PHÚC ÂM - TIN MỪNG
(giaolyductin.org)
- 22 / 02/ 2016, 08:02:07
Bắt đầu mùa Chay, Hội Thánh kêu gọi chúng ta: “Hãy ăn năn xám
hối và tin vào Phúc Âm”[1](Mc 1,15).
Câu Thánh Kinh này tiếng La Tinh: “Paenitemini et credite
evangelio”. Trong đó, chữ Evangelio (Evangelium) trước đây dịch
là “Phúc Âm”, nhưng nay, càng ngày càng nhiều người thích dịch là “Tin Mừng”[2],
điều này xem ra không thể đảo ngược được…Vậy, chúng ta thử tìm hiểu nghĩa của
thuật từ Phúc Âm và Tin Mừng…..
1. Tìm hiểu nguyên ngữ evangelium
Evangelium phát xuất từ tiếng Hy Lạp là euaggelion [eu
= tốt lành, vui mừng; aggelion = tin tức, sứ điệp]. Theo nghĩa thông thường của
người Hy Lạp, euaggelion là một tin tốt, đặc biệt là tin báo chiến thắng. Trong
thời bình của Đế quốc Rôma, những biến cố lớn của hoàng đế (người được xem như
là thần linh và là cứu chúa) đều được ca tụng như những evangelium. Ngôn ngữ
Kitô Giáo vay mượn động từ euangelizomai “loan báo tin tốt lành” trong Cựu Ước,
với ý nghĩa đặc biệt đã có sẵn: Loan báo ơn cứu độ (x. Is 40,9; 41,27; 52,7;
61,1)[3] .
Đối với chúng ta, evangelium chỉ bản văn kể lại
cuộc đời Chúa Giêsu hoặc chỉ những phân đoạn của bản văn đó đọc trong Thánh Lễ.
Trên phương diện thần học, evangelium được hiểu
là[4] :
1). Tin về ơn cứu độ do Đấng Messia mang đến cho loài người.
2). Giáo huấn của Chúa Giêsu, do các Tông Đồ rao giảng.
3). Sự ghi chép của lời giáo huấn này thành sách.
4). Mỗi cuốn trong bốn cuốn ghi lại lời giảng dạy này và được nhận
vào Thư Quy.
Trong Thánh Kinh, từ euaggelion được sử dụng rất
nhiều (khoảng 20 lần trong Cựu Ước và khoảng 150 lần trong Tân Ước).
Để dịch từ euaggelion, các bản dịch tiếng Anh dùng
những từ như: Evangel, gospel, good news, good tidings, glad tidings, joyful
message...; các bản dịch tiếng Pháp cũng dùng những chữ như: Évangile, bonne
nouvelle, joyeuse messagère,... và ngay cả trong Nova Vulgata cũng dùng nhiều
chữ như: Evangelium, adnuntiantes, adnuntiantis bonum, ostenderetur, bona
nuntians... Trong khi đó, các bản dịch tiếng Việt có thế giá nhất (của UBPV
HĐGMVN, Nhóm CGKPV, cha Nguyễn Thế Thuấn - dựa vào các bản Hy Lạp) thì chỉ dịch
là tin mừng, không dùng đến từ phúc âm! (Bản dịch của
cha Trần Đức Huân dựa vào Bản Phổ Thông (Vulgata) thì dịch là tin lành, phúc
âm, người đem tin... )[5].
2. Tìm hiểu từ Phúc Âm
2.1. Phúc, có 4 chữ Hán: 福, 腹, 覆, 輻, ở đây là chữ 福, có nghĩa:
Điều may mắn, tốt lành, trái với hoạ.
Thật vậy, phúc là một trong cửu trù Hồng Phạm
do Trời ban cho vua Vũ để “di luân di tự” (luân thường vì thế mà bày ra có thứ
tự), và Kinh Thư chia phúc ra năm loại, gọi là ngũ phúc[6] gồm: (1) Trường thọ (sống lâu dài,
không đoản mệnh). (2) Phú quý (tiền của nhiều, địa vị tôn quý). (3)
Khang ninh (thân thể khỏe mạnh, tâm hồn yên lành). (4) Hiếu đức (tính
lương thiện, nhân hậu, bình tĩnh). (5) Thiện chung (“chết lành”: có thể
tiên liệu thời kỳ chết của mình. Khi lâm chung không gặp tai hoạ, thân thể
không đau đớn vì bệnh tật, trong lòng không vương vấn và phiền não, ôn hoà tự tại
rời khỏi nhân gian).
