Việc Quản Trị Trong Hội Thánh và Nhận Định Thiêng Liêng
(cxatechesis.net
10-11-2014)
Lm. Giuse Nguyễn
Công Đoan, SJ.
Giám đốc Giáo Hoàng Học Viện Thánh Kinh tại Giêrusalem, và
phụ trách các tu sĩ Dòng Tên phục vụ tại Thánh Địa.
***
I. QUẢN TRỊ HÀNH CHÁNH VÀ QUẢN TRỊ HỘI
THÁNH
Trong lịch sử, từ sau khi
thoát khỏi cuộc bách hại của đế quốc Roma, Giáo Hội vẫn đòi quyền được coi là một
xã hội hoàn hảo, nghĩa là một xã hội với đầy đủ mọi yếu tố cấu tạo, do đó ngang
hàng với bất cứ xã hội trần thế nào khác, có guồng máy quản trị riêng, luật lệ
riêng. Rồi từ chỗ đòi quyền ngang hàng với mọi xã hội trần thế, Giáo Hội còn
vươn lên đặt mình trên mọi xã hội trần thế, trở thành người ban phát quyền lực
cho mọi bậc quân vương ở châu Âu. Hệ quả của quan niệm này là Giáo Hội trở
thành một tổ chức quá giống với xã hội trần thế, đồng thời sự khẳng định tính
cách thánh thiêng làm cho mọi cơ cấu tổ chức và luật lệ của Giáo Hội trở thành
những cái tuyệt đối không gì lay chuyển được. Việc quản trị trong Giáo Hội thì
có vẻ hoàn toàn hành chánh như xã hội trần thế: cứ theo cơ chế, cứ theo luật lệ
mà thi hành, còn tính cách thánh thiêng trở thành cái áo giáp bảo vệ cho cơ chế
và luật lệ.
Thực trạng này đòi chúng ta phải suy nghĩ và tự hỏi: Nếu Giáo Hội
có tính thánh thiêng thì cái thánh thiêng ở đâu? Nó có ảnh hưởng gì đến vấn đề
quản trị không? Việc quản trị trong Giáo Hội có thể hoàn toàn theo lối quản trị
hành chánh không? Những câu hỏi này không chỉ đặt ra với Hội Thánh phổ quát, mà
ở mọi cấp cộng đoàn Hội Thánh, trong đó có cộng đoàn giáo phận, giáo xứ và cả cộng
đoàn tu sĩ, bởi vì ở cấp độ nào thì cộng đoàn cũng là một cách thể hiện hay
tham dự bản chất của Hội Thánh.
Để trả lời những câu hỏi trên đây, tôi đề nghị chúng ta hãy trở
về nguồn, nhìn lại giai đoạn hình thành của Hội Thánh như sách Công Vụ Tông Đồ
và các thư của thánh Phaolô trình bày để xem tính thánh thiêng ở đâu và nó ảnh
hưởng thế nào đến việc quản trị trong Hội Thánh.
II. CỘNG ĐOÀN HỘI THÁNH TỰ Ý THỨC VỀ
MÌNH NHƯ THẾ NÀO?
Ngay trong bức thư thứ nhất gởi Hội Thánh Thê-xa-lo-ni-ca, được
coi là văn bản sớm nhất của sách Tân Ước, thánh Phaolô Tông Đồ đã dùng một kiểu
nói vừa mượn từ Cựu Ước vừa mang tính mới mẻ của Tân Ước để nói về Hội Thánh:
(tạm dịch sát bản văn Hy Lạp) Hội (thánh) gồm (của) những người dân
Thê-xa-lo-ni-ca ở trong
Thiên Chúa Cha và ở trong Chúa Giêsu Kitô.
Cần xem xét từng từ một : Hội Thánh (ecclesia), Cựu Ước đã dùng
kèm theo Danh Thiên Chúa để nói về cộng đoàn Dân Thiên Chúa, tức là dân
It-ra-en, nay là Hội Thánh gồm những người dân Thê-xa-lo-ni-ca. Cái gì làm cho
họ là Hội Thánh, dù họ không phải là dân It-ra-en? Ở trong Thiên Chúa Cha và ở
trong Chúa Giêsu
Kitô.
Nếu chúng ta hỏi tiếp : cái gì làm cho họ ở trong Thiên Chúa Cha
và ở trong Chúa Giêsu Kitô?
Thánh Phaolô trả lời cho chúng ta trong thư gởi tín hữu Ga-lat
ch.4 và thư gởi tín hữu Rôma, ch. 8: Thần Khí của Thiên Chúa, Thần Khí của Đức
Kitô ở trong chúng ta. Chính Thần Khí làm cho chúng ta kêu lên Abba, Cha ơi (Gl
4,4; Rm 8,15) và hướng dẫn chúng ta sống làm con Thiên Chúa. Cũng chính Thần
Khí làm cho chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa (x.I Cr 12,3).
Như vậy chúng ta thấy rõ ý nghĩa và hệ quả của của Phép Rửa
“Nhân Danh Chúa Cha và Chúa
Con và Chúa Thánh Thần”. Chính sự thuộc về Thiên Chúa Ba Ngôi tới mức ở trong Chúa Cha, ở trong
Chúa Con và ở trong Chúa Thánh Thần làm cho Cộng đồng tín hữu trở thành Hội
Thánh của Thiên Chúa. Chính Thánh Thần là sự hợp nhất giữa Cha và Con làm cho
chúng ta đuợc ở trong Thiên Chúa Cha và ở trong Chúa Giêsu Kitô. Chính Thánh Thần
làm cho chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha bằng cách gọi thân mật nhất, Abba và dẫn
dắt chúng ta sống làm con Thiên Chúa (x.Rm 8,14). Chính vì Thánh Thần nối kết mỗi
người đã chịu Phép Rửa nhân danh Ba Ngôi với Chúa Cha và Chúa Con nên cũng
chính Thánh Thần nối kết họ với nhau đề làm nên Hội Thánh của Thiên Chúa. Chúng
ta hãy đọc lại một đoạn trong thư gởi tín hữu Ephesô sẽ thấy rõ điều này : Nhờ Người (Đức Kitô) cả đôi bên
(Do Thái và Dân ngoại), chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến
cùng Chúa Cha… Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những
người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí (Ep 3,18.22).
Từ những điều trên đây chúng ta đã có thể kết luận rằng Thánh Thần
không chỉ hướng dẫn mỗi người sống làm Con Thiên Chúa mà còn hướng dẫn cả cộng
đồng tín hữu sống làm Dân Thiên Chúa, Hội Thánh của Thiên Chúa.
III. SÁCH TÔNG ĐỒ CÔNG VỤ VÀ MÔ HÌNH
QUẢN TRỊ HỘI THÁNH SƠ KHAI
Sách Công Vụ cho chúng ta chiêm ngắm cộng đồng Hội Thánh trong
bước hình thành và phát triển, từ đó chúng ta có thể nhận ra nhiều điều liên
quan tới ý thức của cộng đồng về chính mình và mô hình quản trị hình thành từng
bước dưới sự dẫn dắt của Thánh Thần.
Từ đầu đến cuối sách Công Vụ chúng ta thấy sự hiện diện và hoạt
động của Thánh Thần bao trùm tất cả. Từng bước chân của các Tông Đồ trong sứ mạng
đem Tin Mừng đến tận cùng thế giới đều như được Thánh Thần trực tiếp dẫn đưa. Từng
cộng đoàn luôn được Thánh Thần điều khiển, dắt dìu.
Tác giả cho chúng ta thấy
ngay từ đầu sự khác biệt trong cách điều hành trước và sau khi cộng đoàn nhận
được quyền năng Thánh Thần. Trong thời gian chờ đợi, việc chọn người thay thế
ông Giu-đa được tiến hành theo cách thức của Cựu Ước là cầu nguyện rồi rút
thăm. Sau này không thấy có lần nào sách Công Vụ hay các sách khác trong Tân Ước
nói đến việc rút thăm nữa. Từ khi Thánh Thần xuống trên cộng đoàn chúng ta thấy
mọi hoạt động, di chuyển đều do Thánh Thần chỉ đạo và tiêu chuẩn chọn người phục
vụ cộng đoàn bao giờ cũng phải là người đầy Thánh Thần.
Tác động đầu tiên của Thánh Thần là các tông đồ, (những người đã
từng bỏ chạy và chối Chúa trong đêm Chúa bị bắt, rồi sau khi Chúa phục sinh, vẫn
còn ở trong nhà đóng kín cửa vì sợ người Do Thái) có thể đứng lên làm chứng về
Chúa Giêsu trước đám đông gồm những người thuộc mọi dân mọi nước tuôn về
Giêrusalem, cũng như khi (hai tông đồ Phêrô và Gioan) bị điệu ra trước Thượng Hội
Đồng: “bấy giờ ông Phêrô được đầy
Thánh Thần, liền nói với họ…” (Cv 4,8).
Sau khi hai ông được tha về và kể lại mọi chuyện cho cộng đoàn,
“họ đồng tâm nhất trí cất
tiếng lên cùng Thiên Chúa…” và khi “họ cầu nguyện xong thì nơi họ họp nhau rung
chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu mạnh dạn nói lời Thiên
Chúa” (Cv 4,24.31). Như vậy là Thánh Thần mở miệng cho họ nói lời Thiên Chúa và cũng Thánh Thần làm
cho lời Thiên Chúa tiếp tục vang lên mà không quyền lực trần gian nào có thể dập
tắt được. “Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe,
mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra” (4,20).
Chương 5 của sách Công Vụ bắt đầu cho chúng ta thấy sự hiện diện của Thánh Thầntrong
việc điều hành cộng đoàn. Khi hai vợ chồng Kha-na-ni-a và Sa-phi-ra âm mưu lừa
dối các tông đồ, thánh Phêrô nói với người chồng: “anh lừa dối Thánh Thần”, và nói với bà vợ
: “Sao anh chị đồng lòng với nhau để thử thách Thần Khí Chúa”. Thánh Thần
hiện diện trong cộng đoàn Hội Thánh và bảo tồn sự thánh thiêng của cộng đoàn bằng
cách loại trừ ngay những kẻ muốn “qua mặt Thánh Thần”. Cũng may là chuyện này
chỉ xảy ra một lần và được ghi lại như một lời cảnh cáo, một lời nhắc nhở và mời
gọi tôn trọng sự thánh thiêng của cộng đồng Hội Thánh vì là Đền Thờ sống động của
Thiên Chúa (x.Ep 2,20-22).
Chương 6 của sách Công Vụ cho chúng ta
thấy một cuộc khủng hoảng cơ cấu của cộngđồng Hội Thánh và cách giải quyết.
Sự hiện diện của hai nhóm có văn hóa và quyền lợi khác nhau chưa được tôn trọng
đúng mức dẫn tới cuộc khủng hoảng. Cách trình bày ở đây giản lược hóa vào chuyện
các bà góa của nhóm tín hữu thuộc văn hóa Hy Lạp bị bỏ quên trong việc cấp phát
nhu yếu phẩm hàng ngày. Nhưng đọc kỹ phần tiếp theo có thể nhận ra đây là một
cuộc khủng hoảng về cơ cấu. Ở các chương 2,4,5 chúng ta thấy nhóm 12 bao thầu hết
mọi việc, từ việc công bố Tin Mừng, làm Phép Rửa, dạy dỗ cộng đoàn hàng ngày đến
việc quản lý và phân phát lương thực và các nhu cầu vật chất. Chính việc chọn
nhóm 7 người phụ tá toàn là những người thuộc văn hóa Hy Lạp hé mở cho chúng ta
thấy vấn đề cơ cấu quản trị chưa đáp ứng thành phần cấu tạo của cộng đoàn.
Khi vấn đề được đặt ra, chúng ta thấy các tông đồ đưa ra giải
đáp rất nhanh, không thấy hội họp bàn bạc chi cả. Nhưng đọc kỹ cách giải đáp,
có thể thấy rằng đã có một cuộc nhận định rất chi tiết và sáng suốt.
Trước hết là phân định lại xem trong những việc nhóm 12 vẫn bao
thầu từ trước tới nay, việc gì có thể giao cho người khác, việc gì là của riêng
nhiệm vụ tông đồ, không thể giao cho người khác.
Đọc câu đầu tiên trong lời phát biểu của nhóm 12, ta thấy hai loại
công việc: rao giảng Lời Chúa và phục vụ bàn ăn. Bây giờ phải chọn một trong
hai thì nhóm 12 chọn việc rao giảng Lời Chúa, đó là nhiệm vụ riêng của các
ngài. Nếu thế thì việc còn lại là phục vụ bàn ăn có thể giao cho người khác.
Vấn đề tiếp theo : ai có thể đảm nhận công việc đó? 3 tiêu chuẩn
vắn gọn được đề ra ngay : người được tiếng tốt trong cộng đoàn, đầy Thần Khí và
khôn ngoan. Tiêu chuẩn thứ nhất dễ hiểu: muốn phục vụ cộng đoàn thì phải là người
được cộng đoàn tín nhiệm. Tiêu chuẩn thứ hai va thứ ba đi với nhau, có vẻ khó
hiểu : tại sao phục vụ bàn ăn mà cũng phải là người đầy Thánh Thần và khôn
ngoan?
Nếu đọc tiếp cho đến chuơng 8, chúng ta có thể đặt vấn đề về
chính cái gọi là “lo việc ăn uống”.
Có vẻ như “nói vậy mà không phải vậy”, bởi vì ngay sau khi kể việc thiết lập nhóm 7 người thì chẳng thấy
nói đến việc các ông này lo việc bếp núc, nhưng lại kể chuyện ông Tê-pha-nô giảng
dạy, tranh luận và bị giết, rồi ông Phi-lip đi rao giảng cho dân Samari, thực
hiện bước thứ ba trong chương trình Chúa Giêsu đã vạch ra cho hành trình làm chứng
: Giêrusalem, Giuđê, Samari.
Như vậy tác giả để một khỏang trống cho người đọc tự đìền thêm!
Nhưng tại sao tác giả không gỡ cho chúng ta cái khúc mắc này mà vẫn cứ nói công
việc của nhóm 7 người là lo việc ăn uống, và tiêu chuẩn là phải đầy Thần Khí và
khôn ngoan? Thiết nghĩ chỉ có thể hiểu là việc phục vụ cộng đoàn Hội Thánh, dù
là lo việc ăn uống thì cũng phải “đầy Thần Khí và khôn ngoan”, bởi vì cộng đoàn
này do Thánh Thần nối kết và làm cho sống động, phát triển. Chúng ta thấy một
hiện tượng tương tự trong sách Xuất Hành : người đứng đầu công việc xây dựng
nơi thánh là người đầy Thần Khí của Thiên Chúa, còn người phụ tá và những người
thợ được tuyển chọn là những người đầy khôn ngoan (x. Xh 31,1-8 và 35,30tt). Việc
xây dựng Hội Thánh là công việc của Thiên Chúa được thực hiện bởi quyền năng
Thánh Thần (x. Ep 2,20-22; I Pr 2,4-8).
Trở lại phần đầu chương 6, các tông đồ dành cho mình công việc :
“Còn chúng tôi, chúng tôi
sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa” (Cv 6,4). Hai nhóm cùng lo việc xây dựng Hội Thánh: một
bên lo phục vụ Lời Chúa và một bên lo phục vụ bàn ăn, bên nào cũng phải đầy
Thánh Thần, vì là cộng tác viên của Thiên Chúa (x.I Tx 3,2; Mc 16,20; Cv
14,27).
Chúng ta có thể đặt thêm một câu hỏi nữa ở đây: tại sao việc phục
vụ Lời Chúa lại gắn với cầu nguyện như một công việc duy nhât gồm hai thì, còn
việc phục vụ bàn ăn thì không thấy gắn với cầu nguyện? Ngay ở chuơng 2, câu 42,
chúng ta đã thấy các tín hữu cầu nguyện không ngừng, và hiệu quả của cầu nguyện
là được Thánh Thần (x. Cv 4,31; Lc 11,13). Vậy thì có lẽ phải đặt vấn đề cách
khác: tại sao việc phục vụ Lời Chúa lại gắn với cầu nguyện một cách đặc biệt đến
mức làm thành một công việc duy nhất cho nhóm 12 ? Lời Chúa là phương thế đầu
tiên để qui tụ và nuôi dưỡng cộng đoàn: nhờ nghe Lời Chúa người ta tin và chịu
Phép Rửa để gia nhập cộng đoàn và toàn thể các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy (Cv 2,42).
Việc phục vụ Lời Chúa có hai thì: nghe Lời Chúa và giảng Lời Chúa, cũng như việc
đón nhận Lời Chúa có hai thì: nghe và giữ Lời Chúa. Người giảng phải nghe Chúa
nói trong cầu nguyện, bởi vì Lời Chúa thì phải đến từ Chúa chứ đâu có thể rút từ
trong bụng mình ra được.
Nhưng còn phải để ý tới một khía cạnh khác trong nhiệm vụ của
nhóm 12: các ngài là những người lãnh đạo cộng đoàn thông qua việc giảng dạy Lời
Chúa. Công việc của các ngài giống công việc của ông Môsê trong sách Xuất Hành
: đứng ra thay mặt dân trước nhan Thiên Chúa: trình các việc lên Chúa, dạy cho
dân các thánh chỉ, lề luật, đường lối phải đi và cách xử sự (x.Xh 18,19-20).
Khi đối chiếu công việc của các tông đồ với công việc của ông
Môsê, chúng ta nhận ra nguyên tắc quản trị của người lãnh đạo Dân Chúa : dân là
dân của Chúa, nên người thay mặt Chúa lãnh đạo dân phải đứng trước mặt Chúa
thay cho dân, trình mọi việc lên Chúa và truyền đạt cho dân các mệnh lệnh của
Chúa, ý muốn của Chúa. Dân là đàn chiên của Chúa và Chúa là mục tử, là Đấng
chăn dắt It-ra-en. Môsê cũng như những người lãnh đạo chỉ như con chiên đầu đàn
đi theo Chúa để cả đoàn chiên đi theo. Câu chuyện vua Đa-vit ra lệnh kiểm tra
dân số cho thấy Chúa khẳng định quyền tuyệt đối của Ngài và vai trò của người
lãnh đạo. Trong sách E-dê-khi-ên, chương 34, Thiên Chúa quở trách các mục tử
Chúa đã đặt lên coi sóc It-ra-en vì họ chỉ lo ăn mà không lo cho sự sống và an
toàn của bầy chiên, họ thống trị cách tàn bạo và hà khắc. Ở phần cuối chương
này, ngôn sứ lại ví các mục tử tàn bạo như những con chiên mạnh, vừa ăn vừa đạp
nát cỏ, khiến những con chiên yếu phải ăn cỏ giập, vừa uống vừa quậy đục nước
khiến các con chiên yếu phải uống nước đục. Vây thì người lãnh đạo trong cộng đồng
Dân Chúa cũng là chiên được Chúa dùng làm chiên đầu đàn để những chiên khác đi
theo. Trách nhiệm của con chiên đầu đàn là phải đi theo đường của Chúa.
Đọc trong Cựu Uớc, chúng ta thấy những lúc bí, vua quan và dân
chúng tìm đến các tư tế, các ngôn sứ để thỉnh ý Thiên Chúa. Câu chuyện vua
Sa-un, lúc đi tìm con lừa cũng đến tìm ngôn sứ Sa-mu-ên để hỏi, rồi đến cuối đời,
khi Sa-mu-ên đã chết còn nhờ bà đồng gọi hồn ông lên để hỏi ý Chúa. Câu chuyện
vua A-kháp gọi các ngôn sứ để hỏi xem Chúa có cho đi đánh Ga-la-at hay không
(x.I Vua, 22). Tình trạng bi đát lên đến tột cùng khi mà cả ngôn sứ cùng là tư
tế, lang thang khắp xứ mà
không hiểu biết gì (Gr 14,18).
Tất cả những minh họa trên đây giúp chúng ta thấy rõ hơn việc quản
trị cộng đồng Dân Chúa không đơn thuần là quản trị theo kiểu hành chánh mà phải
dựa vào việc tìm kiếm và thi hành ý muốn của Thiên Chúa, tức là theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, Đấng luôn hiện
diện và hướng dẫn Dân Chúa.
Trở lại sách Công Vụ, đọc tiếp từ chương thứ 8, chúng ta sẽ thấy
mỗi bước tiến quan trọng trong sự phát triển của Hội Thánh hay đúng hơn, của Lời
Chúa, đều do Thánh Thần trực tiếp chỉ đạo như thế nào. Ông Philip (thuộc nhóm 7
người) được Thánh Thần thúc đẩy chạy theo xe của ông quan người E-ti-op, rồi
sau khi rửa tội cho ông quan lớn này, Thần Khí lại đem ông đi và người ta gặp
thấy ông ở At-đốt, và ông đi rao gỉang tại các thành phố ven biển cho tới
Xê-da-rê. Tác giả cho chúng ta theo ông Phi-lip ngưng tại đây để chuẩn bị đón
thánh Phêrô và theo ngài vào một bước thúc đẩy mới của Thánh Thần.
Trước khi kể câu chuyện tiếp theo xảy ra ở Xê-da-rê với thánh
Phê-rô, tác giả giới thịêu cho chúng ta một nhân vật sẽ đi tiếp bước khai phá của
thánh Phêrô, đem Tin Mừng đến tận cùng thế giới, đó là ông Saolô, người có mặt
và ủng hộ việc giết ông Tê-pha-nô, nay lại được Chúa chọn để đem Tin Mừng đến tận
cùng thế giới.
Kế hoạch Chúa Giêsu đích thân đề ra cho các tông đồ là phải làm
chứng cho Chúa tại Giêrusalem, Giuđê, Samari và cho đến tận cùng thế giới.
Nhưng sau khi đã làm cho
Giêrusalem ngập đầy giáo lý của các ông như chính vị Thượng Tế nhìn nhận (x.Cv 5,28), các ông vẫn chưa ra
khỏi Giêrusalem. Chính cuộc bách hại mở đầu với cái chết của ông Tê-pha-nô làm
cho mọi người tản mác về các vùng quê miền Giu-đê và Sa-ma-ri cùng với nhóm 7
người mới được thành lập, đi đến đâu họ loan báo Tin Mừng đến đấy. Thế là Chúa
dùng một biến cố bi đát để thực hiện bước tiếp theo. Khi Tin Mừng đã tới
Xê-da-rê, thành phố cảng rất thuận lợi cho buớc đi đến tận cùng thế giới, chúng
ta lại thấy các tông đồ vẫn dậm chân tại vùng đất quen thuộc và lui tới với đồng
bào Do Thái thôi. Hồi ấy, trong khắp miền
Giuđê, Galilê và Samari, Hội Thánh được bình an… Ông Phêrô rảo khắp nơi, xuống
thăm cả dân thánh cư ngụ tại Lốt (Cv 9,31-32). Đọc những chương này chúng ta thấy thánh Phêrô và nhóm
12 chưa bao giờ chủ động đi một bước mới.
Bước ra khỏi Giêrusalem là do biến cố bách hại thúc đẩy và những
người khác thực hiện. Chỉ khi Samari đã lãnh nhận Tin Mừng thì các tông đồ mới
cử ông Phêrô và ông Gioan đến xác nhận bằng cách cầu nguyện và đặt tay trên họ
để họ nhận được Thánh Thần. Sau khi Hội Thánh đã có mặt và đuợc bình an khắp miền
Giuđê, Galilê và Samari, ông Phêrô đi khắp nơi thăm viếng dân thánh, như để xác
nhận là bước thứ nhất và bước thứ hai đã hoàn thành, nhưng không hề có dấu hiệu
cho thấy ông có ý định đi xa hơn. Câu chuyện ở Xêdarê cho thấy ông chưa bao giờ
nghĩ tới chuyện đem Tin Mừng ra ngoài giới đồng bào Do Thái của ông. Nhưng
Thánh Thần can thiệp cách quyết liệt bắt ông phải đi đến với người ngoài Do
Thái. Thánh Thần đã gởi sẵn người tới đón và phải nói đến lần thứ ba ông mới chịu
đi. Một chi tiết cần lưu ý là tại nhà ông Co-nê-li-ô thánh Phêrô giảng, rồi xác
nhận rằng không ai có thể ngăn cản việc lấy nước làm phép Rửa cho những người
này, bởi vì họ đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta. Thánh Phêrô cũng
không tự tay làm phép rửa cho họ mà truyền làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa
Giêsu.
