YÊU CHO ĐẾN CÙNG
Một
cái nhìn mục vụ và giáo hội học về Độc thân Linh mục
Lm.
Ngô Quang Trung dịch theo bản tiếng Anh
Lời dẫn nhập: Thượng Hội đồng Giám mục
vùng Amazon diễn ra từ ngày 6-27 tháng Mười, 2019 tại Rôma. Chương trình nghị
sự bao gồm nhiều vấn đề mục vụ của riêng vùng Amazon, 9 quốc gia Nam Mỹ. Tuy
nhiên, thế giới đặc biệt chú ý đến vấn đề được các nghị phụ đem ra thảo luận
trong Thượng hội đồng này: việc phong chức linh mục cho những người đàn ông đã
có gia đình (viri probati), và phong chức phó tế cho phụ nữ (female deaconate).
Người ta tự hỏi Giáo hội Công giáo Latinh đã duy trì kỷ luật độc thân giáo sĩ
(mandatory celibacy) hàng ngàn năm qua, liệu có thay đổi gì qua Thượng hội đồng
này không? Hoặc Giáo hội có chút “miễn trừ” nào cho riêng vùng này không? Rất
nhiều người tham gia bàn luận và chờ đợi, không chỉ riêng giáo sĩ mà cả giáo
dân, không chỉ riêng người công giáo mà cả ngoài công giáo. Điều khá bất ngờ là
trong thời gian này người ta thấy xuất hiện hai cuốn sách của các đấng bậc đáng
kính trong Giáo hội nói về độc thân linh mục: cuốn “Friends of the
Bridegroom: For a Renewed Vision of Priestly Celibacy” (15, Tháng Mười, 2019) của ĐHY Marc Ouellet, Bộ
trưởng Bộ giám mục; và cuốn “Des
profondeurs de nos cœurs” (14 tháng
1, 2020) của ĐTC Bênêđictô XVI và ĐHY Robert Sarah, đương nhiệm Bộ Phụng tự và
Kỉ luật các Bí tích. Chưa biết nội dung sách nói gì, thì đã có khá nhiều phê
phán cho rằng các tác giả chủ ý dùng vị thế và uy tín của mình để tác động vào
quyết định sau cùng của Đức Thánh Cha Phanxicô về vấn đề lịch sử quan trọng
này. Ra đời trong bối cảnh như thế nên hai cuốn sách này được nhiều người quan
tâm, ngay cả hiện nay khi Thượng hội đồng giám mục đã kết thúc.
Riêng con, trong cảm nhận bé
nhỏ của mình, con nhận thấy khi lên tiếng bảo vệ truyền thống đáng kính của
Giáo hội thì tiếng nói của các ngài (các tác giả trong hai cuốn sách) rất mạnh
mẽ và cương quyết; còn trong vai trò là một mục tử dày dặn kinh nghiệm thiêng
liêng và hiểu biết thì tiếng nói của các ngài lại thật nhẹ nhàng tha thiết.
Trong ngày kỉ niệm Chúa lập Bí tích Truyền Chức, con mạo muội dịch một số trang
được nhiều người cho là cảm động nhất của ĐHY Sarah, để chia sẻ với đức cha và
quý cha, vừa để hội nhập với những vấn đề của Giáo hội hoàn vũ, trong đó những
tranh luận về độc thân linh mục chưa bao giờ giảm tính thời sự của nó từ sau
Công đồng Vatican II; và vừa để cùng nhau tạ ơn hồng ân linh mục.
***
YÊU
CHO ĐẾN CÙNG
Một cái nhìn mục vụ và giáo hội học về
Độc thân Linh mục
“Khi Chúa Giêsu biết rằng
giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha, Người vẫn yêu
thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Những lời
này của tác giả Tin mừng Gioan đã long trọng dẫn nhập lời cầu nguyện hiến tế
của Chúa Giêsu sau Bữa ăn tối cuối cùng vào Thứ Năm Tuần Thánh. Những lời này
thổ lộ những tâm tình sâu thẳm, thật là thích hợp cho bất kỳ suy tư nào về mầu
nhiệm chức linh mục.
Làm
sao chúng ta có thể tiếp cận chủ đề này mà không cảm thấy run rẩy? Điều quan
trọng là chúng ta cần dành thời giờ và mở cửa tâm hồn để đón nhận hơi thở của
Chúa Thánh Thần. Chức linh mục, theo lời của cha xứ Ars, là tình yêu của trái
tim Chúa Giêsu. Chúng ta không được biến nó thành một chủ đề chính trị, của
trận chiến ý thức hệ, hay sự vận động chính trị. Chúng ta cũng không thể thu
giảm nó vào vấn đề về kỷ luật hoặc sắp xếp mục vụ.