Cuộc đời hạnh phúc mỹ mãn khi được cả ngũ phúc, nếu
thiếu điều nào thì vẫn chưa được phúc hoàn toàn. Ví dụ: người trường thọ mà
nghèo khổ, người phú quý mà yểu mệnh, người sang giàu nhưng luôn phải lao tâm
khổ xác, người nghèo hèn mà thiện chung, người phú quý, trường thọ nhưng cuối đời
gặp tai hoạ chết bất đắc kỳ tử... Cảnh ngộ cuộc đời phức tạp nhiều không kể hết.
Đó là mới nói đến sự biến hoá của ngũ phúc. Chỉ khi toàn bộ ngũ phúc đều có cả
mới được gọi là thập toàn thập mỹ, còn các trường hợp còn lại đều là tốt đẹp
không trọn vẹn.
Trong ngũ phúc, hiếu đức (phúc thứ tư) là quan trọng nhất. Đức là
nguyên nhân và là cái gốc của phúc. Phúc là biểu
hiện và là kết quả của đức. Người có phúc hiếu đức thì lương thiện, nhân hậu,
hiền hoà, thuần khiết, lúc nào cũng bố thí, hay làm việc thiện, tích nhiều ân đức,
nhờ đó có thể bồi dưỡng bốn phúc khác, làm cho nó không ngừng phát triển. Do
đó, hiếu đức được xem là “phúc tướng”.
Theo Lục Thư[7], chữ phúc (福) thuộc “hình
thinh”. Viết bộ thị (示còn đọc kỳ) và thinh bức (畐bị), có nghĩa
phù hộ, là thần ban điều lành giúp con người, nên viết bộ thị (示) và dùng bức
(畐) với âm bị,
có nghĩa là mãn (nghĩa là có đầy đủ, không gì không thuận lợi là phúc), tức là:
trời đất ban xuống những điều tốt lành để thoả mãn nguyện vọng của con người,
nên dùng thinh畐.
Thuyết Văn dùng chữ phúc với nghĩa là bị (bị là mọi việc đều thuận
lợi). Chữ 福 đọc âm “phúc”, có nghĩa là mình xin cho được nhiều
phúc.
2.2. Âm, có 3 chữ Hán: 陰, 音, 瘖, chữ liên
quan là音, có 3 nghĩa:
(1) Tiếng nói, cái mà tai có thể nghe được. (2) Đơn vị ngữ âm nhỏ nhất. (3) Tin
tức.
Âm (音) trong từ phúc âm (福音) có nghĩa là
tiếng, tin, thuộc loại “chỉ sự”. Viết chữ ngôn (言- lời) ngậm dấu
ngang (—) là cái dấu để tạo chữ, không phải là chữ nhất (一), quy định dấu
ngắn thì đặt ở trên dấu ngang, dấu dài đặt ở dưới. Thí dụ: chữ thượng (上) cách trình
bày của loại chỉ sự là dấu ngang (二); chữ hạ (下) là
2.3. Phúc âm: Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, phúc âm (福音) có nghĩa là
“tiếng nói may mắn, tin tốt lành lớn”. Nhưng nếu tìm hiểu rộng hơn,
thì chữ phúc - theo triết lý Đông phương - bao hàm tất cả những điều thiện hảo
mà con người có thể hình dung hay mơ tưởng.
3. Tìm hiểu từ tin mừng
3.1. Tin, là tiếng Nôm, có 3 nghĩa: (1) Cho là thật;
là chắc chắn, đáng trông cậy vào, đáng được trao tâm tình, của cải, trách nhiệm.
(2) Điều được truyền đi (hay báo cho biết) về sự việc, tình hình xảy ra. (3)
Trúng, đúng, đạt đến độ chính xác cao.
3.2. Mừng, là tiếng Nôm, có 2 nghĩa: (1) Cảm thấy thích thú, vui sướng.
(2) Tỏ ý chia vui bằng lời nói hay tặng phẩm.
3.3. Tin mừng: là tin tức đem lại niềm vui.
4. Nhận xét
Thuật từ tin mừng có nội dung đơn giản là tin tức
(đem lại) niềm vui mừng, “hỉ tín”. Trong khi từ phúc âm, theo văn
hoá Á Đông, bao hàm nhiều ý tưởng phong phú và sâu sắc hơn rất nhiều. Phải
chăng vì có sự khác biệt giữa những tin vui phàm tục (tin thắng trận, tin kẻ
thù bị tiệu diệt, tin người son sẻ có mang...) với tin mừng bất diệt (tin loan
báo ơn cứu độ, lời hằng sống của Chúa Giêsu...) mà các bản Thánh Kinh La ngữ,
cũng như những bản dịch ngoại ngữ khác, đã phải dùng thêm nhiều từ khác ngoài từ
evangelium, nhưng vẫn không lột tả được hết ý nghĩa.