Nhưng sau đó chúng ta lại thấy thánh Phêrô cũng chẳng đi xa hơn.
Ngài trở về Giêrusalem đối diện với cộng đòan Hội Thánh tại đây, trả lời cuộc
chất vấn: Ông đã vào nhà
những kẻ không cắt bì và ngồi ăn uống với họ. Người ta không chất vấn về việc làm phép rửa cho dân ngoại mà chất
vấn về việc ông Phêrô vào nhà những kẻ không cắt bì và ngồi ăn uống với họ. Như
vậy điều khúc mắc đối với cộng đoàn là làm sao người Do Thái có thể ở cùng nhà,
ngồi cùng mâm với những kẻ không cắt bì, dù họ có chịu cùng một phép rửa chăng
nữa. Ở chương 6, mới chỉ có hai thành phần Do Thái bản địa và Do Thái thuộc văn
hóa Hy Lạp cùng ngồi ăn một mâm mà đã có chuyện không ổn, đến đây lại có cả những
kẻ không cắt bì vào ngồi cùng mâm cùng bàn thì sẽ ra sao? Đó là vấn đề gai góc
nan giải nhất vẫn kéo dài cho đến ngày nay. Trong bản văn, thánh Phêrô trả lời
bằng cách kể lại câu chuyện đã xảy ra, nhấn mạnh hơn vai trò của Thánh Thần bằng
cách rút ngắn thời gian rao giảng của ông : tôi vừa mở miệng nói thì Thánh Thần đã ập xuống trên họ như đã
xuống trên chúng ta lúc ban đầu. Nghe thánh Phêrô biện minh rồi thì cả cộng đoàn ngộ ra
một điều mới mẻ: Vậy ra Thiên Chúa cũng ban
cho các dân ngoại ơn sám hối để được sự sống (Cv 11,18). Tuy nhiên nỗi khúc mắc của cộng đoàn Giêrusalem
chưa phải đã được giải quyết xong. Chúng ta sẽ gặp lại vấn đề này ở chương 15
sau khi những kẻ không cắt bì gia nhập “đại trà”, nhờ sứ vụ của hai tông đồ
Phaolô và Ba-na-ba.
Những chương tiếp theo lại cho thấy việc rao giảng Tin Mừng cho
người ngoài Do Thái vẫn do những người “di tản” thực hiện và gầy dựng cả một cộng
đoàn ở An-ti-o-khi-a. Lần này thì không thấy các tông đồ được cử đến như ở
Sa-ma-ri nữa. Chỉ có ông Ba-na-ba, người có tài an ủi được cử đi thăm viếng mà
không cần trở về Giêrusalem tường trình.
Sau khi dân Sa-ma-ri chịu phép rửa thì vẫn chưa nhận được Thánh
Thần (hiểu theo nghĩa sự biểu lộ quyền năng Thánh Thần giống như các môn đệ đã
lãnh nhận ngày lễ Ngũ Tuần), phải chờ Giêrusalem cử hai tông đồ Phêrô và Gioan
xuống cầu nguyện và đặt tay họ mới nhận được. Tại gia đình Co-ne-li-ô, ông
Phêrô vừa mở miệng giảng thì Thánh
Thần đã ập xuống trên họ như đã ngự xuống trên chúng ta lúc ban đầu. Còn cộng
đoàn An-ti-ô-khi-a, chưa thấy mặt vị nào trong nhóm 12 hay nhóm 7 có mặt, người
đem Tin Mừng cho họ lại là mấy người gốc Síp và Ky-rê-nê, thế mà khi tới nơi và
thấy ơn Thiên Chúa như vậy ông Ba-na-ba mừng rỡ và khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó
cùng Chúa. Ông là người tốt, đầy Thánh Thần và lòng tin. Và đã có thêm một đám
rất đông theo Chúa (Cv 11,23-24).
Những chi tiết trên đây khiến chúng ta phải thắc mắc : tại sao
Sa-ma-ri được một vị trong nhóm 7 rao giảng và làm phép rửa mà vẫn chưa nhận được
Thánh Thần, phải chờ hai vị trong nhóm 12 tới cầu nguyện và đặt tay mới nhận được?
Trong khi các cộng đoàn khác ở xứ Giuđê không thấy cần Tông đồ nào tới đặt tay.
Thánh Phê-rô có đi xuống Lốt và Xê-da-rê là để thăm viếng thôi. An-ti-ô-khi-a
là cộng đoàn gồm những người Hy-Lạp cũng không thấy phải chờ Tông Đồ nào tới đặt
tay. Muốn hiểu điều này chúng ta phải trở lại các sách ngôn sứ. Sự chia rẽ giữa
It-ra-en (Sa-ma-ri) và Giu-đa (Giêrusalem) vẫn là một vết nhơ trong lịch sử Dân
Thiên Chúa, nên khi loan báo ơn cứu độ, các ngôn sứ thường loan báo sự hiệp nhất.
Đặc biệt ngôn sứ E-dê-khi-ên, chương 37,15-28. Khi toàn thể It-ra-en hiệp nhất
trong giao ước mới của Thiên Chúa, bấy giờ, các dân tộc sẽ nhận biết Ta là Đức Chúa, Đấng thánh hoá
It-ra-en. Sách Cv cho thấy lời ngôn sứ ứng nghịệm khi Giêrusalem và Sa-ma-ri hiệp nhất
không phải trên bình diện chính trị, mà trong giao ước mới bằng việc đón nhận
cùng một Thánh Thần, trước khi dân ngoại được nghe rao giảng Tin Mừng. Sự hiệp
nhất giữa Giêrusalem và Sa-ma-ri là dấu hiệu, là bằng chứng để dân ngoại nhận
biết Thiên Chúa. Như vậy chủ đề sự hiệp nhất của Dân Chúa như là bằng chứng để
dân ngoại nhận biết Thiên Chúa mà Ga 17 khai triển thì sách Cv đã vận dụng
ở đây rồi. Đó là lý do tại sao sách Cv phân biệt giữa cách thức Sa-ma-ri và các
cộng đoàn khác nhận được Thánh Thần.
Trở lại câu chuyện cộng đoàn An-ti-ô-khi-a và ông Ba-na-ba. Ông
Ba-na-ba là người tốt, đầy lòng tin và Thánh Thần. Đó chính là lý do tại sao
ông nhận ra ơn Thiên Chúa nơi cộng đoàn An-ti-ô-khi-a. Đó cũng là lý do khiến
ông lập tức trở thành người lãnh đạo cộng đoàn, và sự hiện diện của ông kéo
thêm được một đám rất đông theo
Chúa (Cv 11,24). Ông lấy sáng kiến đi tìm ông Saulô về An-ti-ô-khi-a.
Hai ông cùng làm việc trong Hội Thánh ấy suốt một năm và giảng dạy cho rất nhiều người (11,26). Đó là
cách Thánh Thần chuẩn bị để An-ti-ô-khi-a trởthành bàn đạp cho việc
đưa Tin Mừng đến tận cùng thế giới, và hai ông Ba-na-ba và Saulô trở thành hai
người đuợc Thánh Thần đích thân sai đi đem Tin Mừng cho dân ngoại. Sách Công Vụ
cho chúng ta cảm tưởng là cộng đoàn An-ti-ô-khi-a được Thánh Thần trực tiếp
lãnh đạo thông qua các ngôn sứ và thày dạy (Cv 13,1-3).
Đến đây chúng ta hãy trở lại một sự việc ở đầu chương 8: hồi ấy
Hội Thánh tại Giêrusalem
trải qua một cơn bắt bớ dữ dội. Ngoài các tông đồ ra, mọi người đều phải tản
mác về các vùng quê miền Giu-đê và Sa-ma-ri. Có cái gì như “ngược đời” ở đây : từ đầu tới giờ các tông đồ là đối
tượng chính của các vụ bắt bớ, nay thì mọi người phải tản mác về các vùng quê
còn các tông đồ ở lại Giêrusalem. Dường như tác giả dàn dựng để làm nổi bật vai
trò của các Tông Đồ trong giai đoạn Hội Thánh phát triển ra ngoài Giêrusalem
như chúng ta vừa lược qua. ĐHY C.M.Martini coi giai đoạn từ chương 6 đến chương
15 trong sách Cv là giai đoạn Hội Thánh chuyển mình để có thể đem Tin Mừng đến
tận cùng mặt đất. Việc thiết lập nhóm 7 là bước chuyển mình về cơ cấu, cuộc
bách hại sau cái chết của ông Tê-pha-nô là cơ hội giúp Tin Mừng ra khỏi một
Giêrusalem đã “đầy giáo lý của các tông
đồ” : những người phải tản mác này đi khắp nơi loan báo Lời Chúa (Cv 8,4). Tác
giả không quan tâm giải thích cho chúng ta tại sao cuộc bách hại dữ dội nổ ra mà các tông đồ ở lại Giêrusalem
trong khi mọi người đều phải tản mác, nhưng suốt những chương tiếp theo tác giả
cho thấy các tông đồ sẽ đóng vai trò “phê chuẩn” từng buớc của sự phát triển, bảo
đảm tính thống nhất và duy nhất của Tin Mừng: dù được loan báo tại Giêrusalem,
Sa-ma-ri, An-ti-o-khi-a hay Rôma thì cũng là một Tin Mừng mà Chúa Giêsu đã trao
cho các Tông Đồ loan báo, cũng vì thế mà sau này mỗi chuyến đi truyền giáo của
thánh Phaolô đều kết thúc tại Giêrusalem và lại bắt đầu từ Giêrusalem. Chuyến
đi cuối cùng của thánh Phaolô cũng bắt đầu từ Giêrusalem trong tư thế một người
tù.
Chúng ta hãy điểm lại những chặng chính. Cv 8,14: các tông đồ ở
Giêrusalem nghe biết dân miền
Sa-ma-ri đã đón Lời Thiên Chúa, thì cử ông Phêrô và ông Gioan đến với họ. Việc
họ nhận được ThánhThần do lời cầu nguyện và cử chỉ đặt tay của hai tông đồ như một dấu ấn xác nhận
quả thật Lời Chúa đã đến với Sa-ma-ri đúng như Chúa Giêsu đã chỉ thị, dù không
phải do các tông đồ đích thân loan báo. Sự việc này cũng xác nhận rằng việc Phục
Vụ Lời Chúa không phải là “độc quyền” của nhóm 12 nữa.
Cv 10,44-48: Ông Phêrô còn đang nói những điều đó, thì Thánh Thần
đã ngự xuống trên tất
cả những người đang nghe Lời Thiên Chúa… Bấy giờ ông Phêrô nói rằng: Những người
này đã nhận được ThánhThần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy
nước làm phép rửa cho họ? Rồi ông truyền làm phép rửa cho họ nhân danh
Chúa Giêsu Kitô. Sau đó họ xin ông ở lại ít ngày. Tại Giêrusalem trong ngày lễ
Ngũ Tuần, ông Phêrô đã giải thích việc Thánh Thần ngự xuống trên các ông như là
bằng chứng về việc Đức Giêsu đã được tôn vinh, được đặt làm Chúa. Tại nhà ông
Co-ne-li-ô, ông giải thích việc Thánh Thần ngự xuống trên tất cả những người
dân ngoại đang nghe lời Thiên Chúa như là bằng chứng Thiên Chúa chấp nhận họ
cũng như đã chấp nhận người Do Thái. Ông không tự tay làm phép rửa mà truyền
làm phép rửa cho họ. Ông Phêrô nhận định và giải thích tác động của Thánh Thần,
rút ra kết luận. Việc ông Phêrô truyền
làm phép rửa cho những người ngoại đầu tiên đón nhận Lời Thiên Chúa được nêu lên ở đây có giá trị
xác nhận việc rao giảng Lời Chúa và làm phép rửa cho dân ngoại, đón nhận họ vào
Hội Thánh. Sau này tại Công Nghị Giêrusalem (Cv 15), thánh Phêrô sẽ nhắc lại
kinh nghiệm này và tự coi là người được chọn từ đầu
để các dân ngoại được nghe lời Tin Mừng từ miệng tôi mà tin theo.
Ở chương 11, thánh Phêrô bị cộng đoàn Giêrusalem chất vấn, không
phải về việc làm phép rửa cho người ngoại, nhưng về việc “vào nhà kẻ không cắt
bì và cùng ăn uống với
họ”, ngài bình tĩnh kể lại đầu đuôi sự việc và giúp cho cả cộng đoàn đi vào tiến trình nhận định với ngài,
kết quả là mọi người đều nhận ra tác động của Thánh Thần, cùng “à” lên một tiếng
thoải mái.
Đến đây kinh nghiệm nhận định của thánh Phêrô và cộng đoàn
Giêrusalem đã đủ để Hội Thánh Giêrusalem có thể chấp nhận cộng đoàn gốc dân ngoại
An-ti-o-khi-a. Vì thế họ không cần phải cử các tông đồ đến đó, nhưng cử ông
Ba-na-ba, người có tài an ủi, người truớc đây đã làm môi giới cho các môn đệ ở
Giêrusalem chấp nhận ông Sau-lô (x.Cv 9,26-30). Sứ mạng của ông Ba-na-ba không
phải là đi kiểm tra, bởi vì ông không trở về báo cáo cho Giêrusalem, mà trẩy đi
Tac-xô tìm ông Sau-lô, mời về An-ti-o-khi-a để cùng nhau phục vụ cộng đoàn. Vậy
thì ta có thể hiểu sứ mạng của ông Ba-na-ba đúng như cái tên các tông đồ đã đặt
cho ông, là an ủi, khích lệ, củng cố cộng đoàn non trẻ này. Ông cũng khởi đi từ
một sự nhận định: thấy ơn thiên Chúa như vậy…
Đến đây ta có thể nhận ra cung cách lãnh đạo của các tông đồ đã
thay đổi như thế nào từ chưong thứ 6 trong sách Công vụ. Bước đầu là chia sẻ
công việc cho nhóm 7 để có thể phục vụ tốt hơn, bước tiếp theo là nhận định và
xác nhận tác động của Thánh Thần, giúp cộng đoàn nhận định và vâng phục Thánh
Thần: mọi người đã đón nhận Tin Mừng đều có thể rao giảng Tin Mừng và mọi người
đều có quyền được nghe loan báo Tin Mừng. Chúng ta có thể rút ra một hệ luận rất
quan trọng liên quan tới vai trò của giáo dân trong Hội Thánh: sáng kiến của những
người tín hữu phải tản mác khỏi Giêrusalem, đi tới đâu loan báo Lời Chúa đến
đó, không những ở miền quê xứ Giuđê và Sa-ma-ri (x.Cv 8,1.4) mà cả Phê-ni-xi, đảo
Síp và An-tio-khi-a, không những cho người Do Thái và cả người Hy-Lạp nữa (x.Cv
11,19-20), và họ thu được kết quả: vì có bàn tay Chúa ở với họ, nên một số đông đã tin và trở lại
cùng Chúa (Cv 11,21). Chúa xác nhận rằng việc họ làm là do Chúa thúc đẩy, các tông đồ
hoặc người được cử đi như ông Ba-na-ba “thấy ơn Thiên Chúa… thì mừng rỡ” (Cv
11,23). Vậy thì trong Hội Thánh sáng kiến không chỉ đến từ người lãnh đạo mà cả
từ phía gíao dân nữa. Thánh Thần tác động nơi mọi thành phần của Hội Thánh,
nhưng người lãnh đạo phải nhận định xem có đúng là “bàn tay của Chúa” không.
IV. MỘT MÔ HÌNH NHẬN ĐỊNH CỘNG ĐOÀN
Công Nghị Giêrusalem sẽ là cơ hội cho chúng ta chứng kiến một cuộc
nhận định mang tính cộng đoàn làm mô hình cho mọi cuộc nhận định cộng đoàn.
Đọc Cv 11 chúng ta có cảm
tưởng vấn đề “đồng bàn” giữa tín hữu gốc Do Thái và gốc dân ngoại đã được giải
quyết thỏa đáng và mọi người ở Giêrusalem đồng ý sau cuộc chất vấn thánh Phêrô,
nhưng sau khi hai ông Phaolô và Ba-na-ba thực hiện cuộc hành trình rao giảng
Tin Mừng lần thứ nhất, vấn đề lại trở nên sôi động ngay tại Antiokhia. Thư
thánh Phaolô gởi tín hữu Ga-lát còn cho thấy ngay cả sau Công nghị Giêrusalem
nó vẫn còn dai dẳng, lan cả tới vùng Ga-lát, và thậm chí bản thân thánh Phêrô
cũng không còn tự tin như lúc bị chất vấn ở Giêrusalem (x.Gl 2,11-14). Một số
người bảo thủ ở Giêrusalem vẫn cho rằng chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu chưa
đủ để có thể “đồng bàn” với tín hữu gốc Do Thái, chưa đủ để được cứu độ, được
làm Dân Thiên Chúa.
Những người bảo thủ từ Giêrusalem xuống Antiokhia gieo hoang
mang. Phản ứng tức thời là tranh luận. Nhưng tranh luận cũng không giải quyết
được gì hơn, vì những người gây hoang mang không phải là thành phần lãnh đạo và
không được lãnh đạo cử đi, như bức thư của Công Nghị thông báo quyết định nêu
rõ (Cv 15,24). Thái độ của những ngừơi gây rối này ngược hẳn với thái độ của
ông Ba-na-ba, họ hành động theo sáng kiến riêng, họ không nhận ra ơn Chúa mà chỉ
tìm cách áp đặt ý kiến của họ, vì thế không thể đối thoại với họ. Diễn biến của
vụ việc đưa cộng đoàn Antiokhia tới quyết định (như vậy phải giả thiết là cộng
đoàn này cũng đã qua một cuộc nhận định, tuy bản văn không nói trực tiếp) cử
phái đoàn chính thức lên Giêrusalem “gặp các tông đồ và các kỳ mục để bàn về vấn
đề đang tranh luận
này”.
Trên đường từ Antiokhia lên Giêrusalem, phái đoàn đã có dịp kể
cho các cộng đoàn ở Phê-ni-xi và Sa-ma-ri về “việc các dân ngoại đã trở lại với
Thiên Chúa, khiến tất cả
các anh em rất đỗi vui mừng”. Thêm một sự tương phản nữa. Những ai biết đón nhận ơn Thiên Chúa thì đều rất
đỗi vui mừng. Còn những người theo ý riêng mình, không nhận ra ơn Thiên Chúa
thì chỉ gây hoang mang. Phê-ni-xi và Sa-ma-ri đã được rao giảng Tin Mừng cùng
thời với Antiokhia. Những người chống đối đều xuất phát từ Giêrusalem và không
được các cộng đoàn khác chấp nhận. Còn giới lãnh đạo tại Giêrusalem thì sao?
Dấu hiệu tốt đẹp đầu tiên là: tới Giêrusalem, các ông được Hội
thánh, các Tông đồ và kỳ mục tiếp
đón, và các ông kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với các ông. Nhưng
phe chống đối đã có mặt và lên tiếng tuyên bố lập trường. Thế là khỏi cần chờ đoàn đại biểu
Antiokhia khiếu nại, các Tông Đồ và các kỳ mục bèn họp nhau đề xem xét việc
này.
Diễn biến cuộc họp này như thế nào?
Mở đầu vẫn là một cuộc tranh luận không có kết luận.
Phải đổi phương pháp làm việc. Thánh Phêrô là người khởi xướng.
Thay vì tranh luận, hãy nghe và nhìn xem Thiên Chúa đã hành động như thế nào.
Thánh Phêrô đứng lên kể lại kinh nghiệm bản thân của mình như là
người đầu tiên được chọn để rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại và đưa ra những kết
luận:
1/. Thiên Chúa đã chấp nhận dân ngoại
cũng như người Do Thái, bằng chứng là
Ngườiđã ban Thánh Thần cho họ cũng như đã ban cho chúng ta.
2/. Thiên Chúa không phân biệt chút
nào giữa chúng ta với họ, vì đã dùng đức
tin đểthanh tẩy lòng họ (hiểu ngậm là cũng như chúng ta!) Sau này thánh Phaolô sẽ đẩy đến cùng hệ luận này : người ta
được cứu độ là nhờ đức tin chứ không phải nhờ thi hành những việc Luật Môsê
truyền.
3/. Vậy thì đừng thử thách Thiên Chúa mà quàng vào cổ các môn đệ một cái
ách mà cảcha ông
chúng ta lẫn chúng ta đã không có sức mang nổi.
4/. Cuối cùng là một nguyên tắc tuyệt
đối: Chính nhờ ân sủng Chúa Giêsu mà
chúng ta tin mình được cứu độ, cũng một cách như họ.
Vậy thì người Do Thái cũng như người ngoại đều bình đẳng khi đón
nhận ơn cứu độ nhờ tin vào Chúa Giêsu và ân sủng Ngài đem tới. Sau này thánh
Phaolô sẽ giải quyết khúc mắc : vậy thì có luật Môsê để làm gì (x. Gl,3).
Hiệu quả trước tiên và tức khắc của lời phát biểu của thánh
Phêrô là kéo được toàn thể hội nghị vào thái độ lắng nghe, tạo điều kiện cho
hai ông Ba-na-ba và Phaolô có thể đứng lên kể lại “các dấu lạ điềm thiêng TC đã
dùng hai ông mà làm giữa các
dân ngoại”. Nên chú ý tới kiểu nói “dấu lạ điềm thiêng”, là kiểu nói quen thuộc của Cựu Ước để nói về ơn Chúa giải
thoát It-ra-en khỏi ách nô lệ Ai-Cập.
Đến lượt ông Giacôbê (người có uy tín nhất ở cộng đoàn
Giêrusalem, những người gây rối vẫn núp dưới tên ông) đứng lên tổng hợp
những gì đã nhận ra sau khi nghe ông Phêrô, hai ông Phaolô và Ba-na-ba. Ông mở
rộng tầm nhìn cho hội nghị: nhìn vào kế hoạch của Thiên Chúa. Ngay từ đầu,
Thiên Chúa đã đoái thương chọn
trong các dân ngoại một dân mang danh Người. Ông Giacôbê viện dẫn lời ngôn sứ A-môt để chứng minh đó là
kế hoạch của Thiên Chúa đã được loan báo tự ngàn xưa. Ông Phêrô, ông Phaolô hay
ông Ba-na-ba có được sai đi rao giảng cho dân ngoại, thì chỉ là để thực hiện kế
hoạch ấy của Thiên Chúa. Vậy thì lãnh đạo của Hội Thánh phải làm gì? Không được
gây phiền hà cho những người gốc
dân ngoại trở lại với ThiênChúa, nói cách khác: đừng cản trở kế hoạch của Thiên Chúa. Tuy nhiên cũng
phải chú ý tới những người gốc Do Thái, đừng gây “sốc” cho họ, bởi vì “từ những
thế hệ xa xưa, trong mỗi thành ông Môsê đều có những
người rao giảng: họ đọc lời của ông trong các hội đừơng mỗi ngày sa-bát”.
