10] Tương
truyền Tử Tư là người làm ra thiên Trung Dung.
[11] Trung Dung.
[12] “Quân tử hoà nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa” (Luận
Ngữ: Tử Lộ, XIII).
[13] “Hoà thực sinh vật, đồng tắc bất kế, dĩ tha bình tha vị chi hoà”
(Quốc ngữ. Trịnh ngữ), là quan điểm biện chứng về khởi nguyên của thế giới do Sử Bá khởi xướng vào năm cuối của Tây Chu (803 TCN).
[14] “Thiên
nhân hợp nhất” do Trang Tử đề ra, nhà tư tưởng Đổng Trọng Thư thời Tây Hán phát triển thành một hệ thống tư tưởng Triết
học,
nhưng khác với quan niệm của Công giáo.
[15] x.
LM Thái Nguyên, Đức ái giao hoà.
[16] VietCatholic 7.11.2011.