Các ngôn ngữ phương Tây, vì không có từ ngữ khả dĩ nên hầu hết đều
vay mượn từ hoặc âm evangelium để diễn tả nội dung tin mừng bất diệt. Ngày xưa,
các vị thừa sai cũng đã dịch âm evangelium sang tiếng Việt là Evang, Sách
Evang. Nhưng sau đã có từ Phúc Âm với ý nghĩa triết lý Đông
phương rất thâm thuý mà tiếng các nước phương Tây không thể có được.
Kết luận
Vậy, vì lí do gì, căn cứ vào đâu chúng ta lại bỏ qua từ Phúc
Âm, mà chỉ dùng một từ Tin Mừng với ý nghĩa không có gì
sâu sắc cả?
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
[1] Kinh Thánh, LM. Trần Đức Huân dịch , Sàigòn, 1968.
[2] Không tìm thấy chữ Phúc Âm trong toàn bộ Kinh Thánh
do Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ dịch, ấn bản điện tử của VietCatholic
Bible 2000-2003.
[3] Hippri: mebassèr (annunciation, message, news,
tidings), mebasseret ( Is 40,9): good tidings.
[4] Xem Olivier de La Brosse, DICTIONNAIRE DE LA FOI
CHRÉTIENNE: Évangile
[5] Có thể trưng vài dẫn chứng như sau:
Bản văn
|
Modern
Greek |
Greek OT
(Septuagint/LXX) |
Nova Vulgata |
1. 1Sm
31,9 |
aggelianeis |
euaggelizontes |
annuntiaretur |
2. 2Sm 18,31
|
aggelias |
euaggelisthito |
bonumapporto
nuntium |
3. Is
40,9 |
aggellias |
euaggelizomenos |
evangelizas |
4. Is 52,7 |
aeuaggelizomenou |
euaggelizomenou |
annuntiantis |
5. Is
52,7 |
beuaggelizomenou |
euaggelizomenos |
annuntiantis
bonum |
6. Mc
1,1 |
euaggeliou |
euaggelio |
evangelii |
Bản văn |
Nhóm
CGKPV |
Nguyễn Thế
Thuấn |
Trần Đức Huân |
1 1Sm
31,9 |
báo tin mừng |
rao tin mừng |
kẻ loan tin |
2 2Sm
18,31 |
tin mừng |
tin mừng |
tin mừng |
3 Is
40,9 |
kẻ loan tin mừng |
người loan
báo tin mừng |
ai giảng tin
lành, ai rao tân ước |
4 Is 52,7a |
người loan
báo tin mừng |
người sứ giả |
thông tín
viên |
5 Is 52,7b |
người loan
tin hạnh phúc |
kẻ đem tin mừng |
kẻ đem tin
lành |
6 Mc
1,1 |
Tin Mừng |
Tin Mừng |
Phúc Âm |
Bản văn |
The Jerusalem
Bible 1966 |
Jewish
Publication Society 1917 |
King James
Version |
1 1Sm 31,9 |
proclaim the
good news |
to carry the
tidings |
to publish |
2 2Sm
18,31 |
good news |
tidings |
tidings |
3 Is 40,9 |
joyful
messenger |
good tidings |
good tidings |
4 Is 52,7a |
who rings
good news |
the messenger
of good tidings |
that bringeth
good tidings |
5 Is 52,7b |
(who)
brings happpiness |
the harbinger
of good tidings |
that
bringeth good tidings of good |
6 Mc 1,1 |
Good News |
The Gospel |
|
Bản
văn |
French–Darby |
French -
Louis |
Segond
Biblique De Jérusalem, 1956 |
1 1Sm
31,9 |
annoncer la
bonne nouvelle |
annoncer ces
bonnes nouvelles |
annoncer la
bonne nouvelle |
2 2Sm 18,31 |
une bonne
nouvelle |
la bonne
nouvelle |
la bonne
nouvelle |
3 Is
40,9 |
bonnes
nouvelles |
bonne
nouvelle |
joyeuse
messagère |
4 Is 52,7a |
qui apporte
de bonnes nouvelles |
qui apporte
de bonnes nouvelles |
porteur de
bonnes nouvelles |
5 Is 52,7b |
qui apporte
des nouvelles de bonheur |
qui apporte
de bonnes nouvelle |
qui apporte
le bonheur |
6 Mc
1,1 |
l'évangile
l'Évangile |
|
La Bonne
Nouvelle |
[6] ”Cửu ngũ phúc:
Nhất viết thọ, nhị viết phú, tam viết khang ninh, tứ viết du hiếu đức, ngũ viết
khảo chung mệnh” (Kinh Thư, thiên Hồng Phạm, 33).
[7] 6 quy tắc tạo nên chữ Hán gọi là Lục thư: (1) Tượng
hình. (2) Chỉ sự. (3) Hội ý. (4) Hình thinh. (5) Chuyển chú. (6) Giả tá.