Thế là đã rõ, phải tìm một sự tương nhượng để Do Thái và dân ngoại
có thể sống chung với nhau trong một Hội Thánh duy nhất. Đừng gây phiền hà cho
người gốc dân ngoại bằng cách quàng vào cổ họ cái ách của luật Môsê mà chính
người Do Thái không mang nổi, nhưng người gốc dân ngoại cũng phải tránh
làm những chuyện “chọc vào mắt” người Do Thái như ăn thịt đã cúng cho ngẫu tượng,
ăn tiết canh, cháo huyết…
Bản văn không nói tới một cuộc biểu quyết nào. Mọi người như đã
nhất trí, Công Nghị chuyển ngay sang việc cử một phái đoàn chính thức đi
An-ti-o-khi-a để công bố quyết định của Công Nghị với văn bản rõ ràng trên giấy
trắng mực đen. Đó cũng là cách chấm dứt mọi tranh luận, đồng thời chận bước
và bịt miệng những kẻ gây rối.
Chúng ta hãy để ý đến lời công bố “Thánh Thần và chúng tôi đã
quyết định”. Công Nghị ý thức rõ ràng mình đã làm việc theo sự dẫn dắt của
Thánh Thần và quyết đinh này vừa là của Thánh Thần vừa là của Công Nghị. Khi
thánh Phêrô và các Tông Đồ đứng trước tòa, thánh Phêrô tuyên bố: về những sự kiện
đó, chúng tôi xin làm
chứng cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người.
Vậy thì việc làm chứng cho Chúa Giêsu cũng như vịêc quản trị cộng đoàn đều phải làm cùng với
Thánh Thần và theo Thánh Thần.
Đọc lại trình thuật về Công Nghị Giêrusalem, chúng ta thấy rõ
vai trò và cách thức nhận định cộng đoàn. Tranh luận không giải quyết được vấn
đề, bởi vì mỗi người vẫn bênh vực quan điểm của mình. Chỉ khi cùng nhau tìm hiểu,
chiêm ngưỡng kế hoạch của Thiên Chúa và tuân theo kế hoạch ấy người ta mới có
thể đồng tâm nhất trí. Kết quả của tranh luận bao giờ cũng có kẻ thắng người
thua nên khó đi tới sự đồng tâm nhất trí. Phải làm theo “phe thắng”, nhưng vẫn
cứ muốn tìm người ủng hộ quan điểm của mình, mong cho công việc thất bại để chứng
tỏ mình có lý : “tôi đã bảo mà!”, “thấy chưa?”. Và trong tâm trạng đó thì khó
mà tích cực cộng tác để thực hiện những điều đã quyết định, nếu không phải là
đi tới mức bất hợp tác, thậm chí “ phá thối”. Chỉ khi vâng phục Thánh Thần người
ta mới có thể hết mình thực hiện điều đã quyết định.
V. LÀM THẾ NÀO ĐỂ NHẬN ĐỊNH THIÊNG
LIÊNG
Trong Tân Ước, ngoài những thực hành gặp trong sách Công Vụ Tông
Đồ, chúng ta còn gặp những lời nhắc nhở, mời gọi như : “ Anh em thân mến, anh em
đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi
Thiên Chúa hay không” (I Ga 4,1). “Anh em đừng dập tắt thần khí” (I Tx 5,19).
Hai lời khuyên này bổ túc cho nhau. Đừng dập tắt thần khí, nhưng đồng thời phải
cân nhắc, phải nhận định xem “có phải bởi Thiên Chúa không”. Đó là trách nhiệm
của mỗi người trong cuộc sống và cũng là trách nhiệm đặc biệt khó khăn của những
người có trách nhiệm dìu dắt cộng đoàn. Một nguyên tắc bổ sung khác làm cho ta
an tâm, đó là nguyên tắc của ông Ga-ma-li-en: “nếu ý định hay công việc này là
do người phàm, tât sẽ bị phá huỷ; còn nếu quả thật là do Thiên Chúa, thì qúi vị
không thể nào phá huỷ được” (Cv 5,38-39). Cả những người có trách nhiệm lãnh đạo
cũng như các thành viên khác của cộng đoàn đều phải dựa vảo nguyên tắc trên
đây. Khi đứng trước những cái mới mẻ trong cộng đoàn, có lúc thấy được rõ
ràng, có lúc phải kiên nhẫn chờ đợi như ông Ga-ma-li-en đã khuyên Thượng Hội Đồng.
Vấn đề chúng ta đặt ra là làm thế nào để nhận ra một sự thôi thúc trong lòng, một
ý định nảy sinh, một trào lưu mới, một sáng kiến trong Giáo Hội, trong cộng
đoàn… có phải bởi Thánh Thần hay bởi tà thần, có phải bởi Thiên Chúa hay bởi thế
gian, xác thịt. Cũng có khi không phải là nhận định về một cái gì đã có trước mắt,
mà nhận định xem Chúa muốn tôi, chúng ta làm gì trước một hoàn cảnh nào đó: có
thể là cả cuộc sống (chọn bậc sống), có thể là một hoàn cảnh mới đòi thích ứng,
đòi sáng kiến để đáp ứng.
Ở đây chúng ta có thể nhờ
kinh nghiệm và chỉ dẫn của thánh I-nhã, người đã có một bề dày kinh nghiệm về
nhận định thiêng liêng cá nhân và cộng đoàn. Sau khi đem cả tuổi trẻ của mình
đi tìm danh vọng và quyền lực, một quả đại bác đã quật ngã người thanh niên quí
tộc của dòng họ Loyola trong khi tử thủ pháo đài Pamplona. Trên giường bệnh,
người thanh niên vừa đúng tuổi “tam thập như lập” này vẫn chưa chịu đầu hàng, vẫn
sẵn sàng chịu mọi đau đớn để các thày thuốc đập khúc xương chỗ đầu gối vừa
lành, nối lại cho ngay ngắn để tiếp tục mang đôi giầy qúi tộc, trong lòng vẫn
tiếp tục dệt giấc mộng vàng danh vọng theo tiểu thuyết kiếm hiệp. Rồi một cái
gì mới mẻ đã xâm nhập vào tâm hồn khi bất đắc dĩ phải đọc cuộc đời Chúa Kitô và
hạnh các thánh, vì kho sách kiếm hiệp của lâu đài đã cạn. Xen kẽ với những mộng
mơ kiếm hiệp, lại có những ước vọng noi gương các thánh, chinh phục những đỉnh
cao ngược với danh vọng và quyền lực. I-nhã bắt đầu nhận thấy có sự khác biệt
trong lòng tùy lúc mình đã thả hồn theo giấc mộng công danh hay theo khát vọng
noi gương các thánh. Mơ mộng công danh để lại một sự khô khan trống vắng lạnh lẽo,
khát vọng nên thánh để lại sự bình an ngọt ngào an ủi. Đó là bước khởi đầu của
một kinh nghiệm rất phong phú về phân định thần loại mà ngài sẽ để lại trong
kho tàng khôn ngoan của Hội Thánh. 30 năm sau, khi nhìn lại cuộc đời
mình, ngài nói rằng lúc ấy chẳng có ai dạy dỗ ngài, nhưng Thiên Chúa đã dạy dỗ
ngài như thày giáo dạy một cậu học trò nhỏ.
Kinh nghiệm này ngài đã truyền đạt trong cuốn sách nhỏ “Linh
Thao”, vận dụng cùng với nhóm bạn đầu tiên trong cuộc nhận định cộng đoàn đưa tới
việc thành lập Dòng Chúa Giêsu và trong việc soạn thảo Hiến chương Dòng Chúa
Giêsu cũng như việc quản trị Dòng mới này suốt 15 năm, tạo ra một nếp sống và một
đường lối quản trị theo Thánh Thần, tồn tại hơn 450 năm qua giữa bao thử thách,
sóng gió, kể cả cái chết (suốt 40 năm, 1774-1814) khi dòng bị chính Đức Giáo
Hoàng ký lệnh giải thể.
Trong sách Linh Thao, thánh I-nhã cho những nguyên tắc để phân
biệt thần loại và cách thức thực hiện một cuộc chọn lựa để quyết định về bậc sống
hoặc để chỉnh đốn cuộc sống. Những chỉ dẫn này giúp chúng ta biết cách thức
“cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không”. Những nguyên tắc
này chia làm hai nhóm, nhóm thứ nhất tương ứng với tuần thứ nhất của tiến trình
Linh Thao, tức là thời gian suy niệm về tội lỗi để xin ơn hoán cải sâu xa. Nhóm
thứ hai tương ứng với tuần thứ hai tức la thời gian chiêm ngắm Chúa Giêsu trong
mầu nhiệm nhập thể và cuộc sống công khai, để xin ơn “biết Chuá hơn, yêuChúa hơn
và theo Chúa hơn”. Ta thử đọc lại những nguyên tắc ngài đã nêu trong sách:
313. QUY TẮC ĐỂ CẢM BIẾT VÀ NHẬN RA
PHẦN NÀO NHỮNG THÚC ĐẨY KHÁC NHAU TRONG LINH HỒN ĐIỀU TỐT ĐỂ ĐÓN NHẬN VÀ ĐIỀU XẤU
ĐỂ LOẠI BỎ (các quy tắc này thích hợp hơn cho tuần thứ nhất).
314. QUY TẮC I: Đối với những người sa ngã hết tội trọng này sang tội trọng
khác, kẻ thù thường quen bày cho họ những vui thú bề ngoài, xui họ tưởng đến những
khoái lạc và vui thú giác quan để dễ cầm giữ và thúc đẩy họ tiến sâu vào thói
hư và tội lỗi. Với những người như thế, thần lành dùng phương pháp ngược lại, bằng
cách thôi thúc cho lương tâm cắn rứt họ bằng luật tự nhiên của lẽ phải.
315. QUY TẮC II: Nơi
những người tiến mạnh trong việc diệt trừ tội lỗi và đang tiến lên hơn mãi trên
đường phụng sự Thiên Chúa, Chúa chúng ta, thì lại có phương pháp ngược lại với
quy tắc thứ nhất. Vì khi đó, đường lối riêng của thần dữ là cắn rứt, làm buồn
phiền và đặt chướng ngại bằng cách gây băn khoăn lo lắng với những lý lẽ giả tạo
để người ta khỏi tiến tới, còn cách thức riêng của thần lành là làm cho can đảm
và sức mạnh, an ủi, nước mắt, ơn soi giục và an nghỉ, giảm bớt và hủy diệt các
trở ngại để cho người ta tiến lên trong đàng lành.
316. QUY TẮC III: Về an ủi thiêng liêng. Gọi là an ủi trong khi linh hồn phát khởi
một thúc đẩy nội tâm, khiến linh hồn bừng cháy lửa kính mến Đấng Tạo Hóa và
Chúa mình, và do đó, không có thể yêu một tạo vật nào trên mặt đất vì chính tạo
vật ấy, nhưng chỉ yêu trong Đấng tạo dựng mọi sự. Đó cũng là trường hợp linh hồn
chảy nước mắt giục lòng mến Chúa, hoặc bởi đau đớn vì tội lỗi mình, hay vì sự
thương khó của Đức Kitô, Chúa chúng ta, hay vì những điều khác trực tiếp hướng
về việc phụng sự và ca ngợi Chúa. Sau cùng, còn gọi là an ủi mọi gia tăng của
lòng tin- cậy- mến, cùng mọi niềm vui bề trong mời gọi và lôi kéo (tâm hồn) đến
những sự trên trời và phần rỗi riêng của linh hồn mình, làm cho linh hồn được
nghỉ ngơi và an bình trong Đấng Tạo Hóa và Chúa mình.
317. QUY TẮC IV: Sự
sầu khổ thiêng liêng. Gọi là sầu khổ tất cả những gì trái ngược với quy tắc thứ
ba, như sự tối tăm trong linh hồn, xao xuyến bề trong, thúc đẩy về những gì thấp
hèn và phàm tục, lo lắng về những xao động và cám dỗ xúi ta mất tin tưởng,
trông cậy, lòng mên; (linh hồn) cảm thấy lười biếng, khô khan, buồn sầu và như
bị lìa xa Đấng Tạo Hóa và Chúa mình. Vì như an ủi trái ngược với sầu khổ thế
nào, thì các tư tưởng do an ủi sinh ra cũng trái ngược với các tư tưởng do sầu
khổ sinh ra như vậy.
318. QUY TẮC V: Trong thời gian sầu khổ, đừng bao giờ thay đổi, nhưng hãy cương
quyết bền vững trong những quyết định và dốc lòng có trước khi bị sầu khổ, hoặc
những quyết định đã có khi được an ủi trước đây. Vì cũng như trong khi được an ủi,
phần nhiều là thần lành hướng dẫn khuyên nhủ ta thế nào, thì trong cơn sầu khổ,
thần dữ cũng (làm) như vậy, mà theo lời khuyên của nó, ta chẳng thể gặp được
con đường đưa tới đích.
319. QUY TẮC VI: Trong
cơn sầu khổ, nếu như không nên thay đổi những điều đã quyết định, thì lại rất
nên cương quyết thay đổi chính mình để chống lại với cơn sầu khổ ấy, chẳng hạn
bằng cách chăm chú cầu nguyện, suy gẫm hơn, xét mình nhiều hơn và gia tăng sự
hãm mình theo cách nào thích hợp.
320. QUY TẮC VII: Đang
gặp sầu khổ, ta hãy nghĩ rằng, để thử luyện ta, Chúa đã để ta với sức tự nhiên
chống trả các xao động và cám dỗ của kẻ thù; như vậy ta vẫn có thể chống trả được,
nhờ ơn Chúa vẫn giúp đỡ dù ta không cảm thấy rõ ràng. Vì Chúa rút bớt lòng sốt
sắng nồng nàn, lòng mến bao la và ân sủng mạnh mẽ nhưng vẫn để lại ân sủng đủ
cho sự cứu rỗi đời đời.
321. QUY TẮC VIII: Đang cơn sầu khổ hãy gắng giữ sự nhẫn nại, là sự trái ngược với
những xáo trộn xảy đến, và nghĩ rằng, chẳng bao lâu nữa sẽ được an ủi, nếu hết
sức chiến đấu với cơn sầu khổ ấy, như đã nói ở quy tắc thứ sáu.
322. QUY TẮC IX: Có ba nguyên do chính khiến ta gặp sầu khổ:
- Thứ nhất: vì ta không sốt mến đủ,
lười biếng hay chểnh mảng trong các việc thiêng liêng; vậy là vì lỗi ta mà sự
an ủi thiêng liêng lìa bỏ ta;
- Thứ hai: để thử coi sức ta tới đâu
và ta có thể vươn tới đâu trong việc phụng sự và ca ngợi Chúa, khi không được
thưởng công bằng bấy nhiêu an ủi và ân sủng bao la;
- Thứ ba: để ta học biết và nhận thức
tận thâm tâm rằng, không phải tự ta làm phát sinh hay duy trì được lòng sốt sắng
vô ngần, lòng mến mạnh mẽ, nước mắt hoặc ơn an ủi thiêng liêng, mà mọi sự đều
là ân điển của Thiên Chúa, Chúa chúng ta, và để ta đừng “làm tổ ở nhà người
khác”, và đừng tự đắc đến trở thành kiêu ngạo, khoe khoang, tự gán cho mình
lòng sốt sắng hay các hoa trái khác của ơn an ủi thiêng liêng.
323. QUY TẮC X: Khi được ơn an ủi, phải nghĩ tới cách xử sự trong cơn sầu khổ sẽ
đến, đồng thời dành lấy sức cho lúc đó.
324. QUY TẮC XI: Ai được an ủi, phải gắng tự khiêm và tự hạ chừng nào có thể, bằng
cách nghĩ mình nhỏ hèn biết mấy trong cơn sầu khổ, khi không có ân sủng này.
Trái lại, người lâm cơn sầu khổ phải nghĩ mình có thể làm được nhiều nhờ ơn đủ
của Chúa trợ giúp, để chống trả mọi kẻ thù, nhờ lấy sức nơi Đấng Tạo Hóa và
Chúa mình.
325. QUY TẮC XII: Kẻ
thù xử sự như đàn bà, vì khi ta chống trả thì nó yếu, và khi ta để mặc thì nó mạnh.
Quả vậy, đặc tính của đàn bà khi gây gỗ với người đàn ông, là mất can đảm và chạy
trốn khi người đàn ông thẳng tay chống trả. Trái lại, nếu người đàn ông bắt đầu
chạy trốn và mất can đảm, thì cơn giận, sự trả thù và sự hung dữ của người đàn
bà thật không sao lường được.
Cũng vậy, đặc tính của kẻ thù là yếu
nhược, khiếp đảm và bỏ chạy với những chước cám dỗ của nó, khi người tập tành
trong đàng thiêng liêng thẳng tay chống trả các cám dỗ của nó bằng cách làm điều
ngược hẳn lại. Trái lại, nếu người ấy bắt đầu sợ hãi và mất can đảm trước cơn
cám dỗ, thì trên mặt đất này, không có vật nào hung dữ cho bằng kẻ thù của bản
tính loài người trong việc theo đuổi ý định xấu xa của nó cách dữ dằn chừng ấy.
326. QUY TẮC XIII: Kẻ thù cũng còn sử xự như kẻ si tình lẳng lơ, muốn giữ bí mật để
khỏi bị lộ. Quả vậy, một người đàn ông đồi bại dùng lời xảo trá quyến rũ một
thiếu nữ con nhà lành, hoặc vợ một người đứng đắn, thì muốn cho những lời dụ dỗ
của hắn được giữ kín; trái lại hắn rất bất mãn khi thiếu nữ mách với cha, thiếu
phụ mách với chồng những lời quyến rũ và ý xấu xa của hắn, vì hắn dễ dàng suy
ra rằng, không thể nào thành công được với chuyện hắn đã bắt đầu.
Cũng vậy khi kẻ thù của bản tính loài
người đưa những sự xảo trá và xúi giục của nó vào linh hồn ngay lành, thì mong
muốn những điều đó được tiếp nhận và giữ kín. Nhưng khi linh hồn tỏ ra với cha
giải tội tốt hay một người đạo đức nào khác am tường những dối trá và sự hiểm độc
của nó, thì nó rất bất mãn, vì nó kết luận rằng không thể đạt tới điều xấu xa
mà nó đã bắt đầu, vì sự dối trá rõ rệt của nó đã bị phanh phui.
327. QUY TẮC XIV: Kẻ thù lại còn xử sự như một tướng quân để thắng và cướp những
gì nó muốn. Vì như một vị chỉ huy cầm đầu đội quân, sau khi đặt doanh trại và
xem xét lực lượng hoặc cách bố trí của một thành trì, sẽ tấn công vào điểm yếu
nhất; thì cũng vậy, kẻ thù của bản tính loài người lượn quanh để dò xét những
nhân đức đối thần, các nhân đức trụ [1] và các nhân đức luân lý khác của ta, và
điểm nào nó thấy ta yếu nhất và dễ nguy nhất cho phần rỗi đời đời của ta, nó sẽ
tấn công vào đó và cố hạ ta.
328. QUY TẮC VỀ CÙNG MỘT VẤN ĐỀ ĐỂ
PHÂN BIỆT CÁC THẦN RÕ HƠN (Các quy tắc này thích hợp hơn cho tuần thứ hai.)
329. QUY TẮC I: Đặc điểm của Chúa và các thiên thần khi soi giục là ban sự sảng
khoái và vui vẻ thiêng liêng liêng thật, xóa bỏ mọi buồn sầu và xao xuyến do kẻ
thù đưa vào. Còn đặc điểm của kẻ thù là chống lại sự sảng khoái và niềm an ủi
thiêng liêng ấy bằng cách đưa ra những lý do giả tạo, cầu kỳ và ngụy biện không
cùng.
330. QUY TẮC II: Chỉ
có Thiên Chúa, Chúa chúng ta, mới ban ơn an ủi cho linh hồn mà không cần có
nguyên do trước; vì quyền riêng của Đấng Tạo Hóa là vào, ra, đánh động linh hồn,
lôi cuốn trọn vẹn linh hồn làm cho linh hồn yêu mến Ngài. Tôi nói không có
nguyên do, nghĩa là, không có một tình cảm hay một nhận thức về một đối tượng
nào trước, nhờ đó sự an ủi phát sinh do tác động của trí tuệ và ý chí.
331. QUI TẮC III: Khi
có nguyên do, thần lành cũng như thần dữ đều có thể an ủi linh hồn, nhưng nhằm
mục đích trái ngược nhau: thần lành nhằm mưu ích cho linh hồn, để nó lớn lên và
ngày càng tốt lành hơn, còn thần dữ nhằm điều ngược lại, để rồi lôi cuốn linh hồn
theo ý xấu xa đồi tệ của nó.
332. QUI TẮC IV: Đặc điểm của thần dữ là giả dạng thần lành đi vào theo chiều hướng
của linh hồn trung tín để rồi kéo linh hồn ra theo đường của nó; nghĩa là nó
bày ra những tư tưởng tốt lành thánh thiện hợp với tâm hồn công chính, rồi lần
lần gắng lôi kéo linh hồn ra theo những mưu mô ẩn kín và những ý đồi tệ của nó.
333. QUI TẮC V: Cần chú ý nhiều về diễn biến của tư tưởng. Nếu từ đầu đến cuối đều
tốt, hướng hẳn về đường lành, là dấu hiệu của thần lành. Nhưng nếu diễn biến của
tư tưởng đưa ta tới điều xấu hoặc lo ra, hay không được tốt như điều trước đó
linh hồn đã định làm, hoặc làm giảm sút, khiến ta lo lắng, bối rối, mất sự bình
an, yên tĩnh đã có từ trước, đó là dấu hiệu rõ ràng điều ấy bởi thần dữ, kẻ thù
của sự tiến tới và phần rỗi ta.
334. QUI TẮC VI: Khi đã cảm thấy và nhận ra kẻ thù của bản tính loài người bởi
cái đuôi rắn của nó và mục đích xấu xa nó muốn đưa tới, thì điều có ích cho người
bị cám dỗ là sau đó duyệt lại diễn biến của những tư tưởng tốt nó bày ra và khởi
đầu của những tư tưởng ấy, và xem nó đã lần lần tìm cách khiến ta rời sự dịu ngọt
và niềm vui siêu nhiên vốn có trước, cho đến chỗ đưa ta tới ý định đồi tệ của
nó như thế nào; để nhờ nhận biết và ghi lại những kinh nghiệm đó, ta sẽ giữ
mình cho khỏi những dối trá thường lệ của nó sau này.
335. QUY TẮC VII: Đối với những người đang tiến tới, thần lành soi dẫn linh hồn
cách êm ái, nhẹ nhàng và dịu ngọt, như giọt nước thấm vào miếng bọt biển; còn
thần dữ thì thúc đẩy cách chát chúa, ồn ào và sôi động, như giọt nước rơi trên
đá. Với những người sa sút, thì các thần nói trên hành động ngược lại. Lý do là
tùy theo tình trạng của linh hồn trái ngược hay hòa hợp với các thần nói trên,
vì khi trái ngược, thì các thần xâm nhập cách ồn ào, dễ cảm thấy và nhận ra,
còn khi hòa hợp thì các thần ấy xâm nhập lặng lẽ như vào nhà mình, cửa mở.
336. QUY TẮC VIII: Khi an ủi không có nguyên do, thì không có cạm bẫy, vì như đã
nói trên, đó là ơn của riêng Thiên Chúa, Chúa chúng ta. Song người sống thiêng
liêng được Chúa ban ơn yên ủi phải tỉnh thức, và chú ý xem xét và phân biệt thời
gian được an ủi với thời gian tiếp sau, khi linh hồn còn nóng nảy và sung sướng
vì ơn an ủi vừa qua và dư hưởng của ơn ấy. Qủa vậy, trong thời gian tiếp sau ấy,
nhiều khi tự mình suy nghĩ theo tư tưởng và suy luận riêng, hoặc do ảnh hưởng của
thần lành hay thần dữ, ta hoạch ra những dự định và ý kiến mà không phải do
Thiên Chúa, Chúa chúng ta, trực tiếp ban cho, và vì thế, cần xét xem thật kỹ
trước khi hoàn toàn tin tưởng ở những điều ấy và đem ra thực hành.