Trong
những tháng gần đây, chúng ta đã thấy xảy ra rất nhiều sự vội vàng, rất nhiều
sự phấn khích xung quanh Thượng hội đồng giám mục vùng Amazon. Trái tim giám
mục của tôi hết sức lo lắng. Tôi đã thấy nhiều linh mục bị mất phương hướng,
mất tinh thần và bị tổn thương trong sâu thẳm đời sống tinh thần của các ngài
bởi những thách thức quá mạnh đối với giáo thuyết của Giáo hội. Hôm nay tôi
muốn nói với các ngài một lần nữa rằng: Đừng sợ! Như Đức Bênêđictô XVI đã nhắc
lại:
Linh mục là một hồng ân của
Trái tim Chúa Kitô: một hồng ân cho Giáo hội và cho thế giới. Từ trái tim của
Con Thiên Chúa tràn ngập tình yêu, tuôn chảy tất cả những điều tốt đẹp của Giáo
hội. Đặc biệt cũng từ đó xuất phát ơn gọi của những người, được Chúa Giêsu
chiếm đoạt, sẵn sàng từ bỏ mọi sự một cách không do dự để phục vụ dân Kitô
giáo, theo mẫu gương người Mục tử Nhân Lành.[1]
Anh em linh mục thân mến, tôi
muốn nói với anh em một sự thật thẳng thắn. Có đôi khi anh em cảm thấy như bị
lạc lối, chán nản, và tràn ngập đau khổ. Một cảm giác tồi tệ của sự bị bỏ rơi
và cô đơn ghim chặt lấy tâm hồn anh em. Trong một thế giới đang bị xói mòn bởi
tình trạng bất tín và thờ ơ, người tông đồ không thể tránh khỏi đau khổ: một
linh mục rực cháy lửa đức tin và nhiệt tình tông đồ nhanh chóng nhận ra rằng
thế giới mà các ngài đang sống, có thể nói, đã bị đảo lộn. Tuy nhiên, mầu nhiệm
sâu thẳm trong tâm hồn có thể cho anh em sức mạnh để sống giữa thế gian. Và
luôn luôn, người phục vụ “chỉ một điều duy nhất cần thiết”, phải luôn cố gắng đặt
Chúa vào trọng tâm cuộc đời mình, điều này mang lại một chút ánh sáng soi chiếu
vào bóng tối.
Trong
chức linh mục, tính liên tục mang ý nghĩa bí tích của tình yêu người Mục tử Tốt
lành đang bị đe dọa. Vì vậy, tôi lên tiếng để mọi nơi trong Giáo hội, trong
tinh thần đồng trách nhiệm (synodality) thực sự, hãy cùng bình tĩnh suy tư và cầu nguyện về
thực tại thiêng liêng của bí tích Truyền Chức Thánh để có thể bắt đầu đổi mới.
Và tôi cầu mong những người ở cả hai bên: chúng ta đừng quá nóng vội! Chúng ta
không thể thay đổi mọi thứ trong một vài tháng. Trừ khi các quyết định của
chúng ta bắt nguồn từ sự suy chiêm lâu dài, còn không, nó sẽ có tương lai giống
như các khẩu hiệu và những bài phát biểu chính trị, sẽ mau chóng rơi vào quên
lãng.
Đức
Giáo hoàng danh dự Bênêđictô XVI đã tặng cho chúng ta một món quà rất đặc biệt,
một lectio
divina, trong đó ngài quay trở về các nguồn Kinh Thánh để trình
bày mầu nhiệm chức linh mục [2]. Đối với tôi, trong tinh thần khiêm tốn, tôi muốn
có một cái nhìn mục vụ về bí tích này.
Suy
tư mục vụ của chúng ta không được giới hạn vào các sự kiện hiện tại thuần túy
hoặc thu giảm thành một phân tích xã hội học. Người ta luôn cần phải nuôi dưỡng
các suy tư này trong chiêm niệm và cấu trúc nó thông qua thần học. Nhưng những
suy tư này cũng phải thật cụ thể. Thật vậy, tôi cũng đã nhận thấy rằng một số
người cảm thấy rất hài lòng trong việc vạch ra các nguyên tắc lý thuyết mà lại
không đặt trên cơ sở thực tế. Do đó, trong việc trình bày thần học về chức linh
mục, chỉ bàn riêng đến vấn đề độc thân là không đủ. Cũng thật cần thiết phải
tìm hiểu tương quan cụ thể với giáo hội học và mục vụ của vấn đề này.