VI. THỰC HÀNH NHẬN ĐỊNH THIÊNG LIÊNG
Điều kiện tiên quyết để có thể cân nhắc
cũng giống như khi ta muốn sử dụng cái cân, nếu là cân bàn thì phải điều chỉnh
cho kim chỉ đúng số không, nếu là cân móc thì phải xê dịch quả cân cho tới khi
cán cân thật thăng bằng. Đó là điều thánh i-nhã gọi là sự bình tâm, nghĩa là giữ
cho lòng mình không nghiêng về phía nào cả, chỉ sẵn sàng theo đàng nào Chúa muốn
thôi. Cũng như sức hút của trái đất giữ cho cán cân thăng bằng và tạo nên sự
giao động khi có trọng lượng được đặt lên cân, thì ở đây chính sức hút của
Thiên Chúa làm cho tâm hồn “bình tâm”.
Ta hãy đọc lại “lời phi lộ” của thánh I-nhã:
Trong mọi
việc lựa chọn tốt, trong mức độ hết sức có thể, con mắt ý hướng chúng ta phải
đơn sơ, chỉ nhằm cái (mục đích) vì đó tôi đã được dựng nên, ấy là để ngợi khen
Thiên Chúa, Chúa chúng ta và để cứu rỗi linh hồn tôi; như thế dù tôi lựa chọn
cách nào thì việc lựa chọn ấy cũng phải nhằm giúp tôi đạt tới cứu cánh vì đó
tôi được tạo dựng, nên không được xếp đặt và khuôn cứu cánh theo phương tiện,
nhưng phải xếp đặt và khuôn phương tiện theo cứu cánh.
Làm sao đạt đuợc sự bình tâm? Trong
tiến trình cầu nguyện mà thánh I-nhã đã đúc kết để giúp người khác đi vào kinh nghiệm
cầu nguyện đã biến đổi cuộc đời ngài, ngài đặt cái tựa đề : “Linh thao để tự thắng
mình và sắp xếp cuộc sống cho có trật tự mà
không quyết định theo một tình cảm lệch lạc nào”. Làm sao để có thể quyết định mà không dựa theo một tình
cảm lệch lạc nào? Điều có thể nói ngay là phải loại trừ mọi tình cảm lệch lạc
trước đã. Nhưng lấy gì làm chuẩn để có thể nói một tình cảm nào đó là lệch lạc?
Lấy sức ở đâu mà uốn nắn được tình cảm của mình cho đúng chuẩn mực và khỏi lệch
lạc?
Tiến trình Linh Thao sẽ giúp người “luyện tập” tìm được sự bình
tâm, nhận biết những lệch lạc nơi bản thân và tìm được chuẩn mực cùng sức mạnh
để uốn nắn tình cảm của mình.
Để tìm sự bình tâm, phải đặt mình dưới tác động của sức hút duy
nhất là Thiên Chúa, cùng đích cuộc sống của con người, điều thánh I-nhã gọi là nguyên lý và nền tảng:
Con người được dựng nên để ngợi khen,
tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, và nhờ đó cứu rỗi linh hồn mình. Mọi loài khác
dưới đất cũng được tạo dựng cho con người, để giúp họ đạt tới cùng đích Đấng Tạo
Hóa đặt cho họ. Bởi thế người ta chỉ được sử dụng tạo vật theo mức độ chúng
giúp đạt tới cứu cánh và phải gạt bỏ khi chúng làm cản trở. Do đó, cần phải giữ
cho mình được bình tâm [1] đối với mọi tạo vật trong tất
cả những gì nằm trong sự tự do của ta và không bị cấm, đến nỗi chúng ta không ước
muốn sức khỏe hơn bệnh tật, giàu sang hơn nghèo khổ, danh vọng hơn nhục nhã, sống
lâu hơn chết yểu và tương tự thế đối với mọi sự khác, nhưng chỉ ước muốn và lựa
chọn cái gì dẫn đưa chúng ta tới cứu cánh của mình hơn cả.
Suy niệm, nghiền ngẫm chân lý nền tảng này của đức tin, nhận ra
những hệ luận cho cuộc sống và mọi tương quan của mình, cầu xin ơn Chúa giúp để
có thể đạt tới sự tự do nội tâm khiến mình không còn tìm chi khác ngoài Thiên
Chúa là cùng đích đời mình. Đó là chiều kích hiện sinh của lòng tin. Thiên Chúa
không chỉ là Đấng ngự trên cao, Ngài đã tự ban mình làm cùng đích cuộc đời tôi.
Đón nhận ân huệ cao cả này và chấp nhận mọi hệ quả. Đây chính là quy luật của
tình yêu: yêu một người là chấp nhận sự hiện diện của người ấy và mọi hậu quả của
sự hiện diện ấy trong cuộc đời mình. Đó là “kính mến Chúa hết lòng hết sức trên
hết mọi sự”
như ta vẫn đọc trong kinh “kính mến”.
Khi lời kinh “kính mến” không còn là lời thuộc lòng phát ra trên
đầu môi chót luỡi, nhưng thành thái độ chân thành và sâu xa, thì tâm hồn ta được
hoàn toàn tự do. Lúc này ta mới có thể nhìn vào những lệch lạc trong tâm hồn và
cuộc sống của mình mà đỉnh cao là tội lỗi. Nhìn dưới ánh sáng của Tình Yêu đầy
nhân lành và thương xót của trái tim Thiên Chúa, ta sẽ gớm ghét mọi tội lỗi và
lệch lạc để lăn xả vào lòng Cha nhân lành, để cho Ngài yêu ta và để tình yêu của
Ngài biến đổi ta.
Gạt bỏ được những lệch lạc rồi, ta đi tìm chuẩn mực để có thể
cân nhắc các thần khí bằng cách chiêm ngắm Chúa Giêsu, vì Ngài là Con Đường, là
Sự Thật và Sự Sống. Là Kitô hữu, ta chấp nhận bước theo Chúa Giêsu trên con đường
Ngài đi. Việc chiêm ngắm Chúa Giêsu giúp ta gắn bó với Ngài đến nỗi chỉ muốn
nên giống Ngài trong mọi sự như thánh Phaolô nói: mặc lấy Đức Kitô, nên đồng
hình đồng dạng
với Đức Kitô (x. Rm 8,29; Gl 3,27). Như vậy ta có một chuẩn mực tuyệt đối là Đức Giêsu Kitô: nghiêng về
cái gì Chúa Giêsu đã chọn, chọn cái gì làm cho tôi nên giống Chúa Giêsu hơn cả.
Với tiêu chuẩn tuyệt đối này ta có thể bắt đầu nhận định.
1. Nhận định thiêng liêng
Ta quen dịch từ “spitualis” (spirituel, spiritual) là thiêng
liêng. Trong trường hợp nói về nhận định thiêng liêng, ta phải trở lại với gốc
của từ này là Spiritus : nhận định trong Thánh Thần và nhờ Thánh Thần để nhận
ra sự thôi thúc của Thánh Thần, phát hiện được sự thôi thúc của tà thần, của thế
gian và xác thịt. Đây là một tiến trình cầu nguyện.
Trong sách Linh Thao, thánh I-nhã hướng dẫn rất tỉ mỉ phần này.
Một đàng là những đề tài cầu nguyện về Ba Mẫu người và Ba bậc khiêm nhường để củng
cố sự bình tâm, một đàng là những lời chỉ dẫn về “những điều có thể lựa chọn”,
sau đó ngài nói đến ba tình huống có thể xảy ra:
2. Về ba thời kỳ thích hợp để làm việc
lựa chọn tốt lành
175. THỜI KỲ THỨ NHẤT: Là khi Thiên Chúa Chúa chúng ta đánh động và lôi kéo ý muốn đến
nỗi linh hồn trung tín tuân theo điều đã được chỉ vạch không hồ nghi mà cũng
không thể hổ nghi; thánh Phaolô và thánh Matthêu đã làm như thế khi các Ngài
theo Đức Kitô Chúa chúng ta.
176. THỜI KỲ THỨ HAI: Khi
nhận được đủ ánh sáng và sự hiểu biết bởi kinh nghịêm những an ủi và sầu khổ,
cũng như bởi kinh nghịêm phân biệt thần tốt và thần xấu.
177. THỜI KỲ THỨ BA: Thời kỳ thứ ba thì trầm lặng; trước hết suy xét con người sinh
ra để làm gì, tức là để ngợi khen Thiên Chúa, Chúa chúng ta, và để cứu linh hồn
mình. Và với lòng ước ao sự ấy, chọn làm phương thế, một cuộc sống hay một bậc
trong phạm vi Giáo Hội chấp nhận, để gặp được ở đó sự giúp đỡ cho việc phụng sự
Chúa và cứu rỗi linh hồn mình.
Tôi nói, thời kỳ trầm lặng, nghĩa là
khi linh hồn không bị xao động bởi thần tốt hay thần xấu, và sử dụng những khả
năng tự nhiên của mình cách tự do và yên tĩnh.
Tình huống thứ nhất thì không có gì để bàn thêm.
Tình huống thứ hai chính là kinh nghiệm bản thân của thánh I-nhã
ở Loyola, lúc mới được ơn Chúa. Nó cũng có thể xảy ra cho nhiều người.
Tình huống thứ ba là thông thường trong cuộc sống của mỗi người,
mỗi cộng đoàn. Đối với tình huống này Thánh I-nhã đưa ra hai cách để làm một cuộc
chọn lựa tốt đẹp.
3. Nếu cuộc lựa chọn không làm được
trong thời kỳ thứ nhất hay thứ hai, thì sau đây là hai cách để lựa chọn theo thời
kỳ thứ ba.
a. Cách thứ nhất để làm việc lựa chọn
tốt lành(gồm sáu điểm):
178. ĐIỂM NHẤT: Là đặt mình trước những điều tôi toan lựa chọn, chẳng hạn một chức
vụ hay bổng lộc để nhận hay bỏ, hoặc bất cứ điều gì khác mà sự lựa chọn có thể
thay đổi được.
179. ĐIỂM HAI: Tôi
phải nhằm đến cứu cánh vì đó tôi đã được dựng nên, là ngợi khen Thiên Chúa,
Chúa chúng ta và cứu rỗi linh hồn tôi; lại nữa tôi phải giữ bình tâm, không có
một quyến luyến lệch lạc nào, đến nỗi không hướng chiều và cũng không tha thiết
để nhận điều đã được đề nghị hơn là từ chối hoặc từ chối hơn là nhận; nhưng tôi
phải giữ mình ở vị thế cân bằng như cái kim của một bàn cân; chỉ nghiêng theo
đàng nào tôi “cảm thấy” hợp hơn cho vinh quang và sự ca ngợi Chúa cùng việc cứu
rỗi linh hồn tôi.
180. ĐIỂM BA: Xin Thiên Chúa, Chúa chúng ta đoái thương đánh động ý muốn tôi
và đặt vào linh hồn tôi điều tôi phải làm đối với việc đã được đề nghị, để ngợi
khen và làm vinh danh Chúa hơn, bằng cách dùng trí khôn suy xét đúng đắn và
trung thành, và lựa chọn hợp với ý cực thánh và nhân lành của Người.
181. ĐIỂM BỐN: Suy xét xem việc được chức vụ hay bổng lộc nói đây sẽ sinh thuận
tiện và ích lợi cho tôi bao nhiêu, duy để ngợi khen Thiên Chúa, Chúa chúng ta
và cứu rỗi linh hồn tôi; và ngược lại cũng theo cách thức ấy, suy xét những bất
tiện và nguy hiểm nếu được điều ấy. Trong phần thứ hai cũng làm như vậy, nghĩa
là xét những thuận tiện và ích lợi bởi việc không được điều ấy, và ngược lại
cũng xét những bất tiện và nguy hiểm nếu không có điều ấy.
182. ĐIỂM NĂM: Sau khi đã suy nghĩ và cân nhắc vấn đề dưới mọi khiá cạnh như thế,
coi xem lý trí nghiêng về phiá nào, và phải lựa chọn theo sự thúc đẩy mạnh nhất
của lý trí chứ không theo sự thúc đẩy nào của tình cảm.
183. ĐIỂM SÁU: Khi đã làm xong việc lựa chọn hay quyết định ấy, người đã lựa chọn
phải mau mắn đi cầu nguyện trước mặt Thiên Chúa, Chúa chúng ta, và dâng cho
Ngài cuộc lựa chọn đó, để Chúa Chí Tôn đoái nhận và xác chuẩn cho, nếu điều ấy
giúp phụng sự và ngợi khen Ngài hơn.
b. Cách thứ hai để làm việc lựa chọn
tốt lành (gồm bốn quy tắc và một ghi chú.)
184. QUY TẮC I: Lòng yêu mến đánh động và làm tôi lựa chọn điều nào đó, phải từ
trên mà xuống, bởi lòng kính mến Thiên Chúa, như thế người lựa chọn trước hết
phải cảm thấy trong lòng rằng tình yêu mến nhiều hay ít đối với điều họ chọn,
hoàn toàn hướng về Đấng Tạo Hóa và Chúa họ.
185. QUY TẮC II: Tưởng tượng ra một người mà tôi chưa bao giờ gặp và cũng chẳng
quen biết, với lòng ước ao cho họ được hoàn thiện trọn vẹn, suy xét điều tôi sẽ
khuyên họ làm và lựa chọn để sáng danh Thiên Chúa, Chúa chúng ta hơn cả và làm
cho linh hồn họ nên trọn lành hơn; và tôi cũng làm như vậy, tuân theo quy tắc
tôi đặt cho người khác.
186. QUY TẮC III: Xét
coi, ví như tôi đang ở vào giờ chết, thì thái độ và quy tắc mà lúc ấy tôi muốn
mình tuân theo trong công việc lựa chọn hiện bây giờ như thế nào, và rắp tâm
quyết định hoàn toàn tuân theo quy tắc đó.
187. QUY TẮC IV: Nhìn ngắm và suy xét tình trạng của tôi trong ngày phán xét.
Nghĩ xem lúc ấy tôi muốn mình đã định đoạt về công việc hiện tại như thế nào;
quy tắc mà lúc ấy tôi muốn mình đã tuân theo, tôi nhận lấy ngay bây giờ, để lúc
ấy tôi được hạnh phúc và mừng vui trọn vẹn.
188. GHI CHÚ: Một khi đã nhận lấy những quy tắc trên đây để được cứu rỗi và an
nghỉ đời đời, tôi sẽ làm việc lựa chọn và dâng cho Thiên Chúa, Chúa chúng ta,
theo như điểm thứ sáu trong cách lựa chọn thứ nhất.
Phương pháp nhận định và chọn lựa này có thể vận dụng trong đời
sống cá nhân khi chọn lựa bậc sống (nhận định ơn gọi) cũng như khi muốn canh
tân đời sống, trong đời sống cộng đoàn khi phải đáp ứng những tình huống mới mẻ,
khi phải chỉnh đốn nếp sống, khi phải chọn lựa hoạt động tông đồ hay giải quyết
những vấn đề khác của cộng đoàn.
Khi áp dụng cho cộng đoàn thì toàn thể cộng đoàn phải cùng nhau
đi vào cầu nguyện, mỗi người phải đạt tới sự bình tâm và sẵn sàng đón nhận những
gì Chúa sẽ bày tỏ qua cộng đoàn.
VII. NHẬN ĐỊNH CỘNG ĐOÀN
(Phần này lấy lại bài đã soạn cho giới
tu sĩ TPHCM)
Tiếp sau đây chúng ta sẽ xem thánh I-Nhã và nhóm bạn đầu tiên của
ngài đã ứng dụng những nguyên tắc này vào cuộc nhận định cộng đoàn thế
nào. Từ đó học lấy cách ứng dụng vào việc nhận định cộng đoàn của chúng
ta hiện nay, trong thời kỳ canh tân thích nghi đời tu, thời kỳ mà các hội dòng
chúng ta đang cố gắng biên soạn hoặc áp dụng hiến chương mới, đang cố gắng làm
sao cho cuộc sống của cộng đoàn, của từng người trong cộng đoàn đáp ứng sát hơn
với ơn gọi của mình cũng như với xã hội hiện thời, với những người mình phục vụ,
với những hoàn cảnh cụ thể mà vẫn giữ đúng mục tiêu của mình là sống ơn gọi phụng
sự Chúa, phục vụ Hội Thánh, phục vụ anh chị em, phục vụ đồng bào của
mình. Sự nhận định và lựa chọn đúng đắn, đó là yếu tố quyết định cho
tương lai của mỗi cộng đoàn tu sĩ chúng ta.
Nói về nhận định cộng
đoàn, đây không chỉ là danh từ theo mốt, cũng không chỉ là một phương pháp tâm
lý, bởi vì kinh nghiệm trong Linh thao cho thấy việc nhận định và chọn lựa
không thuần túy là một kiểu chọn lựa theo máy tính, nhưng là sự vận dụng toàn
thể con người đặt tất cả con người của mình trước một thực tế, trước một vấn đề
mình phải chọn lựa và phải chọn lựa thế nào để thực hiện được đúng mục đích cuối
cùng của đời mình, tức là ngợi khen, tôn kính, phụng sự Thiên Chúa và cứu rỗi
linh hồn mình. Ở đây chúng ta đặc biệt nói về cộng đoàn tu sĩ là cộng
đoàn gồm những người đã chọn một con đường sống theo và trong Thánh Thần.
Có những lúc chúng ta cũng cần phải cùng nhau nhận định, cùng nhau đi đến những
quyết định cụ thể. Dĩ nhiên có thể có người nói đã có Bề trên, cứ để Bề
trên nói gì thì nghe vậy, khỏi phải vất vả. Nói như vậy cũng tốt, nhưng
chúng ta thấy rằng nhất là từ sau Công Đồng Vatican II, tinh thần cộng đoàn đó
trong Giáo Hội sống lại mãnh liệt hơn.
Trở lại lịch sử Giáo Hội (x. phần đầu), chúng ta thấy ngay từ thời
các tông đồ, Công Đồng Giê-ru-sa-lem đã là một cuộc nhận định cộng đoàn đầu
tiên, ở đó tất cả các tông đồ, các kỳ mục họp nhau dưới sự trợ giúp của Chúa
Thánh Thần để quyết định về nếp sống phải đặt ra cho những người gốc dân ngoại
tin Chúa Ki-tô và xin chịu phép rửa. Họ phải sống như thế nào? Vấn
đề là họ có phải trở thành người Do-thái cùng một lúc với việc trở thành Ki-tô
hữu hay không? Trong Giáo Hội, Công Đồng chính là hình thức nhận định cộng
đoàn của toàn thể Giáo Hội. Vậy trong cộng đoàn tu sĩ chúng ta, nhiều khi
cần phải đi đến nhận định cộng đoàn, không phải vì không tin tưởng vào bề trên,
cũng không phải vì sự vâng phục không đủ để linh hoạt một cộng đoàn, nhưng đó
là đường lối của Thiên Chúa, đường lối nhập thể của Người đối với chúng
ta. Đó là một nhu cầu vừa vượt qua được những giới hạn tất hữu của từng
cá nhân, đồng thời cả cộng đoàn cùng nhau đặt mình dưới sự hướng dẫn của Chúa
Thánh Thần. Chúa Giê-su hứa: “Khi có hai, ba người tụ họp nhân danh
Thầy, thì có Thầy ở giữa họ” (Mt 18:20). Chính sự hiệp thông trong Thánh
Thần làm nên sự hiệp nhất trong cộng đoàn, và khi tất cả cùng nhau đặt mình dưới
ánh sáng Chúa Thánh Thần thì sẽ tạo được sự đồng tâm nhất trí.
Nói rằng vâng lời mà làm thì cũng được, nhưng khi tất cả cùng
nhau đồng tâm nhất trí để mọi người vâng phục một cách trọn vẹn thì những công
việc chúng ta làm sẽ đạt kết quả tốt hơn để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho
các linh hồn. Chính sự cọ sát các ý kiến giúp chúng ta khách quan hơn, biết
chết đi với chính mình, bớt quan trọng hóa chính mình, giúp khiêm tốn
hơn. Khi đã cùng nhau nhận ra ý Chúa thì việc thi hành cũng sẽ dễ hơn.
Bởi vì vấn đề đặt ra ở đây là những cách tiến hành giúp cho một cộng đoàn có thể
đi tới một quyết định theo đúng ý Chúa và giúp cho cả nhóm cũng như từng thành
viên dấn thân vào một hoạt động phục vụ tốt hơn. Tất nhiên khi đã nói đến
nhận định và chọn lựa thì những nguyên tắc thánh I-Nhã đã nêu lên cho từng cá
nhân ở trong Linh thao cũng sẽ ứng dụng cho việc nhận định cộng đoàn, nhưng để
dễ hiểu và để có một kinh nghiệm làm mẫu thì không gì bằng chúng ta lấy chính
kinh nghiệm của thánh I-Nhã và nhóm bạn đầu tiên của ngài.
1. Kinh nghiệm của Thánh I-Nhã và các
bạn
Vào mùa Xuân 1539, lúc đó nhóm gồm có mười người và phải nhận định
để đi đến một quyết định quan trọng. Đó là chính việc chọn lựa dẫn tới việc
quyết định thành lập Dòng Chúa Giê-su. Để giúp hiểu được vấn đề, trước hết
xin giới thiệu một vài nét lịch sử về cuộc thảo luận này, sau đó sẽ đọc biên bản
cuộc thảo luận còn lưu lại cho Dòng Tên. Tiếp theo chúng ta sẽ phân tích
để rút ra một phương thức áp dụng nguyên tắc nhận định và chọn lựa mà thánh I-Nhã
đã đề ra trong Linh thao nhắm áp dụng vào các cộng đoàn chúng ta ngày hôm
nay. Một vài phương thức áp dụng cho cộng đoàn không chỉ để nhận định những
việc chung của toàn thể Dòng, mà từng cộng đoàn địa phương cũng có thể áp dụng
để đi đến sự đồng tâm nhất trí với nhau trong mọi lãnh vực.
Vậy lai lịch việc nhận định đầu tiên của thánh I-Nhã và nhóm bạn
vào mùa xuân 1539 như thế nào? Khi học tại Paris, ngài đã đem kinh nghiệm
Linh thao ở Manresa giúp cho một số bạn sinh viên tĩnh tâm và nhận định.
Trong số những người theo hướng dẫn làm Linh thao, rất nhiều người đã bỏ con đường
danh vọng, dâng mình phụng sự Chúa trong nhiều Dòng khác nhau. Có người
vào Dòng Chartreux, có người vào Dòng Phan-xi-cô. Nhưng có sáu người chọn
cùng một ý hướng với thánh I-Nhã. Lúc đó ngài còn là một sinh viên thường,
lớn tuổi, chưa làm linh mục. Ý hướng là hiến thân phụng sự Hội Thánh chứ
cũng chưa đặt vấn đề vào một dòng tu nào.
Ngày lễ Đức Mẹ Lên Trời năm 1534, nhóm bảy người bạn này, trong
đó có thánh I-Nhã, thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê và một linh mục duy nhất trong nhóm
lúc đó là Phê-rô Favre (sau này được phong chân phước), đã tới nhà thờ
Montmartre ở Paris để tuyên khấn. Nội dung lời khấn của họ là: sống
độc thân để phục vụ Hội Thánh, sống khó nghèo và sau khi học xong sẽ đi hành
hương tới Giê-ru-sa-lem, ở lại đó để giúp ích cho các linh hồn. Nhưng vì
việc đi Giê-ru-sa-lem lúc ấy luôn bất trắc nên họ đã đưa ra một khoản phòng hờ
là nếu sau khi học xong và chờ đợi một năm mà không thể đi Giê-ru-sa-lem hoặc
đi mà không được phép ở lại, thì họ sẽ quay về Roma, đến trình diện Đức Giáo
Hoàng và xin ngài tự do xét dụng, sai họ đi làm việc phục vụ Hội Thánh ở bất cứ
nơi nào ngài xét thấy có ích lợi.
Vậy năm 1537, nhóm đã tới Ý, rồi tới Roma, xin phép Đức Giáo
Hoàng để đi viếng Thánh địa và ở lại đó phục vụ. Đức Giáo Hoàng không những
đã cho phép họ đi mà còn cho cả lộ phí, mặc dù khi đến Roma, họ đi với tinh thần
khó nghèo, có nghĩa là vừa đi vừa xin ăn. Đồng thời ngài cũng cho phép những
người nào trong nhóm họ chưa làm linh mục thì được chịu chức do bất cứ giám mục
nào. Vì lý do họ đã học đủ và đã khấn sống khó nghèo. Họ chờ đợi từ
giữa năm 1537 tới giữa năm 1538, không có tàu để đi Giê-ru-sa-lem, vì sự cắt đứt
bang giao giữa Cộng hòa Venitia với Thổ-nhĩ-kỳ. Thời ấy một phần Địa-trung-hải
từ nước Ý sang Thánh địa do hải quân Thổ-nhĩ-kỳ kiểm soát, nên nếu không có sự
giao hảo thì không thể đi được. Kết quả là họ phải thực hiện điều khoản
phòng hờ ở Montmartre, nghĩa là họ kéo nhau về Roma để ra mắt Đức Giáo Hoàng và
xin ngài tùy ý sử dụng họ để phục vụ Hội Thánh.
Lúc này nhóm đã có thêm bạn mới. Bỗng dưng đuợc một nhóm mười
người bạn xuất thân từ Đại học Paris, sống đời linh mục gương mẫu, nhiệt thành
giảng dạy, ban các bí tích và sống khó nghèo, Đức Giáo Hoàng rất ưng ý,
nên ngài bắt đầu sai họ đi rao giảng trong các nhà thờ ở thành phố Roma.
Có người được sai đi giảng dạy tại Đại học Roma. Nhưng chẳng bao lâu, vào
đầu năm 1539, Đức Giáo Hoàng muốn sai họ đi xa hơn, nhằm lúc vua Bồ-đào-nha xin
người sang Ấn-độ và chính Đức Giáo Hoàng cũng muốn sai trong nhóm mười người
này. Như vậy, đứng trước viễn tượng được sai đi, mỗi người mỗi ngả, nhóm
bạn này sẽ tan rã. Lúc đó nhóm chưa phải là một dòng tu, họ chỉ là một
nhóm bạn muốn hiến thân phụng sự Hội Thánh, tuy tất cả đã chịu chức linh mục.
Trước khi tới Roma, mười người này tạm trú ở phía Bắc nước Ý. Trên
đường đi về Roma, họ đã quyết định với nhau, nếu có ai hỏi họ là nhóm nào thì tự
xưng là đoàn Giê-su, bởi họ nghĩ rằng chính Chúa Giê-su đã quy tụ họ qua kinh
nghiệm gặp gỡ Người trong Linh thao, nên chẳng có tên nào khác đẹp hơn là “đoàn
Giê-su”. Bây giờ Đức Giáo Hoàng bắt đầu sai mỗi người mỗi ngả để phục vụ
Hội Thánh, họ băn khoăn, đặt vấn đề là như thế nhóm đến đây là tan, hay
là sẽ phải tiếp tục giữ một sự hiệp nhất nào đó. Cuộc thảo luận vào mùa xuân
năm 1539 đã kéo dài từ tháng 3 đến lễ thánh Gio-an Tẩy Giả năm đó.
Chúng ta đọc lại biên bản cuộc nhận định và phân tích xem thánh
I-Nhã cùng các bạn của ngài đã đặt cuộc đời mình trước mặt Chúa trong kinh nghiệm
Linh thao thế nào để chọn hướng đi phục sự Chúa và phục vụ Hội Thánh.
Nhóm đã áp dụng những nguyên tắc nhận định và chọn lựa để làm một cuộc nhận định
cộng đoàn và đi đến một hướng đi chung cho đoàn Giê-su thế nào?
Sau đây là biên bản cuộc thảo luận từ tháng 3 đến tháng 6 năm
1539 (những chỗ dùng chữ ngả là do tôi đưa vào để giúp người đọc).
1. Trong
mùa Chay vừa qua, khi thấy đã đến lúc phải chia tay nhau và phân tán đi, cũng
chính là lúc mà chúng tôi vẫn hết lòng mong ước để mau chóng đạt tới cùng đích
mà từ lâu lắm rồi chúng tôi đã nhắm tới và đã tự xác định. Vậy chúng tôi
quyết định tụ họp nhau trong nhiều ngày trước khi chia tay nhau và cùng nhau thảo
luận về ơn gọi của chúng tôi. Chúng tôi đã thảo luận điều này nhiều lần,
nhưng nhóm chúng tôi gồm những người Pháp, Tây-ban-nha, Savoie, Bồ-đào-nha...
Chúng tôi có những ý kiến khác nhau, liên quan đến cách sống của chúng
tôi. Trong khi chúng tôi vẫn có cùng một ý nghĩ và cùng một ý muốn là tìm kiếm
ý Chúa “tốt đẹp và hoàn hảo” theo con đường ơn gọi Người đã ban cho chúng
tôi; nhưng về các phương thế thích hợp nhất và hữu hiệu nhất đối với bản
thân chúng tôi cũng
như đối với người khác thì chúng tôi có nhiều ý kiến khác biệt. Chẳng ai
phải ngạc nhiên về những sự khác biệt quan điểm giữa chúng tôi là những người
hèn yếu, bởi lẽ chính các tông đồ là những vị lãnh đạo và cột trụ của Hội Thánh
cùng nhiều nhân vật rất thánh thiện khác mà chúng tôi chẳng dám sánh ví một
chút nào, cũng đã có những ý kiến khác biệt nhau, thậm chí đôi khi đối ngược
nhau. Và các vị ấy đã để lại bút tích về những sự đối ngược ấy của họ.
Chúng tôi cũng đã phán đoán khác nhau vì chúng tôi đều chú tâm
và lo lắng làm sao tìm ra một con đường hoàn toàn rõ rệt, dẫn chúng tôi đến việc
hiến thân làm của lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa, bằng cách đặt tất cả mọi lợi
ích của chúng tôi vào việc ngợi khen, tôn kính Người. Cuối cùng chúng tôi
nhất trí xác định sẽ cầu nguyện, cử hành Thánh lễ và suy niệm sốt sắng hơn bình
thường, và sau khi đã hết sức chăm lo việc ấy, thì phó thác mọi nỗi âu lo của
chúng tôi cho Thiên Chúa, với niềm hy vọng rằng Người là Đấng Chí Nhân và quảng
đại, không từ chối ban Thần trí tốt lành của Người cho bất cứ ai lấy lòng khiêm
nhượng đơn sơ mà cầu xin Người, nhưng ban ơn Thần trí của Người một cách quảng
đại cho mọi người mà không hối tiếc, thì Người cũng không từ chối chúng tôi mà
còn trợ giúp chúng tôi với lòng nhân hậu rộng rãi vượt xa những gì chúng tôi có
thể cầu xin hay mong ước.
2. Vậy
chúng tôi bắt đầu tung hết nỗ lực từ phía chúng tôi và đặt ra một vài câu hỏi phải
xem xét kỹ lưỡng và tìm tòi nghiêm túc. Chúng tôi suy nghĩ đắn đo về những
điều ấy suốt ngày; việc cầu nguyện cũng là một phương thế cho chúng tôi tìm kiếm.
Đến tối, mỗi người chúng tôi trình bày trước anh em cách giải quyết mà mình cho
là tốt hơn và có lợi hơn; chúng tôi muốn nhờ đó để cùng nhau đón nhận ý
kiến chính đáng nhất, ý kiến này phải xuất phát từ một cuộc thảo luận chung và dựa trên những lý
do vững chắc nhất.
3. Trong
cuộc họp buổi tối đầu tiên, chúng tôi đưa ra câu hỏi sau đây: Một khi con
người và cuộc sống của chúng tôi đã được chính chúng tôi tự dâng hiến cho Đức
Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, và Đấng đại diện đích thực và hợp pháp của Người ở
dưới đất để ngài sử dụng chúng tôi và sai chúng tôi đi đến nơi nào mà ngài xét
thấy việc tông đồ của chúng tôi sẽ được phong phú hơn, hoặc đến nơi người Thổ-nhĩ-kỳ
hoặc là đất Ấn-độ, hay đến với những người lạc giáo hoặc giữa bất cứ dân tộc
nào khác có đạo hay ngoại đạo, thì nên chọn đàng nào hơn: liên kết với
nhau một cách chặt chẽ làm thành một thân thể duy nhất, không một sự ngăn cách
bên ngoài nào dù lớn đến đâu có thể khiến chúng tôi lìa nhau, hay là làm ngược
lại? Một thí dụ soi sáng vấn đề: Đức Thánh Cha sắp gởi hai người
trong chúng tôi đến Sienna; chúng tôi có phải giữ một sự nhất trí với
nhau hay là chẳng giữ một sự gắn bó nào với họ hơn là với những người bên ngoài
Đoàn?
Chúng tôi kết thúc bằng một quyết định giữ sự gắn bó với
nhau. Bởi lẽ chúng tôi nghĩ Chúa đã đoái thương lấy lòng nhân từ và
thương xót của Người mà tụ họp chúng tôi là những con người hèn yếu nhất, xuất
phát từ nhiều xứ khác nhau với những tập tục khác nhau như thế, để liên kết
chúng tôi chặt chẽ với nhau, thì chúng tôi không được phá vỡ sự hiệp nhất của
Nhóm do Chúa đã tác thành, nhưng phải tiếp tục củng cố và duy trì sự hiệp nhất ấy
bằng cách làm nên một thân thể duy nhất. Một sự quan tâm đến nhau và một
sự nhất trí hoàn toàn với nhau sẽ đảm bảo đem lại hoa trái dồi dào hơn cho các
linh hồn: những sức lực kết hợp lại thì có sức kháng cự và năng lực để thực
hiện những công việc lớn lao khó khăn hơn là khi chia rẽ và phân tán
nhau. Tuy nhiên, trong tất cả những điều vừa trình bày, xin hiểu cho
đúng: Chúng tôi hoàn toàn không đưa ra điều gì do sáng kiến riêng hoặc do
ý riêng của chúng tôi, nhưng chỉ đưa ra những gì mà Chúa soi sáng và Tòa Thánh
phê chuẩn, dù kết quả ra sao đi nữa.
4. Sau
khi giải quyết dứt khoát vấn đề thứ nhất này, chúng tôi đề cập một vấn đề khác
khó hơn nhưng cũng không kém phần đòi hỏi phải suy nghĩ và xem xét. Tất cả
chúng tôi đã tuyên lời khấn khiết tịnh trọn đời và lời khấn khó nghèo trong tay
vị Sứ thần Tòa Thánh khi chúng tôi ở Venise. Có cần phải tuyên lời khấn
thứ ba là lời khấn tuân phục một
người trong chúng tôi không? Điều này cốt để hoàn thành ý Chúa trong mọi sự một cách thuần khiết
hơn hầu ngợi khen Chúa hơn và được công phúc hơn, đồng thời thực hiện ý muốn tự
do và chỉ thị của Đức Thánh Cha bởi chúng tôi đã hết lòng dâng chính mình chúng
tôi, ý muốn, trí hiểu, hành động cho ngài.
5. Sau
khi đã mất nhiều ngày để cầu xin tha thiết và suy nghĩ tìm cách giải quyết vấn
đề này mà không thấy được điều gì thỏa đáng, chúng tôi đã đặt hết hy vọng vào
Chúa và bắt đầu bàn với nhau xem có cách nào giải quyết được thỏa đáng hơn nỗi
nghi ngờ của chúng tôi. Trước hết liệu có nên cùng nhau lui vào một nơi
tĩnh mạc nào đó và ở đó ba mươi hay bốn mươi ngày mà lo việc suy gẫm ăn chay và
hãm mình để
được Thiên Chúa chấp nhận những ước nguyện của chúng tôi và đoái thương đặt chắc
chắn vào tâm trí chúng tôi cách giải quyết vấn đề này? Hoặc là ba hay bốn
người trong chúng tôi có nên thay
mặt cho mọi người đến đó vì cùng một mục đích? Hoặc không ai phải đi đến
nơi tĩnh mạc ấy? Chúng tôi có thể cứ ở lại Roma, nhưng dành nửa ngày chỉ
để lo việc của chúng tôi mà thôi? Như vậy việc suy gẫm, suy nghĩ và cầu
nguyện có thể được thực hiện một cách thuận lợi hơn và lâu giờ hơn, nửa ngày
còn lại chúng tôi vẫn sử dụng vào việc tông đồ quen thuộc là giảng dạy và giải
tội.
6. Cuối
cùng, sau khi đã bàn cãi và xem xét các điều này, chúng tôi đã quyết định tất cả
phải ở lại Roma, nhất là vì hai lý do sau đây:
a) Một là để tránh những lời đàm tiếu và gương xấu trong
thành phố và trong dân là những người có thể xét đoán, suy nghĩ. Con người
vẫn có khuynh hướng phát biểu một cách nhẹ dạ, cho rằng chúng tôi chạy trốn hoặc
âm mưu một cái gì mới, hoặc thiếu cương quyết và bền vững trong công việc ban đầu
của chúng tôi.
b) Hai là không để cho sự vắng mặt của chúng tôi gây thiệt
hại cho mùa gặt mà chúng tôi thấy thật đáng kể trong việc giải tội, giảng dạy
và các việc thiêng liêng khác, đáng kể đến nỗi dù cho chúng tôi có đông gấp bốn
lần cũng không thể thỏa mãn nhu cầu của mọi người, như hiện nay chúng tôi cũng
không thỏa mãn nổi.
Phương thế thứ hai mà chúng tôi bắt đầu thảo luận để tìm ra con
đường đi tới giải pháp là đề nghị cho tất cả và từng người thực hiện được trong
tâm hồn mình ba thái độ sau đây:
- 1/ Mỗi người phải chuẩn bị và chăm lo việc cầu
nguyện dâng Thánh lễ
và suy gẫm như thế nào để cho mọi nỗ lực của mình hướng tới việc tìm thấy niềm
vui và bình an trong Thánh Thần về vấn đề vâng phục bằng cách làm hết sức để
nghiêng chiều ý muốn của mình về đàng vâng phục hơn là về đàng được quyền ra lệnh,
nếu nhờ đó sẽ phát sinh vinh quang và lời ngợi khen Chúa như nhau.
- 2/ Thái độ bề trong thứ hai là không ai nói chuyện
với người khác
trong nhóm về vấn đề này, cũng không hỏi người nào về những lý do của người ấy,
như vậy sẽ không ai bị ảnh hưởng do ý kiến của người khác mà nghiêng chiều về sự vâng
phục hơn là không vâng phục, hoặc ngược lại mỗi người chỉ tìm kiếm điều gì nhờ
cầu nguyện và
suy gẫm thấy được là có ích hơn.
- 3/ Thái độ thứ ba là mỗi người phải tự coi mình
như là một kẻ xa lạ đối
với nhóm và như thể không bao giờ sẽ được nhận vào nhóm này. Nhìn vấn đề
như thế thì không một tình cảm nào sẽ làm cho họ nghĩ và phán đoán thiên về một
bên nào, nhưng có thể nói là với tư cách một người ngoài cuộc, người ấy sẽ tự
do bộc lộ ý kiến của mình về kế hoạch vâng phục hay không vâng phục, và cuối
cùng lấy sự phán đoán của mình xác nhận và chấp thuận phía nào mình thấy sẽ phục
vụ Thiên Chúa hơn và bảo đảm hơn cho sự duy trì Đoàn lâu dài.
7. Chính
trong những thái độ bề trong đã chuẩn bị trước như thế, chúng tôi quyết định gặp
nhau ngày hôm sau, khi mọi người đã sẵn sàng, để mỗi người phát biểu những vấn
nạn có thể đưa ra chống lại sự vâng phục. Tất cả mọi lý do thấy được và mỗi
người đã khám phá ra trong suy nghĩ, suy gẫm và cầu nguyện, đều lần lượt được mỗi
người trình bày. Chẳng hạn người thì nói: đối với dân Ki-tô hữu,
“danh từ Dòng tu” hay vâng phục không còn cái tiếng tốt lẽ ra phải có là do sự
thiếu nhân đức và do tội lỗi của chúng ta. Người khác nói: “Nếu
chúng ta muốn sống vâng phục, có lẽ chúng ta sẽ bị Đức Giáo Hoàng bắt phải sống
theo một luật Dòng nào đã có sẵn và đã được thiết lập, hậu quả sẽ là chúng ta
chẳng còn dịp cũng chẳng còn phương thế để làm việc cho phần rỗi các linh hồn,
mà sau phần rỗi của chúng ta thì phần rỗi các linh hồn là mục đích duy nhất
chúng ta nhắm tới, như vậy mọi ước vọng của chúng ta sẽ hỏng hết, thế mà chúng
ta lại có đủ lý do để tin rằng những ước vọng ấy đã được Thiên Chúa là Chúa
chúng ta chấp thuận”. Người khác nữa lại nói: “Trong trường hợp
chúng ta vâng phục một người thì số người mà Dòng chúng ta quy tụ được để làm
việc trong vườn nho của Chúa với lòng nhiệt thành, chân thật sẽ bị giảm, mà mùa
gặt thì nhiều và những thợ gặt đích thật thì ít, vì theo quy luật của sự yếu đuối
và dòn mỏng của con người, phần đông lo tìm lợi ích riêng và ý riêng mình hơn
là những lợi ích của Đức Giê-su Ki-tô và sự từ bỏ mình hoàn toàn”. Người
khác lại nói điều khác nữa, rồi người thứ tư, thứ năm và cứ như thế, chúng tôi
lần lượt trình bày chi tiết những vấn nạn gặp thấy chống lại sự vâng phục.
Một thời gian rất ngắn sau đó, vào một ngày khác, chúng tôi thảo luận về quan điểm ngược lại,
bằng cách đưa ra tất cả những lợi ích của sự vâng phục như mỗi người thấy được
nhờ cầu nguyện và suy gẫm. Mỗi người
lần lượt trình bày kết quả sự suy nghĩ của mình, khi thì bằng cách đặt ra một giả thuyết
không thể thực hiện được để dẫn tới điều mình muốn nói, khi thì bằng cách khẳng
định trực tiếp. Chẳng hạn có người đưa tới sự phi lý và sự không thể làm
được bằng cách sau đây: “Giả thử nhóm chúng ta được trao phó một công việc
tông đồ mà không có sự trợ giúp của ách vâng phục, thì chẳng ai sẽ thực sự chịu
trách nhiệm cả, mỗi người sẽ đẩy gánh nặng cho người khác như chúng ta đã có
kinh nghiệm nhiều lần về việc ấy. Cũng vậy, giả thử không có quyền bính ở
trong nhóm chúng ta, thì nhóm không thể duy trì hay tồn tại lâu dài; điều ấy đi
ngược với ý hướng ban đầu của chúng ta là duy trì đoàn chúng ta mãi mãi, vì
không gì có thể duy trì nhóm hơn là sự vâng phục.
Sự vâng phục cần thiết, nhất là đối với chúng ta là những người
khấn sống khó nghèo vĩnh viễn và chúng ta liên lỉ chìm ngập trong những công việc
thiêng liêng và thế tục ít thuận lợi cho việc duy trì đoàn chúng ta. Một
người khác tiến hành theo khẳng định, anh nói: “Vâng phục là mẹ của mọi
hành động và mọi nhân đức anh hùng bền bỉ. Do thực sự sống theo vâng phục
thì hoàn toàn sẵn sàng thi hành mọi mệnh lệnh được đề ra cho mình, dù mệnh lệnh
ấy có khó khăn hoặc phải làm trò cười trước mắt thiên hạ khiến cho mình bối rối;
chẳng hạn như người ta bắt tôi phải đi ra phố và những nơi công cộng mình trần
hay mặc những thứ áo quần kỳ cục. Dù chưa bao giờ có một mệnh lệnh như thế
được ban ra, nhưng khi người ta sẵn sàng thi hành mệnh lệnh ấy, từ bỏ mọi phán
đoán riêng và ý muốn riêng, thì người ta sẽ luôn luôn ở trong một tình trạng
anh hùng, bao giờ cũng có công hơn”. Hoặc người khác nói: “Không gì
bẻ gãy tính kiêu ngạo và tự phụ hơn là sự tuân phục. Người kiêu ngạo
hết sức yêu mến việc theo phán đoán riêng và ý muốn riêng của mình, không chịu
nhường ai. Người ấy bước đi trên những con đường tìm sự cao sang hào
nhoáng vượt sức mình. Sự vâng phục chiến đấu theo hướng ngược hẳn lại, bởi
vì bao giờ cũng nghe theo phán đoán không phải của mình và theo ý muốn của một
người khác. Người vâng phục thì vâng phục mọi người và gắn bó với sự
khiêm nhường là kẻ thù của sự kiêu ngạo”.
8.
Vậy sau nhiều ngày bàn luận theo nhiều hướng về rất nhiều điểm liên quan đến
cách giải quyết vấn đề, cân nhắc và xem xét những lý do nghiêm túc nhất và mạnh mẽ
nhất trong khi chúng tôi vẫn giữ thói quen chăm lo cầu nguyện, suy gẫm và suy
xét; cuối cùng nhờ Chúa ban ơn giúp sức, chúng tôi đã đạt được kết luận
không phải là theo đa số phiếu, nhưng là sự nhất trí tuyệt đối: Chúng tôi
vâng phục một người trong anh em, đó là điều rất đáng chọn và rất cần thiết cho
chúng tôi. Như vậy, những ước muốn ban đầu của chúng tôi là hoàn thành ý
Chúa trong mọi sự, sẽ được thực hiện tốt hơn và chính xác hơn; đồng thời
cũng bảo đảm hơn cho việc duy trì Đoàn. Và sau hết, chúng tôi có thể lo
liệu khôn khéo hơn cho từng chi tiết của việc thường ngày về những mặt thiêng
liêng cũng như thế tục.
9.
Trong khi tuân thủ cùng một cách thức bàn luận và tiến hành đối với tất cả những
vần đề khác và bao giờ cũng xét đến hai quan điểm đối ngược, chúng tôi đã lưu lại
trên các vấn đề này và các vấn đề khác gần ba tháng trời, từ giữa mùa Chay cho
đến lễ thánh Gio-an Tẩy Giả. Hôm ấy mọi sự đã kết thúc dứt khoát trong niềm
vui và sự hòa hợp hoàn toàn của tâm hồn anh em. Đi trước sự bàn định dứt
khoát này không thiếu những buổi canh thức, những giờ cầu nguyện và những nỗi mệt
nhọc tinh thần cũng như thể xác.
2. Một vài nhận định từ bản báo cáo
Trở lại từ đầu bản báo cáo này, chúng ta cố gắng nhận ra tiến
trình và những điều kiện của Linh thao. Bởi vì chính kinh nghiệm này có
thật và là một kinh nghiệm đi tới quyết định rất quan trọng là chính việc khai
sinh ra một dòng tu, thiết nghĩ nó có giá trị để soi sáng, làm mẫu cho chúng ta
nghiên cứu để biết cách thực hiện những cuộc nhận định cộng đoàn hiện nay (cụ
thể nhất là việc áp dụng hiến chương mới của dòng Mến Thánh Giá, bởi vì tuy có
Hiến Chương chung, nhưng ai cũng biết rằng việc áp dụng vào từng Hội Dòng, từng
cộng đoàn ở mỗi địa phương chắc chắn có nhiều điều khác nhau, nên cần phải nhận
định và chọn lựa).
Trước hết trong phần mở đầu, chúng ta thấy biên bản nêu rõ hoàn
cảnh, tức là đã tới lúc chia tay nhau và phân tán đi. Từ trước đến giờ,
các bạn cũng chỉ mong điều đó, tức là được Đức Giáo Hoàng sai đi phục vụ Hội
Thánh, và như thế là thể hiện được những điều họ đã khấn nguyện ở
Montmartre. Nhưng đứng trước viễn tượng phải chia tay, họ lại muốn cùng
nhau thảo luận về chính ơn gọi của họ. Họ đã thảo luận nhiều lần mà chưa
đi đến kết quả. Họ chỉ thấy tình trạng trong nhóm gồm những người thuộc
nhiều quốc tịch: hai người Pháp, năm người Tây-ban-nha, hai người xứ
Savoie và một người Bồ-đào-nha. Đó là nói về quốc tịch, còn nói về cá
tính thì trong mười người này, cá tính cũng rất khác biệt nhau. Chẳng hạn
người Bồ-đào-nha duy nhất là Simon Rodriguez, rồi người Tây-ban-nha lúc đó là
Bobadilla, đúng là hai cái gai ở trong nhóm. Bởi vì hai con người này cá
tính rất độc đáo, khó mà nhượng bộ ai. Mỗi người mỗi vẻ, mười phân vẹn mười.
Ông nào cũng có cá tính mạnh, ông nào cũng là cựu sinh viên Sorbonne.
Các nhân vật trong nhóm mười người này có thể nói được toàn là
những nhân vật sừng sỏ, cá tính độc đáo. Vậy mà họ lại muốn tìm ra những
phương thế thực hiện cùng một mục đích. Họ muốn cùng nhau thảo luận để
tìm ra nếp sống cho mình. Trong biên bản chúng ta thấy họ xác định rõ
là: “Khi chúng tôi có cùng một ý nghĩ và cùng một ý muốn là tìm kiếm ý
Chúa tốt đẹp và hoàn hảo theo con đường ơn gọi Người đã ban cho chúng
tôi”. Như vậy chúng ta thấy họ đã nhất trí được với nhau về hai điểm.
Một là về ơn gọi Chúa đã ban cho họ mà họ đã nhận ra từ ở Paris và đã khẳng định
khi tuyên khấn ở Montmartre, rồi khi họ tuyên khấn trong tay vị đại diện Đức
Giáo Hoàng ở Venezia. Và sau khi đã được Đức Giáo Hoàng chấp nhận và sai
đi, về phương diện ơn gọi họ không có gì phải thắc mắc, đặt lại vấn đề. Họ
cũng thống nhất với nhau cùng một ý nghĩ và ý muốn là chỉ tìm ý Chúa để thực hiện
ơn gọi phục vụ Hội Thánh dưới quyền Đấng đại diện Chúa Ki-tô. Như vậy,
chúng ta thấy rằng họ đã có một mục đích và tất cả đều đạt được thái độ “bình
tâm” trong phương pháp Linh thao của thánh I-Nhã. Đó là thái độ tiên quyết
đối với mọi nhận định và lựa chọn, bởi vì phải thoát khỏi mọi quyến luyến lệch
lạc mới có thể có được sự bình tâm mà thánh I-Nhã nói giống như một cái kim
trên bàn cân để sẵn sàng đón nhận sự thôi thúc của Chúa. Động lực duy nhất
của sự thôi thúc đó là vinh quang Chúa và cứu rỗi linh hồn mình. Hai là họ
còn muốn tìm kiếm ý Chúa tốt đẹp và hoàn hảo để thực hiện ơn gọi, tức là phương
thế để sống ơn gọi đó. Tuy họ có được thái độ căn bản là sự bình tâm, vì họ chỉ
muốn tìm kiếm ý Chúa, nhưng về các phương thế thích hợp nhất và hữu hiệu nhất đối
với bản thân mình cũng như đối với người khác thì anh em có nhiều ý kiến khác
nhau. Họ không ngạc nhiên vì sự khác biệt đó, mà phải tìm một sự nhất
trí.
Nếu chúng ta đọc lại sách Công Vụ Tông Đồ chương 15, cũng thấy
có vấn đề tương tự, tức là sau khi nghe nói có những người ngoại đạo, những người
không phải gốc Do-thái, cũng đã được ơn để tin vào danh Chúa Giê-su, thì tất cả
đều vui mừng. Nhưng điều làm cho các tông đồ và giới lãnh đạo ở
Giê-ru-sa-lem không đồng ý kiến với nhau, đó là chuyện có nên bắt họ theo tất cả
những quy định của Do-thái giáo hay không. Trong cuộc họp này, ở
Giê-ru-sa-lem người ta bắt đầu bằng cách tranh luận, nhưng kết quả chẳng đi đến
đâu. Cuối cùng thánh Phê-rô chủ động thay đổi phương pháp làm việc : lần lượt mỗi
người trình bày và tất cả mọi người lắng nghe. Bắt đầu là thánh Phê-rô
trình bày, sau đó đến thánh Barnabe và thánh Phao-lô trình bày những gì các
ngài đã chứng kiến về những việc Chúa làm cho Dân ngoại. Cuối cùng thánh
Gia-cô-bê phát biểu, rút kết luận từ những gì 3 vị trước đã chia sẻ. Sau
đó tất cả đi đến sự nhất trí để soạn bức thư chung và chọn hai người đáng tín
nhiệm là Phao-lô và Barnabê để đi công bố bức thư đó. Cùng đi với Phao-lô
và Barnabê thì có ông Giu-đa. Chúng ta lưu ý: bức thư của các tông
đồ và các lãnh đạo ở Giê-ru-sa-lem nói rằng: “Thánh Thần và chúng tôi quyết
định không áp đặt cho anh em những gánh nặng nào khác ngoài những gì không thể
giảm bớt được”. Vậy chúng ta thấy trong nhận định của Giáo Hội ở
Giê-ru-sa-lem rõ ràng là một sự nhận định thiêng liêng, - nghĩa là nhận định dưới
ánh sáng của Thánh Thần để biết Thánh Thần thúc đẩy về hướng nào - và
trong bức thư, các đại biểu đã khẳng định: “Thánh Thần và chúng tôi quyết
định”.
Ở đây chúng ta thấy rằng mở đầu biên bản nói thánh I-Nhã và các
bạn lúc đó đã nhiều lần thảo luận với nhau mà vẫn còn những ý kiến khác biệt.
Bây giờ vì khao khát muốn tìm những phương thế thích hợp nhất và hữu hiệu nhất
đối với bản thân mình và đối với người khác để sống ơn gọi mà họ xác tín đã nhận
được từ Paris, họ quyết định làm một cuộc nhận định thiêng liêng, đó là cuộc nhận
định dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần. Từ trước đến giờ họ bàn luận với
nhau nhưng chưa phải là cuộc nhận định thiêng liêng, nhận định trong Thánh Thần,
trong cầu nguyện. Như vậy tất cả đều cùng chú tâm lo lắng tìm kiếm con đường
phải đi, nhưng sự phán đoán của mỗi người vẫn khác nhau. Bây giờ họ bắt đầu
chuẩn bị cho việc nhận định thiêng liêng như sau: “Chúng tôi nhất trí quyết
định sẽ cầu nguyện, cử
hành Thánh lễ và suy niệm sốt sắng hơn bình thường và khi đã hết sức chăm lo việc
ấy thì phó thác mọi âu lo cho Chúa với lòng hy vọng rằng Người là Đấng chí nhân
và quảng đại không từ chối ban Thần khí tốt lành của Người và trợ giúp chúng
tôi, với một lòng nhân hậu, rộng rãi vượt xa những gì chúng tôi cầu xin hay
mong ước”. Đây
là điểm thứ ba mà thánh I-Nhã đã nói trong phương pháp lựa chọn thứ nhất:
“Xin Thiên Chúa, Chúa chúng ta đoái thương đánh động ý muốn và đặt vào linh hồn
điều tôi phải làm đối với sự việc đã được đề nghị để ngợi khen và làm vinh danh
Chúa hơn.
Nhưng để có thể nhận định thì tất nhiên phải đặt vấn đề rõ ràng.
Biên bản ghi lại: “Vậy chúng tôi bắt đầu tung hết nỗ lực từ phía chúng tôi và đặt ra một vài
câu hỏi đòi phải xem xét kỹ lưỡng và tìm tòi nghiêm túc”. Điều này dễ hiểu,
bởi vì không có thể nào chia sẻ, thảo
luận, trao đổi với nhau, không có thể nào cùng nhau nhận định nếu vấn đề không
được đặt ra một cách rõ ràng. Vậy để làm một cuộc nhận định cộng đoàn,
trước hết phải cầu nguyện để có sự bình tâm, rồi đặt câu hỏi rõ ràng, liên quan
đến cộng đoàn. Trường hợp của nhóm bạn thánh I-Nhã có liên quan tới tất cả
hiện tại và tương lai của nhóm mười người và những người sẽ theo đường lối của
họ sau này.
Sau khi đã xác định được vấn đề rõ ràng và mọi người đã hiểu đúng
vấn đề, họ bắt đầu bước thứ nhất của tiến trình nhận định. Thánh I-Nhã
nói: “Suốt ngày chúng tôi suy nghĩ về những điều ấy. Việc cầu nguyện cũng là một
phương thế cho chúng tôi tìm kiếm”. Đấy mới là vấn đề nhận định thiêng liêng,
liên quan đến toàn thể con người, là một vấn đề thuộc về tác động của Chúa
Thánh Thần, nên mỗi người phải đích thân đến trước mặt Chúa và điều mình suy
nghĩ phải ăn sâu vào tất cả con người mình. Thánh I-Nhã gọi đó là
Chúa“đánhđộng ý muốn” và “đặt vào linh hồn tôi”, nghĩa là làm sao để mình hoàn toàn cảm nhận được điều ấy
đúng như ý Chúa, không phải do tình cảm. Ở đây chúng ta không thể hiểu được
quan điểm này nếu chúng ta không đặt mình trong nhãn giới đức tin và tác động của
Chúa nơi con người chúng ta.
Về phương diện nhân bản, thánh I-Nhã cũng có một cái nhìn rất
sâu sắc về tâm lý con người. Con người không chỉ có lý trí và ý muốn mà
thôi. Lý trí và ý muốn không thể hành động biệt lập vì con người là duy
nhất. Nhưng cũng không chỉ có ý chí và lý trí mà cả nhân vị, cái mà chúng
ta gọi là toàn thể con người dấn thân khi cảm nghiệm được rằng đây là lời mời gọi
của Chúa. Việc nhận định thiêng liêng đưa đến quyết định sâu xa, đó là
đón nhận tác động của Chúa. Tại sao? Vì khi đó chúng ta sống điều
mà thánh Gio-an gọi là “sự tự do của con cái Thiên Chúa”, tức là để cho
Chúa chiếm ngự cõi sâu thẳm nhất trong tâm hồn chúng ta, làm cho chúng ta
gắn bó với Người đến mức chỉ muốn đi tìm thánh ý Người.
Cũng như Chúa Giê-su đã nói rằng: “Tinh thần thì mau mắn,
nhưng xác thịt thì nặng nề”, tức là trong cái cảm nhận của chúng ta, không phải
cái gì cũng rõ ràng, nhưng có cái gì đó xuất phát từ trung tâm ánh sáng, là sự
tự do của con cái Thiên Chúa. Nó còn có cả một lãnh vực mờ ảo, trong đó
cái tôi còn mạnh lắm. Đó là những đam mê, những sở thích, những khuynh hướng
riêng đã lấn át con người. Đi vào nhận định thiêng liêng tức là làm sao
thoát ra khỏi cái tôi đó để sống kết hiệp thực sự với ý muốn của Thiên
Chúa. Vì thế phải suy nghĩ đắn đo, đồng thời phải cầu nguyện.
Bước thứ hai là đến tối, mỗi người trong nhóm trình bày với anh
em cách giải quyết mà mình cho là tốt hơn, có lợi hơn. Mỗi người phải nhận
lấy phần trách nhiệm của mình đối với tất cả cộng đoàn và cộng đoàn cũng phải
tiếp nhận mỗi người với tất cả cá tính của người đó. Vấn đề khó khăn là
làm sao mỗi người dám bộc lộ mình trước mặt cộng đoàn, và cộng đoàn phải có
thái độ lắng nghe như thế nào để mỗi người cảm thấy mình được tôn trọng và mình
có thể nói lên được tất cả. Nếu phản ứng của cộng đoàn làm cho một số người
không dám phát biểu, không dám nói, thì lúc đó sẽ không có nhận định cộng đoàn,
lúc đó sẽ là áp lực của một nhóm làm người khác không dám chia sẻ. Nhờ việc
mỗi người đều phát biểu những gì mình cảm nghiệm, cộng đoàn có thể cùng nhau
đón nhận ý kiến chính đáng nhất. Ý kiến này phải xuất phát từ một cuộc thảo
luận chung và dựa trên những lý do vững chắc nhất, bởi vì chúng ta thấy rằng mỗi
người trình bày trước anh em, đó là bước thứ nhất. Nhưng còn có bước thứ
hai là thảo luận chung về những lý do, những động lực mà mỗi người đã đưa
ra. Đây không phải là vấn đề tranh cãi, vì đi đến tranh cãi thì lại có kẻ
thắng người thua. Mục đích thảo luận là để cùng nhau suy nghĩ, đánh giá
những lý do mỗi người đưa ra, để cuối cùng ý kiến nào dựa trên những lý do vững
chắc nhất sẽ được coi đó là ý kiến tốt hơn, có lợi hơn và cùng nhau đón nhận.
Cũng như trong sự nhận định riêng, mỗi người phải sẵn sàng chấp nhận điều nào
là thích hợp nhất để mà ngợi khen, tôn kính, phụng sự Thiên Chúa và cứu rỗi các
linh hồn. Chúng ta để ý chữ “hơn”, tốt hơn và có lợi hơn chứ không đặt vấn
đề một cách tuyệt đối được.
Nhóm thực hiện phương pháp làm việc đó cụ thể như thế nào?
“Trong cuộc họp buổi tối đầu tiên, chúng tôi đưa ra ý kiến sau đây:
Khi con người
và cuộc sống của chúng tôi đã được chính chúng tôi tự dâng hiến cho Đức Giê-su
Ki-tô, Chúa chúng ta, và Đấng đại diện đích thực và hợp pháp của Người ở dưới đất
để ngài sử dụng chúng tôi, và sai chúng tôi đi đến những nơi mà ngài xét thấy
việc tông đồ của chúng tôi sẽ được phong phú hơn, hoặc đến nơi người Thổ-nhĩ-kỳ
hoặc là đất Ấn-độ, hay với những người lạc giáo hoặc bất cứ dân tộc nào khác có
đạo hay ngoại đạo, thì nên chọn đàng nào hơn, tức là bây giờ tiếp tục liên kết
với nhau chặt chẽ, làm thành một thân thể duy nhất, không một sự ngăn cách bên
ngoài nào dù lớn đến đâu có thể khiến chúng tôi lìa nhau, hay là chọn mỗi người
đi mỗi ngả và chấm dứt quan hệ của nhóm”.
Qua biên bản cuộc thảo luận của “Đoàn Giê-su”, chúng ta thấy họ
đã xác định điểm chung đó là ơn gọi, không có gì để bàn cãi nữa. Bây giờ
chỉ bàn cãi để chọn lựa nên duy trì và củng cố một sự liên kết chặt chẽ, làm
thành một thân thể duy nhất, không gì phá vỡ được, hay là chấm dứt quan hệ nội
tại của nhóm. Họ đưa ra một vấn đề cụ thể là Đức Thánh Cha sắp phái hai
người trong đoàn đến Sienna thì liệu có phải giữ một sự nhất trí với nhau hay
là chẳng giữ một sự gắn bó nào với họ hơn là với những người bên ngoài
đoàn. Nếu hai người được Đức Giáo Hoàng sai đi Sienna thì nhóm sẽ giữ sự
quan hệ với họ thế nào hay là cắt đứt quan hệ với họ. Đấy là vấn đề được
đặt ra rất rõ ràng, chỉ chọn một trong hai. Một là củng cố sự duy trì và
hợp nhất của nhóm, hai là kể như tan.
Họ giải quyết vấn đề thứ nhất như thế nào? Đọc trong biên
bản, chúng tôi có cảm tưởng rằng vấn đề thứ nhất được giải quyết khá nhanh và
hình như đã được giải quyết theo điều mà thánh I-Nhã gọi là thời kỳ thứ hai để
làm việc chọn lựa tốt. Thánh I-Nhã phân biệt ba thời kỳ có thể làm việc
chọn lựa tốt. Thời kỳ thứ nhất là khi được Chúa đánh động và lôi kéo, thí
dụ như thánh Phao-lô trên đường Damas hay thánh Mát-thêu đang ngồi ở bàn thu
thuế, nghe Chúa gọi là bỏ dậy đi ngay. Thời kỳ thứ hai là khi nhận được đủ
ánh sáng và hiểu biết bởi kinh nghiệm những an ủi và sầu khổ, bởi kinh nghiệm
phân biệt thần tốt và thần xấu. Vậy trong biên bản nói sao? Điểm thứ
nhất là có nên duy trì và củng cố sự hợp nhất của nhóm hay là chấm dứt ở
đây? “Chúng tôi kết
thúc bằng một quyết định giữ sự gắn bó với nhau”. Những động lực nào thúc đẩy họ đi đến quyết
định đó? “Bởi lẽ chúng tôi nghĩ Chúa
đã đoái thương lấy lòng nhân từ và thương xót của Người mà tụ họp chúng tôi là
những con người hèn yếu, xuất phát từ nhiều phía với những tập tục khác
nhau. Do đó, chúng tôi không được phá sự hợp nhất của nhóm do Chúa đã tác
thành, nhưng phải tiếp tục củng cố và duy trì sự hiệp nhất ấy”. Họ trở lại
kinh nghiệm đã cùng sống
với nhau từ 1534 đến 1539: họ đã sống trong tinh thần gắn bó và nâng đỡ
nhau phụng sự Thiên Chúa, họ đã cảm nhận được đó là ân huệ lớn lao như thế
nào. Một lý do khác là sự quan tâm đến nhau và sự nhất trí hoàn toàn với
nhau sẽ đảm bảo mang lại hoa trái dồi dào hơn cho các linh hồn. Đây cũng
là điều họ đã cảm nghiệm trong cả quá trình sống với nhau, không phải chỉ là sự
suy luận theo kiểu “đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”. Chính kinh nghiệm
họ đã cảm nghiệm được khi cùng nhau phụng sự Chúa. Những sức lực kết hợp
lại có sức đề kháng và năng lực để thực hiện những công việc lớn lao và khó
khăn hơn là khi chia rẽ phân tán. Vậy tất cả đều dựa trên kinh nghiệm về
việc họ đã liên kết với nhau để phụng sự Chúa, họ thấy đó là một ân huệ lớn lao
của Thiên Chúa và là một điều đem lại hoa trái dồi dào cho việc tông đồ, vì thế
họ quyết định phải duy trì sự gắn bó với nhau.
Nhưng ở đây biên bản cũng có một sự dè dặt để khỏi bị hiểu lầm:
trong tất cả những điều vừa trình bày hay sẽ trình bày, phải hiểu cho
đúng. “Chúng tôi hoàn toàn không đưa
ra điều gì do sáng kiến riêng hoặc do ý riêng của chúng tôi, nhưng chỉ
đưa ra những gì mà Chúa soi sáng và Tòa Thánh phê chuẩn, dù kết quả ra sao đi nữa”.
Câu cuối cùng này quan trọng,
“dù kết quả ra sao đi nữa” có nghĩa là họ sẵn sàng chấp nhận điều gì Chúa soi
sáng và Tòa Thánh phê chuẩn. Điều họ nói Chúa soi sáng cho họ thì có thể
chủ quan, nhưng có một tiêu chuẩn khách quan là Tòa Thánh phê chuẩn. Đó
là sự bình tâm hoàn toàn ở cấp độ cộng đoàn và họ ý thức rõ ràng họ không đưa
ra điều gì do sáng kiến riêng, hoặc ý riêng của họ, mà chỉ đưa ra những gì Chúa
soi sáng và Tòa Thánh phê chuẩn. Như vậy vấn đề thứ nhất, chúng ta thấy họ
giải quyết được khá nhanh và hoàn toàn đồng tâm nhất trí với nhau ở trong vấn đề
này, vì tất cả họ đã cảm nghiệm ân huệ đó, cảm nghiệm niềm an ủi thiêng liêng
trong cuộc sống, cùng nhau phụng sự Chúa, gắn bó với nhau trong tình bạn, trong
tình huynh đệ rất mật thiết. Phải đọc lại tất cả những trang sử của giai
đoạn đó thì mới hiểu được họ thân thiết với nhau, yêu thương nhau như thế nào.
Vậy sau khi giải quyết dứt khoát vấn
đề thứ nhất, chúng tôi đề cập đến một vấn đề khác khó hơn, cũng không kém phần
đòi hỏi phải suy nghĩ và xem xét.
Câu hỏi được đặt ra: Có cần tuyên khấn lời khấn thứ ba là
vâng phục một
người trong chúng tôi không? Lời khấn thứ ba là vâng phục, tức là thành một dòng tu.
Từ trước đến giờ họ chỉ có hai lời khấn: sống khiết tịnh trọn đời và sống
khó nghèo. Bây giờ thêm lời khấn thứ ba là vâng phục một người được bầu
làm Bề trên. Điều này cốt để hoàn thành ý Chúa trong mọi sự một cách thuần
khiết hơn, để ngợi khen Chúa hơn và được công phúc hơn. Biên bản ghi nhận:
“Sau khi đã mất nhiều ngày để cầu xin tha thiết và suy nghĩ tìm cách giải quyết vấn đề mà
không thấy được điều gì thỏa đáng, chúng tôi đã đặt hết hy vọng vào Chúa và bắt
đầu bàn luận với nhau xem có cách nào giải quyết được thỏa đáng hơn nỗi nghi ngờ
của chúng tôi”. Vậy có thể ví đây là hiện tượng mà thánh I-Nhã ở trong
Linh thao gọi là gặp
sầu khổ và thấy tối tăm mù mịt, không còn thấy đàng nào mà đi nữa.
Chúng ta thử xem lại nguyên tắc thánh I-Nhã nói phải xử sự thế
nào trong lúc gặp sầu khổ, thì sẽ hiểu được cách mà các bạn của ngài làm ở
đây. Thánh I-Nhã định nghĩa sự sầu khổ thiêng liêng là tất cả những gì
trái ngược với sự an ủi thiêng liêng, như sự tối tăm trong linh hồn, xao xuyến
bề trong, thúc đẩy về những gì thấp hèn và phàm tục.Ở nguyên tắc tiếp theo,
thánh I-Nhã nói về cách phải xử sự trong thời gian sầu khổ, đừng bao giờ thay đổi
nhưng hãy cương quyết bền vững trong những điều quyết định và dốc lòng đã có
trước khi bị sầu khổ hoặc trong điều dốc lòng đã có khi được an ủi trước đây.
Và nguyên tắc tiếp theo, trong cơn sầu khổ nếu như không nên thay đổi các
điều đã quyết định thì cũng rất nên cương quyết thay đổi chính mình để chống lại
cơn sầu khổ ấy, chẳng hạn bằng cách chăm chú cầu nguyện, suy gẫm, xét mình nhiều
hơn và gia tăng những sự hãm mình theo cách nào thích hợp hơn. “Trước
hết liệu có nên cùng nhau lui vào một
nơi tĩnh mạc và ở đó 30 hay 40 ngày mà lo việc suy gẫm, ăn chay và hãm mình để
được Thiên Chúa chấp nhận những ước nguyện của chúng tôi và đoái thương đặt chắc
chắn vào tâm trí chúng tôi một cách giải quyết vấn đề này. Hoặc 3 hay 4
người có nên thay mặt cho mọi người trong nhóm đến đó vì cùng một mục đích, hoặc
không ai phải đi đến nơi tĩnh mạc ấy nên chúng tôi có thể cứ ở lại Roma, nhưng
dành nửa ngày để chỉ lo việc của chúng tôi mà thôi. Như vậy việc suy gẫm
và cầu nguyện có thể được thực hiện một cách thuận lợi hơn và lâu giờ hơn, nửa
ngày còn lại chúng tôi vẫn sử dụng vào việc tông đồ quen thuộc là giảng dạy và
giải tội”.
Bây giờ họ tạm ngưng thảo luận về chính vấn
đề, mà thảo luận về phương pháp tiến hành. Về phương pháp tiến hành,
chúng ta thấy rõ ràng qua những lời vừa đọc, đó chính là áp dụng nguyên tắc phải
xử sự thế nào khi gặp sầu khổ. Vậy các bạn nghĩ bây giờ làm sao gia tăng
việc cầu nguyện và hãm mình. Có thể tất cả cùng nhau đi vào một nơi thanh
vắng theo như họ đã làm trước đó một lần tại Bắc Ý ngay sau khi chịu chức linh
mục. Vào năm 1537, họ đã chia thành nhóm hai, ba người đi đến một nơi
thanh vắng, rồi hằng ngày đến thị trấn nào đó xin ăn và rút vào nơi thanh vắng
mà suy gẫm, ăn chay, hãm mình. Có thể tất cả cùng đi. Hoặc ba, bốn
người đại diện đi theo cách đó. Hoặc không ai đi, tất cả cứ ở Roma, nhưng
sắp đặt lại cách tiến hành là dành nửa ngày lo riêng việc của nhóm và nửa ngày
tiếp tục làm công việc tông đồ quen làm là giảng dạy và giải tội. Cuộc
bàn cãi cũng ngã ngũ mau, bởi lẽ họ thấy được các lý do không nên nghĩ đến chuyện
rời bỏ Roma. Lúc này nhóm đã bắt đầu làm việc và đã được nhiều sự chú ý.
Nhưng cũng có nhiều người nghi ngờ họ bằng cách nói xấu thế này thế khác, hoặc
cho họ là nhóm cải cách hay là nhóm rối đạo. Do đó, họ thấy rằng cả nhóm
cần phải ở lại. “Vì hai lý do: một là để tránh những lời đàm tiếu
và gương xấu đối với
dân chúng là những người có thể xét đoán. Bởi vì con người vẫn có khuynh
hướng phát biểu một cách nhẹ dạ, cho rằng chúng tôi chạy trốn hoặc âm mưu điều
gì mới hoặc thiếu cương quyết hay bền vững trong công việc ban đầu của chúng
tôi”. Như vậy vì vấn
đề thanh danh của nhóm này là nhằm mưu ích cho các linh hồn, phục vụ Hội Thánh,
cho nên không đem ra bán rẻ hoặc đánh đổi được. “Hai là vì nhu cầu tông đồ
hiện thời rất nhiều, giải tội,giảng dạy, các việc thiêng liêng khác nhiều đến nỗi
dù nhóm chúng tôi có đông gấp bốn lần cũng không giải quyết hết”. Vậy
nhóm sử dụng con đường
thứ hai, tức là dành một nửa ngày cho việc cầu nguyện suy nghĩ và nửa ngày vẫn
tiếp tục công việc tông đồ quen thuộc. Nhưng phải xác định mục tiêu cho
việc dành một nửa ngày cho việc cầu nguyện, suy nghĩ đó. “Chúng tôi bắt đầu
thảo luận để tìm con đường đi tới giải đáp và đề nghị cho tất cả từng người thực
hiện được trong tâm hồn mình ba thái độ sau đây:
- Thái độ thứ nhất là mỗi người phải chuẩn bị và chăm lo
việc cầu nguyện, dâng thánh lễ và suy gẫm như thế nào để mọi nỗ lực của mình hướng
tới việc tìm thấy niềm vui và bình an trong Thánh Thần. Làm hết sức để
nghiêng chiều ý muốn của mình về vâng phục hơn là được quyền ra lệnh, nếu do đó
mà phát sinh vinh quang và lời ngợi khen Chúa như nhau. Cần giải thích
thêm là trong Linh thao, thánh I-Nhã nói đến ba bậc khiêm nhường. Bậc thứ
nhất vì yêu mến Chúa thì thà chết không phạm một tội trọng. Bậc thứ hai
vì yêu mến Chúa thì dù phạm một tội mọn để đổi cả thế gian cũng không đổi.
Và bậc thứ ba là yêu mến Chúa Giê-su khó nghèo, vác thập giá, chịu sỉ nhục đến
nỗi nếu như giữa hai đàng, hoặc là được vinh quang, hoặc là phải chịu sỉ nhục
mà cũng làm vinh danh Chúa như nhau, thì mình sẽ chọn chịu sỉ nhục, bởi vì nó
làm cho mình giống Chúa Giê-su là Đấng đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập
giá. Ở đây, thánh I-Nhã và các bạn cũng áp dụng bậc khiêm nhường thứ ba
đó vào mục này. Ngài nói rằng: vâng phục hay là không vâng phục, nếu
sống vâng phục trong dòng tu hay sống tự do theo ý mình mà cả hai đều đem lại
vinh quang Thiên Chúa và ngợi khen Chúa như nhau, thì mình sẽ chọn sự vâng phục.
- Thái độ thứ hai là mỗi người phải tìm kiếm ý Chúa và mỗi
người chịu trách nhiệm hoàn toàn, không ai ảnh hưởng trên ai, mỗi người đặt
mình dưới tầm ảnh hưởng của Thiên Chúa mà thôi, tức là mỗi người chỉ dựa vào cầu
nguyện, suy gẫm riêng để xem điều nào ích lợi hơn và như vậy để loại bỏ tất cả
những ảnh hưởng của người khác, không phải do Thánh Thần tác động trong tâm hồn.
- Thái độ thứ ba là để tạo sự khách quan, đây là áp dụng
cách thánh I-Nhã nói trong Linh thao: cách thứ hai để làm việc chọn lựa tốt
trong thời kỳ thứ ba là thời kỳ mỗi người phải bình tĩnh suy xét, thì ngài nói
rằng: tưởng tượng ra một người mà tôi chưa bao giờ gặp và cũng chẳng quen
biết với lòng ước ao cho họ được hoàn thiện toàn vẹn, suy xét điều tôi sẽ mách
họ làm và lựa chọn để sáng danh Thiên Chúa, Chúa chúng ta, hơn cả và làm cho
linh hồn họ nên trọn lành hơn, rồi tôi cũng làm như vậy, tuân theo quy tắc tôi
đặt cho người khác. Thánh I-Nhã và các bạn áp dụng điều đó cho tập thể của
mình. Mỗi người phải tự coi mình như một kẻ xa lạ đối với nhóm và như thể
không bao giờ được nhận vào nhóm này. Nhìn vấn đề như thế thì không một
tình cảm nào làm cho họ nghĩ và phán đoán thiên về một bên nào, nhưng có thể
nói là với tư cách một người ngoài cuộc, người ấy sẽ tự do bộc lộ ý kiến của
mình về kế hoạch vâng phục hay không vâng phục. Cuối cùng, lấy sự phán
đoán của mình để xác nhận và chấp thuận phía nào mình thấy sẽ phục vụ Thiên
Chúa hơn và bảo đảm hơn cho sự duy trì đoàn lâu dài. Ở đây đặt vấn đề là
nên khấn lời khấn vâng phục hay không, và tiêu chuẩn duy nhất nhằm để chọn khấn
hay không khấn.
Sau một thời gian gia tăng việc cầu nguyện, hãm mình vì mục đích
đã định để đạt được ba thái độ trên, các bạn bắt đầu đi vào việc nhận định.
Họ hẹn ngày gặp nhau để mỗi người phát biểu những vấn nạn có thể đưa ra nghịch
với sự vâng phục.
Trong phương pháp thứ nhất
để làm việc lựa chọn trong Linh thao, thánh I-Nhã nói điểm thứ bốn là “suy xét
xem sự được chức vụ hay bổng lộc nói trên đây sẽ sinh thuận tiện và ích lợi
cho tôi bao nhiêu. Ngược lại, cũng theo cách thức ấy, suy xét những bất
tiện và nguy hiểm bởi sự được chức vụ hay bổng lộc. Trong phần thứ hai
cũng làm như vậy, nghĩa là xét những thuận tiện và ích lợi hoặc những bất tiện
và nguy hiểm bởi sự không được điều ấy”. Vận dụng vàotrường hợp
này, giai đoạn thứ nhất các bạn bắt đầu bằng việc đưa ra những vấn nạn chống lại
việc khấn vâng phục và trở thành một dòng tu. Tất cả mọi lý do mỗi người
đã khám phá ra trong suy nghĩ và cầu nguyện được lần lượt trình bày theo cách
tiến hành cũng như lần trước. Biên bản kể lại một số lý do đã được đưa
ra, chẳng hạn người thì nói tốt nhất đừng khấn vâng lời, đừng trở thành một
dòng tu, vì khi nói tới danh từ dòng tu, vâng phục, đối với dân Ki-tô hữu không
còn giá trị, bởi thực trạng sa sút của đời tu lúc đó ở nhiều nơi làm cho người
giáo dân khi nhìn thấy một người mặc áo dòng hay một linh mục thì không còn
kính trọng quý mến như trước và như vậy không có lợi gì cho việc phụng sự Thiên
Chúa. Người khác đưa ra một lý do khác, nếu chúng ta muốn sống vâng phục,
có lẽ chúng ta sẽ bị Đức Giáo Hoàng bắt phải sống theo một luật dòng nào đã có
sẵn và chúng ta chẳng còn phương thế để làm việc cứu rỗi các linh hồn. Như vậy
mọi ước vọng của chúng ta hỏng hết, mà chúng ta có đủ lý do tin rằng những ước
vọng đó đã được Thiên Chúa, Chúa chúng ta chấp thuận. Để thấy rằng điều họ lo sợ
ở đây không phải là sợ hão, chúng ta nói trước một chút hồi kết: khi đã
quyết định khấn vâng phục và xin trở thành một dòng tu, thì nhóm giao cho thánh
I-Nhã và một vài bạn soạn bản đề cương hay gọi là thể thức sống (sau gọi là định
thức) của dòng mới thành lập và đưa lên Đức Giáo Hoàng duyệt. Đức Giáo
Hoàng đọc xong là muốn duyệt liền. Nhưng khi chuyển sang Thánh bộ dòng tu
để làm văn kiện chính thức phê chuẩn, lúc đó lại bị chống đối, bởi vì người ta
viện lý do đã có sắc lệnh của một Công Đồng từ thế kỷ 13 nói không nên cho lập
thêm dòng tu mới, mà chỉ có bốn luật dòng đã được nhìn nhận lúc bấy giờ, ai muốn
tu thì theo những luật dòng đó thôi.
Khó khăn thứ ba rất thực tế là nếu thành một dòng tu thì sẽ có
ít người gia nhập vì phải lệ thuộc vào một Bề trên và khuôn khổ của luật dòng,
trong khi đó họ muốn trở thành những người nhiệt thành, muốn có nhiều người
cùng chí hướng với họ để phụng sự Chúa, để làm việc trong vườn nho Chúa.
Giai đoạn thứ hai là mỗi người lần lượt trình bày kết quả suy
nghĩ của mình, tức là nêu lên những lợi ích của sự vâng phục. Nếu khấn
vâng phục, nếu thành một dòng tu thì sẽ được những ích lợi nào. Mỗi người
mỗi cách. Trong biên bản đưa ra mấy thí dụ thôi. Có người đặt vấn đề:
“giả thử nhóm chúng ta được trao phó một công việc tông đồ mà không có sự trợ
giúp của tinh thần vâng phục thì chẳng ai sẽ thực sự chịu trách nhiệm, mỗi người
sẽ đẩy gánh nặng cho người khác như chúng ta đã có kinh nghiệm nhiều lần về việc
ấy. Thêm nữa, nếu không có quyền bính trong nhóm thì nhóm không thể tồn tại
lâu dài như ý hướng ban đầu đã đặt ra”. Sau khi từng người trình bày xong
những thuận lợi và bất lợi, tiếp đến giai đoạn thảo luận cân nhắc vấn đề.
Đây là điểm thứ năm trong cách lựa chọn thứ nhất mà thánh I-Nhã trình bày trong
Linh thao là sau khi đã suy nghĩ, cân nhắc về mọi khía cạnh và xem lý trí
nghiêng về phía nào thì lựa chọn theo phía đó, chứ không theo sự thúc đẩy của
tình cảm.
Qua quá trình cân nhắc và xem xét các lý do đã được nêu lên, lợi
cũng như bất lợi, thì dần dần các bạn đã đi đến được kết luận “Cuối cùng nhờ Chúa ban ơn giúp sức,
chúng tôi đã đạt được kết luận không phải là theo đa số phiếu nhưng là sự nhất
trí tuyệt đối. Chúng tôi vâng phục một người trong anh em, đó là điều rất
đáng chọn và rất cần thiết cho chúng tôi”. Vì ước muốn ban đầu của các bạn
là hoàn thành ý Chúa
trong mọi sự để phụng sự Chúa, phục vụ Hội Thánh vì họ thấy rằng nhờ lời khấn
vâng phục và trở thành một dòng tu, họ sẽ có thể thực hiện tốt hơn và chính xác
hơn. “Đồng thời cũng bảo đảm
hơn việc duy trì đoàn và sau hết chúng tôi có thể lo liệu khôn khéo hơn cho từng
chi tiết của việc thường ngày về những mặt thiêng liêng cũng như thế tục”.
Đoạn cuối của biên bản cho chúng ta thấy: họ hoàn toàn nhất
trí với nhau đi đến quyết định về hai điểm chính, là chọn khấn vâng phục và trở
thành dòng tu. Nhưng sau đó họ còn phải tiếp tục bàn luận những vấn đề
khác cụ thể và chi tiết hơn, tức là hình thành dòng mới này như thế nào?
Vậy họ vẫn cứ theo phương pháp đưa ra ý kiến thuận hoặc chống, rồi cân nhắc chọn
lựa trong suốt thời gian gần ba tháng trời, từ giữa mùa Chay cho đến lễ thánh
Gio-an Tẩy Giả, họ cùng nhau nhận định cộng đoàn, đặt ra từng điểm. Nhưng
ở những điểm sau đó thì họ không tìm sự nhất trí tuyệt đối nữa, mà họ bằng lòng
với quyết định của đa số phiếu trong niềm vui và sự hòa hợp hoàn toàn của tâm hồn
anh em. Đây là sự cần thiết nhất trong cộng đoàn tu sĩ của chúng
ta. Nếu một cộng đoàn không có sự hòa hợp tâm hồn thì khó mà tránh được
những rạn nứt. Nhưng trước khi kết thúc, biên bản cũng nói rằng:
“Đi trước sự bàn định dứt khoát này, không thiếu
những buổi canh thức cầu nguyện và những hy sinh, hãm mình”. Tóm lại, họ
đặt những phương thế siêu nhiên lên trên. Khi nhận định ở cấp cộng
đoàn, sự từ bỏ ý kiến riêng của mình cũng phải được đặt ra một cách dứt khoát.
Mỗi người và toàn thể cộng đoàn phải hoàn toàn sẵn sàng đón nhận điều
Chúa sẽ thôi thúc là điều thích hợp nhất. Mỗi người phải sẵn sàng chấp nhận
quyết định cuối cùng, vì không phải là lúc nào cũng có thể đạt được tới sự nhất
trí tuyệt đối. Có lúc phải quyết định bằng đa số. Nhưng thông qua
việc cùng nhau nhận định thì lúc đó mọi người sẽ dễ dàng tuân phục hơn.
Và dĩ nhiên trong trường hợp này cũng đừng quên ý kiến của thiểu số cũng quan
trọng, bởi vì nó sẽ làm cho quyết định chung được cân nhắc kỹ lưỡng hơn.
Phải làm sao để dù quyết định theo đa số nhưng mọi người đều đạt được niềm vui
và sự hòa hợp hoàn toàn. Sau khi đã quyết định, những người đưa ra ý kiến
thiểu số tất nhiên phải từ bỏ ý riêng để chấp nhận ý kiến chung.
Ở trên chúng ta đã phân tích biên bản nhận định cộng đoàn của
thánh I-Nhã và chín người bạn vào mùa Xuân 1539 đi đến quyết định thành lập
Dòng Chúa Giê-su. Sau đây chúng ta tóm tắt lại những yếu tố rút ra được từ
kinh nghiệm của thánh I-Nhã và chín người bạn. Chúng ta thử phác họa ra một
sơ đồ tiến hành một cuộc nhận định cộng đoàn để đi tới điều mà trong bản báo
cáo nói là “cùng nhau đón
nhận ý kiến chính đáng nhất và coi đó như quyết định chung của cộng đoàn để rồi
mọi người tuân theo”. Trước khi đi vào việc rút tỉa kinh nghiệm này, chúng ta cần
bổ sung một điểm nữa. Trong phần phân tích chúng ta chưa đề cập đến, tức
là trong phương pháp làm việc chọn lựa trong Linh thao gồm sáu điểm, thánh
I-Nhã có nói trong điểm thứ sáu rằng: “Khi đã làm xong việc lựa chọn hay
quyết định ấy,
người đã lựa chọn phải mau mắn đi cầu nguyện trước mặt Thiên Chúa, Chúa chúng
ta, và dâng cho Người lựa chọn đó, để Chúa chí tôn đoái nhận và xác chuẩn cho nếu
điều ấy giúp phụng sự và ngợi khen Người hơn”. Đây là xin sự xác chuẩn của
Chúa, mặc dù suốt tiến
trình đã cầu xin và suy nghĩ trước mặt Chúa để cho mình được đón nhận ánh sáng
của Chúa. Nhưng sau khi đã thấy rõ rồi thì một lần nữa lại cầu nguyện, vừa
tạ ơn, vừa dâng chính điều mình đã quyết định đó cho Chúa, để xin Chúa cho mình
cảm nghiệm được một sự bình an, một niềm an ủi, hân hoan nào đó như là dấu chứng
Chúa chấp nhận lựa chọn của mình.
Vậy trong câu kết của biên bản cuộc nhận định, chúng ta thấy nói
rằng: “Hôm ấy mọi sự đã kết thúc dứt khoát
trong niềm vui và sự hòa hợp hoàn toàn của tâm hồn anh em”. Niềm vui và sự hòa hợp
hoàn toàn của tâm hồn anh em ở đây chính là ơn an ủi Chúa ban để xác chuẩn chọn
lựa của nhóm, vì chúng ta biết rằng trước đó nhóm đã ở trong một tình trạng khó
khăn như thế nào. Họ mò mẫm mà chẳng tìm ra một giải đáp nào, giống như một
tâm hồn ở trong tình trạng sầu khổ thiêng liêng, cảm thấy khô khan, nguội lạnh,
tối tăm, không còn hứng thú gì, không còn biết đường nào mà đi. Trước đây
tuy rằng họ xác tín về ơn gọi chung của họ, nhưng khi bàn đến vấn đề cụ thể, về
phương thức sống, thì ý kiến họ rất khác biệt nhau. Nhưng bây giờ họ đã đạt
được sự đồng tâm nhất trí và được niềm hân hoan, sự hòa hợp hoàn toàn các tâm hồn.
Tuy bản báo cáo không nói rằng anh em đã kết thúc bằng cầu nguyện như thế
nào, nhưng điều đó đương nhiên chúng ta phải hiểu thôi, vì đối với thánh I-Nhã
và nhóm bạn này là những người rất nhuần nhuyễn với phương pháp Linh thao nên
không thể nào họ bỏ qua điểm thứ sáu đó được.
Riêng thánh I-Nhã sau này trong tất cả những quyết định mà ngài
phải đi tới trong công việc soạn thảo nội quy của Dòng thì ngài luôn luôn dựa
vào sự nhận định theo những an ủi và sầu khổ trong khi ngài cầu nguyện và dâng
thánh lễ. Ngài dâng tất cả điều ngài phải quyết định và phải cân nhắc trước
mặt Chúa. Chính những ơn an ủi Chúa ban đã giúp cho ngài chọn lựa, chọn lựa
xong ngài lại dâng cho Chúa và thường là ngài được an ủi nhiều thì ngài thấy đó
là dấu Chúa chuẩn nhận điều ngài đã quyết định.
Như vậy chúng ta thấy trong cuộc nhận định cộng đoàn này, thánh
I-Nhã và các bạn đã vận dụng đầy đủ phương pháp của thánh I-Nhã trong Linh thao
về cách thức nhận định và chọn lựa. Trong Linh thao thì phương pháp soạn
để giúp cho chọn lựa cá nhân. Còn trong thực tế của cuộc thảo luận mùa
Xuân 1539 thì họ áp dụng ở cấp cộng đoàn. Chúng ta cũng đã thấy cách họ
thích ứng những điều soạn cho cá nhân vào hoạt động nhận định chung cả một cộng
đoàn mười người như thế nào. Và ở đó cũng đã có kinh nghiệm để đối phó với
sầu khổ cũng như đã áp dụng cả cách lựa chọn thứ hai của thánh I-Nhã, tức là gồm
bốn quy tắc, tuy ở đây chỉ vận dụng quy tắc thứ hai tức là để tìm được sự khách
quan thì đặt mình ở trong tư thế là một người ở ngoài, không liên hệ gì tới
nhóm để có thể bộc lộ ý nghĩ của mình cách khách quan hơn.
Bây giờ chúng ta thử lược tóm lại những bước đường phải đi như
thế nào để thực hiện được một cuộc nhận định cộng đoàn. Chúng ta có thể
đi từ sự chuẩn bị, trước hết phải có ba điều kiện:
- Điều kiện thứ nhất là cộng đoàn phải thấy mình có vấn đề
cần cùng nhau giải quyết, bởi nếu không thì chẳng ai muốn ngồi vào mà suy nghĩ,
cầu nguyện hay thảo luận làm gì.
- Điều kiện thứ hai là cộng đoàn phải có sự đồng ý về mục
đích chung mà mọi người phải nhắm tới, nếu không cuộc thảo luận sẽ không đạt kết
quả.
- Điều kiện thứ ba là các ý kiến chỉ khác nhau về phương
thế cần sử dụng thôi, còn ai nấy phải có quyết tâm tìm ra con đường đưa tới
đích.
Đó là ba điều tiên quyết đã xuất hiện rõ ràng ngay ở phần đầu của
bản báo cáo. Tuy ba điều kiện đó là tiên quyết, nhưng còn vấn đề khác
cũng phải nói là tiên quyết tức là thái độ chung của cộng đoàn. Trong
phương pháp nhận định và chọn lựa cá nhân, điểm thứ nhất thánh I-Nhã nói là phải
đặt mình trước vấn đề phải chọn lựa. Nhưng vấn đề thứ hai là phải đặt
mình trong trạng thái bình tâm, không có một quyến luyến lệch lạc nào.
Theo quan niệm của thánh I-Nhã, bình tâm không có nghĩa là dửng dưng. Sở
dĩ chúng tôi phải dịch chữ đó là “bình tâm” bởi vì chữ đó trong ngôn ngữ Âu
Tây, trước thánh I-Nhã cũng không có nghĩa như là thánh I-Nhã dành cho nó đâu.
Chữ “bình tâm” của thánh I-Nhã không phải là sự dửng dưng, nhưng là thái
độ của một con người đã hoàn toàn đứng về phía Thiên Chúa, cho nên đối với tất
cả mọi thọ tạo thì con người ấy không bị cái gì lôi kéo hết, nhưng chỉ tìm điều
duy nhất là làm vinh danh Chúa và mưu ích cho các linh hồn nhiều hơn, nhờ đó mà
được tự do đối với tất cả mọi thọ tạo, mọi phương thế. Sự tự do này là thứ
tự do nội tâm, chỉ gắn bó với kế hoạch của Thiên Chúa. Khi ứng dụng điều
này vào một cuộc nhận định cộng đoàn thì phải thể hiện được sự tự do đó.
Chúng ta thấy trong bản báo cáo này các bạn chứng tỏ rằng họ có
được sự tự do đó. Họ gắn bó hoàn toàn với kế hoạch phổ quát của Thiên
Chúa và với ơn gọi mà Thiên Chúa đã ban cho cộng đoàn. Đối với từng thành
viên tham dự cuộc nhận định cộng đoàn thì tất nhiên mỗi người đều được mời gọi
đích danh với tất cả hiện tại và ân sủng mà họ đã lãnh nhận để thể hiện kế hoạch
chung của Thiên Chúa. Mỗi người được cộng đoàn chấp nhận như hiện tại của
họ đang có. Do đó, đòi hỏi cộng đoàn phải làm sao vượt qua được những
nghi kỵ, những thành kiến để chấp nhận mỗi thành viên của mình. Khi chúng
ta tự bộc lộ mình trước cộng đoàn, thì chúng ta dễ có mối âu lo và sự thiếu an
toàn vì sợ mình bị chê cười, bị xét đoán. Chúng ta cũng bị thúc đẩy bởi ước
ao tự nhiên là muốn được quý chuộng và yêu mến. Cho nên sự tự do ở đây
không những chỉ là đối với đối tượng của sự nhận định, mà còn là ngay thái độ đối
với nhau. Phải thoát khỏi mọi thành kiến nghi kỵ để chấp nhận nhau, tôn
trọng nhau. Nhận ra mỗi người đều được Chúa mời gọi và tất cả những thành
viên của cộng đoàn đều được Chúa mời gọi ngồi lại với nhau trong cùng một ơn gọi
của cộng đoàn dòng tu.
Chính sự quý trọng nhau trước mặt Chúa làm cho các thành viên
khám phá ra cách Chúa Thánh Thần dẫn đưa mỗi người. Nhóm mười người bạn
mà chúng ta nói đến ở đây thì ngay từ đầu bản báo cáo đã nhấn mạnh rằng họ là
những người thuộc quốc tịch khác nhau và tính tình thật là khác nhau.
Nhưng họ ý thức rằng tất cả đã được mời tham dự cùng một ơn gọi, nên họ tôn trọng
nhau, chấp nhận nhau, để cho mỗi người được hoàn toàn tự do phát biểu và lắng
nghe nhau. Không ai thành kiến với ai, không phân biệt tuổi tác, không
phân biệt trình độ. Tất cả đều được tự do phát biểu, vì tất cả đều được
Chúa Thánh Thần tác động. Từ đó chúng ta thấy thái độ bộc lộ của mỗi người
phải là trung thực với mình và với mọi người, tức là phải được phát biểu trong
một tư thế hoàn toàn thư giãn, phát biểu cách đơn giản, tránh những phát biểu
phức tạp và phải bình tĩnh. Phải được tạo điều kiện để có thái độ phát biểu
bình thản, bởi vì lúc đó có cảm thấy mình được ai nấy lắng nghe, người phát biểu
mới khỏi bị lúng túng. Vậy có thể nói đây là chỗ để rèn luyện tình huynh
đệ sâu xa và chân thành, chấp nhận nhau hoàn toàn trước mặt Chúa để có thể lắng
nghe nhau.
Nhưng muốn được thế, mỗi người cũng phải chấp nhận bị thử thách
nhằm đạt tới sự hài hòa với mọi người, chấp nhận mình bị lộ chân tướng, bị đối
kháng, bị đặt thành vấn đề, cả tới mức cảm thấy mình bị tấn công và
thương tích. Vì đây là một cuộc nhận định cộng đoàn, nên đã gọi là nhận định
cộng đoàn thì mỗi người phải đóng góp với tất cả những gì Chúa cho mình, đem tất
cả con người của mình đến trước mặt Chúa trong trách nhiệm đối với cộng đoàn và
bộc lộ cho cộng đoàn tất cả những gì mình cảm nghiệm thấy như Chúa tác động nơi
mình. Qua đó, tất nhiên phải bộc lộ cả con người thật của mình, điều này
đòi một sự khiêm tốn ở phía mỗi thành viên của cộng đoàn. Tất cả các
thành viên đều phải lắng nghe Chúa Thánh Thần dạy bảo, bởi vì đã gọi là nhận định
thiêng liêng tức là nhận định theo sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần và chính Chúa
Thánh Thần sẽ dẫn chúng ta tới sự hiệp nhất ngang qua những khác biệt cá
nhân. Bởi lẽ Chúa Thánh Thần là nguồn duy nhất của mọi đoàn sủng nhằm thể
hiện kế hoạch chung của Thiên Chúa. Mỗi cộng đoàn dòng tu có một ơn riêng
là đặc sủng của dòng đó, cho nên trong việc nhận định cộng đoàn chính là Thánh
Thần hướng dẫn chúng ta thể hiện ơn Người đã ban, nên ai nấy đều phải lắng nghe
Chúa Thánh Thần.
Như vậy, chúng ta thấy đòi hỏi căn bản là mỗi cá nhân cũng như
toàn thể cộng đoàn phải đạt được sự tự do nội tâm, không để điều gì lôi kéo
mình, không để thành kiến nào chi phối mình. Sự tự do này là thành quả của
lòng khao khát muốn tìm biết ý Chúa. Muốn thành công trong việc tìm biết ý Chúa
thì lại đòi phải có lòng khao khát tìm biết ý Người. “Ai tìm sẽ thấy, ai
gõ cửa sẽ được mở cho” (Lc 11:10). Nếu mỗi người không có sự khao khát
tìm biết ý Chúa thì sẽ chẳng thể nào đem hết lòng đi tìm ý Chúa. Muốn hết
lòng đi tìm ý Chúa phải có sự sẵn sàng làm theo điều mình tìm thấy. Tin
tưởng vào Chúa chưa đủ, còn phải tin tưởng vào sự chân thành của các thành viên
trong cuộc nhận định đó. Bởi vì, nếu không tôn trọng tự do, không tin ở sự
thành thật của nhau thì cũng không thể có một cuộc nhận định cộng đoàn.
Chúng ta thấy các lý do liên kết nhau như những mắt xích. Tin tưởng vào
Chúa thì tất nhiên cũng phải nhận thức rằng Thánh Thần của Chúa như gió muốn thổi
đâu thì thổi và thổi lúc nào thì thổi, cho nên cũng phải phó thác cho Chúa về vấn
đề thời gian, đừng nghĩ rằng Chúa sẽ cho mình thấy ngay lập tức, nhưng phải có
thời gian để mọi sự trở nên rõ ràng.
Sự tự do như đã nói là giữa các thành viên với nhau phải thoát
ra khỏi mọi thành kiến, mọi nghi ngờ, để chấp nhận nhau. Và trong khi thảo
luận đòi hỏi mỗi người luôn luôn kiểm điểm chính mình, kiểm điểm những thái độ,
kiểm điểm chính việc cầu nguyện của mình để giữ cho tâm hồn mình tự do mà không
buông theo những xung động nhất thời. Trong khi chúng ta suy nghĩ, chúng
ta nghe ý kiến người khác thì chúng ta phải giữ được sự tự do trong tâm hồn.
Có thể nói đó là những thái độ nền tảng vì nếu thiếu sự tự do nội tâm, thiếu sự
chấp nhận nhau, thiếu sự lắng nghe nhau, thì không thể có nhận định cộng đoàn.
Đã gọi là nhận định cộng đoàn thì không có thể loại trừ nhau được.
Một cộng đoàn không thể có nhận định cộng đoàn nếu mỗi người chỉ muốn người
khác là đàn cừu để mình dẫn dắt. Ngược lại, cộng đoàn cũng không thể cùng
nhau nhận định nếu một số thành viên vẫn cảm thấy rằng nhận định làm chi, điều
gì rồi Bề trên cũng quyết định hết, nhận định cho có hình thức thôi. Nếu
trong cộng đoàn còn sống với cảm tưởng đó, thì cũng không thể có nhận định cộng
đoàn. Tóm lại, phải làm sao tạo được một bầu khí thật sự huynh đệ, yêu
thương, kết hợp trong Chúa, tin tưởng nhau thì mới có thể là một cuộc nhận định
cộng đoàn.
Sau đây chúng ta nói đến việc chuẩn bị đặt vấn đề. Câu hỏi
được đặt ra dưới hình thức đưa đến việc chọn điều này hay điều kia, tức là câu
hỏi phải được đặt ra rõ ràng, chọn một trong hai. Và câu hỏi cũng phải được
đặt ra trong một ngôn ngữ của tự do, không có bắt buộc, tức là có nên chọn điều
này hơn điều kia chăng. Bởi vì nếu nói điều này chứ không phải điều kia,
thì lúc đó đặt người ta dưới một áp lực tinh thần rồi. Như thánh I-Nhã
nói trong những điều chúng ta có thể chọn lựa là những điều hoặc không tốt
không xấu, hoặc là tốt, thì về phương diện đời sống cộng đoàn cũng vậy, làm sao
để việc chọn lựa thực sự khách quan, có thể chọn phía này hoặc phía kia.
Nếu câu hỏi đặt ra làm cho các thành viên bắt buộc phải chọn phía này hoặc phía
kia, thì khỏi cần phải nhận định cộng đoàn nữa. Vậy cần phải so sánh nên
chọn bên nào hơn và câu hỏi phải có ba điều kiện:
- Phải chính xác như là các bạn của thánh I-Nhã đã đặt ra ở
đây.
- Phải được mọi người hiểu cho đúng, bởi vì nếu tất cả mọi
người không cùng hiểu câu hỏi hay vấn đề như nhau thì cuộc thảo luận cũng sớm
đi đến chỗ ông nói gà bà nói vịt.
- Câu hỏi phải thuộc về việc nhận định thiêng liêng, tức
là nó không dửng dưng với công trình của Thiên Chúa trên thế giới.
Trong quá trình nhận định có những lúc phải vận dụng những quy tắc
phân biệt thần loại trong Linh thao, cụ thể là các bạn đã áp dụng những quy tắc
để đối phó trong trường hợp gặp sầu khổ thiêng liêng, gặp tối tăm thử
thách. Vậy trong phần chuẩn bị, sau khi đặt được câu hỏi rõ ràng cũng cần
phải thâu thập các dữ kiện, nhất là đối với việc canh tân thích nghi đời
tu. Những dữ kiện chúng ta phải thâu thập có thể là những gì người ta gọi
là dấu chỉ của thời đại, nhờ đó chúng ta biết được nhu cầu của con người thời
nay là gì, họ khát vọng gì, chờ đợi gì. Và vấn đề chúng ta đặt ra có liên
quan gì với họ. Chẳng hạn như một cộng đoàn dòng tu muốn đặt lại vấn đề
phải phục vụ họ đạo như thế nào, nên phục vụ theo hướng trước kia, chủ yếu là
coi phòng thánh, giúp hội đoàn hay có một hướng nào mới mà mình nhận ra được từ
nhu cầu cụ thể của địa phương đó. Khi đã tìm hiểu nhu cầu của họ, ta đem
đối chiếu với ơn gọi của ta, rồi phải đặt vấn đề vào bối cảnh ơn cứu độ phổ
quát, tức là cốt làm sao để phục vụ tốt hơn cho kế hoạch của Thiên Chúa.
Như vậy không chỉ là tìm kiếm những dữ kiện bên ngoài, mà còn phải
thông qua suy nghĩ, cầu nguyện, chiêm ngắm mầu nhiệm Nhập Thể và đường lối của
Chúa Giê-su, để đặt mình hoàn toàn vào bối cảnh của ơn cứu độ. Như chúng
ta thấy các bạn của thánh I-Nhã đặt vấn đề làm sao để tìm hứng thú trong vâng
phục hơn là có quyền ra lệnh, và chúng ta đã phân tích rõ ràng mục đích sâu xa
để hướng tâm hồn về sự vâng phục chính là để nên giống Chúa Giê-su. Cũng
phải đặt vấn đề trong sự liên đới với lịch sử của cộng đoàn, vấn đề của cộng
đoàn nêu lên hôm nay phát sinh từ đâu, nó triển nở như thế nào để trở thành một
đề tài thảo luận. Điều này nghĩa là bao giờ cũng phải đặt trong viễn tượng
đặc sủng của dòng, ơn gọi của dòng. Ơn gọi của dòng là như thế nào và tại
sao bây giờ chúng ta phải đặt vấn đề này. Nếu khi đối chiếu với ơn gọi của
dòng, vấn đề đã bị loại trừ rồi thì khỏi cần phải đặt ra nữa. Chỉ có thể
nhận định cộng đoàn khi một vấn đề được đặt ra vẫn ở trong phạm vi phương thế để
thi hành ơn gọi của cộng đoàn thôi.
Sau khi đã chuẩn bị như thế, tức là chuẩn bị thái độ nội tâm,
thái độ đối với nhau trong cộng đoàn, thì lúc đó có thể chính thức tiến tới
giai đoạn nhận định. Chúng ta thấy trong giai đoạn nào cũng phải có cầu
nguyện, và trong giai đoạn chính thức của việc nhận định thì việc cầu nguyện lại
càng trở nên khẩn thiết hơn, bởi lẽ mỗi người chỉ phát biểu những gì mình đã cảm
nghiệm trong cầu nguyện thôi, những gì mình đã nhận định trước mặt Chúa trong cầu
nguyện, những gì mình thấy Chúa đánh động mình trong cầu nguyện. Phần này
chúng ta cũng dễ theo, bởi vì trong biên bản nói khá dài về cách thức nhận định:
Bước thứ nhất là tìm những lý do nghịch. Bước thứ hai là tìm những lý do
thuận. Bước thứ ba và thứ tư sẽ là suy nghĩ và liệt kê những bất lợi và
những thuận lợi... Chúng ta luôn luôn đặt ra hai con đường để chọn lựa mà
ở đây chúng ta gọi là A và B. Nếu chọn A hoặc nếu chọn B thì gặp những bất
lợi và những thuận lợi nào. Sau khi đưa hết các lý do đó ra, bây giờ đến bước
quan trọng là cân nhắc, phê phán, đánh giá những lý do đó, bởi vì không phải lý
do nào cũng đáng quan tâm. Khi đã đánh giá xong thì chỉ giữ lại những lý
do nào được coi là chính đáng. Việc cân nhắc xem xét các lý do đó sẽ dần
dần đưa người ta tới sự hoán cải nào đó về tư tưởng và trí tuệ.
Nhưng đây chính là lúc cần cầu nguyện và bầu khí bác ái để có thể
dám bộc lộ những chuyển động diễn ra trong tâm hồn mỗi người. Cuộc thảo
luận về các lý do đã được kể ra, bất lợi và lợi, nghịch và thuận, dần dần sẽ
làm cho cán cân nghiêng về bên nào đó tùy sự đánh động của Chúa. Luôn
luôn trong cuộc thảo luận mỗi tham dự viên phải giữ được sự bình tâm hoàn toàn
đối với việc chọn điều này hay điều kia. Bình tâm trong việc cùng nhau nhận
định có nghĩa là không muốn điều này hơn điều kia, bao lâu chưa cảm thấy vì
vinh danh Chúa và phải sẵn sàng nhận quyết định của cộng đoàn làm quyết định của
mình.
Như vậy, quyết định cuối cùng sẽ là quyết định của tình yêu đáp
lại tình yêu, sự chọn lựa nào cũng đòi từ bỏ, tức là có sự hy sinh đi kèm,
không thể bắt cá hai tay, và khi tôi nhận lấy quyết định của cộng đoàn thì có
cái gì đó ở trong tôi phải chết đi. Tôi chết đi cho cái tôi khi tôi phó
mình cho quyết định chung của cộng đoàn, dù quyết định đó là thế nào, hợp ý tôi
hay không hợp ý tôi thì tôi vẫn cứ vâng theo.
Đến đây chúng ta có thể cùng nhau suy nghĩ về một vài hình thức ứng
dụng của việc nhận định này. Trước tiên nói về phương pháp nhận định và lựa
chọn ở trong Linh thao thì dĩ nhiên là nó có thể áp dụng cho những người tìm hiểu
ơn gọi, những người đang được huấn luyện trong dòng để họ nhận định và chọn lựa
cho đúng với ơn gọi của họ mà không để cho một động lực nào không chính đáng
thúc đẩy họ. Đây là điều nhiều khi chúng ta không quan tâm đủ và có thể
là nguồn phát sinh ra những khó khăn cho cộng đoàn, tức là khi nhận một người,
điều chính yếu phải quan tâm trước tiên là xét đến động lực sâu xa nào thúc đẩy
người đó xin vào tu. Động lực đó có thực sự hướng về Thiên Chúa, về đời sống
tông đồ không? Nói cách khác là họ có thực sự bình tâm, nghĩa là họ chỉ
nhắm mục đích duy nhất là phụng sự Chúa, phục vụ Hội Thánh khi họ chọn đời tu
hay không. Việc này dĩ nhiên là đòi hỏi một quá trình thanh tẩy tâm hồn,
thanh tẩy những suy nghĩ của mỗi người, và mỗi người phải thành thật với chính
mình, trước mặt Chúa trong bầu khí tĩnh tâm. Nếu người ta sống hoàn toàn
trước mặt Chúa thì lúc đó người ta có thể đạt được mức bình tâm cần thiết để chọn
lựa cho chính đáng.
Việc ứng dụng nhận định cộng đoàn rất đa dạng và rất hữu ích, chẳng
hạn khi phải nhận định một đường hướng tông đồ nào đó phù hợp với ơn gọi của
dòng, nghĩa là cần thích nghi với thời đại bằng nhiều phương thế khác nhau,
nhưng luôn luôn trung thành với đặc sủng của dòng.
Như vậy chúng ta cũng có thể dùng việc nhận định cộng đoàn để tạo
nên sự hòa hợp giữa các tâm hồn. Bởi vì trong chính cuộc nhận định đó mỗi
người phải thoát ra khỏi chính mình để tập chấp nhận người khác, lắng nghe người
khác và tôn trọng người khác. Hãy thực hiện những điều chúng ta nói về một
cuộc nhận định cộng đoàn, thì chúng ta thấy sự hòa hợp các tâm hồn sẽ là kết quả
của tất cả những bước tiến đó. Việc chọn lựa cũng có thể đúng và cũng có
thể sai, nhưng nếu có vài thành viên trong cộng đoàn lại cho là sai và nhất định
bảo thủ ý kiến của mình thì sao? Trong trường hợp này, đòi hỏi mỗi người
phải có tự do đối với ý kiến phán đoán của chính mình, tìm ý Chúa bằng cách sẵn
sàng phê phán và chấp nhận để người khác phê phán những ý kiến của mình.
Khi đạt được thái độ tự do và tôn trọng nhau trong cộng đoàn, lúc đó mới có thể
trao đổi với nhau một cách thẳng thắn, nhưng không phải để tranh luận hơn thua.
Để đạt được sự tự do, sự cởi mở với Chúa Thánh Thần và với nhau thì trước
hết phải khao khát mãnh liệt trong cầu nguyện, khao khát được biết sự thật, được
hiểu và lớn lên trong sự thật mà không sợ hãi, cũng không mong muốn gì khác.
Phải bớt tin tưởng vào trí khôn của con người. Ngược lại,
đặt hết sự tin tưởng vào Chúa Thánh Thần là Đấng dẫn dắt chúng ta vào tất cả sự
thật mà chúng ta cần biết, lại phải đặt tin tưởng vào những thành viên khác
cũng dấn thân vào nỗ lực này, phải tin tưởng họ là những con người có thiện chí
tìm kiếm sự thật một cách lương thiện với sự cởi mở đối với Thánh Thần và đối với
người khác. Phải sẵn sàng lắng nghe và trình bày khiêm tốn, cởi mở, đơn
sơ. Phải thoát khỏi lòng ao ước muốn tỏ ra mình đúng, còn những người
khác sai, lại sẵn sàng vui mừng khi tìm ra được sự sai lầm của mình nếu người
khác đúng. Phải có sự tự do đối với những thành kiến trong mức độ mỗi người
có thể đạt được. Tiếp theo là phải tin tưởng rằng nếu các thành viên chuẩn
bị hết sức tốt thì Thánh Thần sẽ giúp họ soi sáng lẫn nhau, để mỗi người đều
cho và nhận được ánh sáng. Đó là sự chuẩn bị tâm hồn, chuẩn bị cho mối
tương quan với nhau. Điểm then chốt ở trong toàn bộ phương pháp “nhận định
cộng đoàn” khác với cách thức đối thoại, trong đó mỗi người lắng nghe nhưng
không bao giờ thực sự thử tìm cách chấp nhận và bảo vệ quan điểm khác với quan
điểm của mình. Nếu mỗi người cố gắng bênh vực quan điểm của người khác
thì dần dần tất cả mọi người thấy rõ hơn. Tục ngữ có câu: “Hãy chui
vào bộ da của người khác trước khi đòi người khác chui vào bộ da của mình”, tức
là hãy thử nhận lấy ý kiến của người khác trước khi đòi người khác nhận lấy ý
kiến của mình. Tại sao cứ đòi người khác phải theo ý kiến của tôi mà tôi
không cố gắng theo ý kiến của người khác. Để trao đổi có kết quả tốt phải
tránh những cuộc gặp gỡ dồn dập.
Như kinh nghiệm nhóm bạn của thánh I-Nhã đã làm là chia ra từng
cuộc gặp gỡ. Chẳng hạn trong cuộc gặp gỡ để nói lên những lý do bênh vực
quan điểm chọn việc khấn vâng phục và trở thành một dòng tu, những lý do phải
được ghi và đọc lại cho mọi người nghe. Sau đó mỗi người có thể bổ túc ý
kiến. Nhưng trong một buổi họp, mọi người đều cố gắng bênh vực cùng một
quan điểm. Sau khi kết thúc buổi họp đó, mọi người tiếp tục cầu nguyện,
suy nghĩ về những lý do, những giải thích đã đưa ra trong cuộc họp trước.
Sau đó lần lượt có những cuộc họp để nói về những quan điểm khác và bênh vực những
quan điểm đó. Nên chú ý trong những buổi họp này, phần bổ sung chỉ có giải
thích, không đưa ra những lý do bênh vực. Nếu không làm như vậy thì sẽ lại
khởi đầu một cuộc tranh cãi. Ở đây phải tránh tranh cãi, chỉ lắng nghe những
lý do. Trong các buổi họp cứ xen kẽ thời gian cầu nguyện, suy nghĩ, dần dần
các lý do đó sẽ quy kết với nhau trong tâm trí mỗi người, làm cho mỗi người
thay đổi dần dần và đi tới sự hòa hợp với nhau. Điểm then chốt nữa là tất
nhiên không nên quyết định bằng bỏ phiếu chọn quan điểm này hay quan điểm kia,
vì đây không phải vấn đề đi đến quyết định mà là đi đến sự hòa hợp với
nhau. Vậy mục đích chủ yếu là cố gắng hiểu quan điểm của nhau, thấy điều
hay, điều đúng của nhau và nhờ đó đi đến sự hòa hợp trong cộng đoàn. Còn
những quyết định nếu có gì sai thì dĩ nhiên phải sửa, không cần phải đặt vấn đề
gay gắt.
Đó là một hình thức áp dụng phương pháp nhận định cộng đoàn, được
coi là có thể hữu ích. Phương pháp này sẽ giúp các cộng đoàn của chúng
ta, nhất là những cộng đoàn chừng 5 – 7 người tạo được sự hòa hợp, một yếu tố
quan trọng cho hạnh phúc của cộng đoàn và phát sinh hiệu năng tông đồ của cộng
đoàn đó nữa.