Trong
thời gian Thượng hội đồng giám mục vùng Amazon, tôi đã dành thời gian để trực
tiếp lắng nghe mọi người cũng như nói chuyện với các nhà truyền giáo dày dặn
kinh nghiệm. Những cuộc trao đổi này đã giúp tôi xác tín rằng khả năng phong
chức cho những người đàn ông có gia đình sẽ là một thảm họa mục vụ, dẫn đến sự
hỗn loạn về giáo hội học và làm lu mờ sự hiểu biết của chúng ta về chức linh
mục. Hôm nay tôi muốn trình bày với anh em những suy tư của tôi xoay quanh ba
điểm liên quan đến vấn đề này.
Một
Thảm họa về Mục vụ
Chức
linh mục: cửa ngõ mang dấu ấn bản thể học đi vào lời “thưa vâng” của Chúa Kitô Thượng Tế
Chúng ta có thể tóm tắt những
suy tư của Đức giáo hoàng danh dự bằng một vài từ ngữ: Chúa Giêsu tỏ lộ cho
chúng ta trong con người của Ngài sự toàn vẹn của chức linh mục. Người ban cho
nó ý nghĩa đầy đủ đối với những gì đã được loan báo và phác họa một cách thô sơ
trong Cựu Ước. Trọng tâm của sự mặc khải này rất đơn giản: một linh mục không
hẳn chỉ là một người thực hiện nhiệm vụ dâng lễ. Nhưng ngài phải là một người
hiến dâng chính bản thân mình như một của lễ hy sinh bằng tình yêu, theo gương
Chúa Kitô. Do đó, Đức Bênêđictô XVI cho thấy rõ ràng và dứt khoát rằng chức
linh mục là một trạng thái của đời sống. “Một vị linh mục phải loại bỏ khỏi các
ràng buộc trần tục và được dâng hiến cho Thiên Chúa, và chính xác như vậy, để
khởi đi từ Thiên Chúa, ngài luôn sẵn sàng phục vụ tha nhân, cho mọi
người." [3] Độc thân
linh mục là sự thể hiện ý muốn đặt mình vào sự tùy thuộc Chúa và con người. Đức
Thánh Cha Bênêđictô XVI chứng minh rằng độc thân linh mục không phải là sự “bổ
sung thiêng liêng” vào trong cuộc đời linh mục. Đúng hơn, đời sống linh mục
đích thực, về mặt bản thể, đòi hỏi sự độc thân.
Đức
Bênêđictô XVI trong bản văn ở phần trước, cho thấy rằng sự chuyển vị từ chức tư
tế của Cựu Ước sang chức tư tế của Tân Ước, được mặc khải trong quá trình
chuyển hóa từ việc tiết chế tình dục mang ý nghĩa chức năng sang một sự tiết
chế mang ý nghĩa bản thể. Tôi nghĩ rằng chưa bao giờ có một giáo hoàng nào thể
hiện mạnh mẽ sự cần thiết của độc thân linh mục như thế. Chúng ta cần phải
nghiền ngẫm những suy tư của một người đang bước gần đến cuối đời. Vào giờ khắc
quyết định này, người ta không được xem nhẹ những lời nói đó. Đức Bênêđictô XVI
cũng nói với chúng ta rằng chức linh mục, bởi vì có liên quan đến hiến tế Thánh
Lễ, nên sự ràng buộc với dây hôn nhân là điều bất khả. Tôi muốn nhấn mạnh điểm
cuối cùng này. Đối với một linh mục, việc cử hành Bí tích Thánh Thể không chỉ
là thực hiện các nghi thức. Việc cử hành thánh lễ giả định rằng linh mục phải
kết hợp toàn vẹn con người mình vào với hi lễ tuyệt vời của Chúa Kitô dâng cho
Chúa Cha, vào lời thưa vâng trọn vẹn của Chúa Giêsu dâng lên Cha của Người: “Lạy Cha, con xin phó
thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Bây giờ độc thân là “một lời thưa vâng dứt
khoát”. Điều này có nghĩa là đặt bản thân mình vào trong bàn tay của Chúa, vào
trong tiếng “Con”…Đó là một tiếng thưa vâng dứt khoát.
Nếu
chúng ta thu giảm độc thân linh mục vào vấn về kỷ luật hoặc việc thích nghi với
phong tục và văn hóa, thì chúng ta đã cô lập chức linh mục khỏi nền tảng của
nó. Theo nghĩa này, độc thân linh mục là điều kiện thiết yếu để có thể hiểu
biết đúng đắn về chức linh mục. “Hơn nữa, một phần của chức linh mục, đích thực
là làm cho chính mình trở nên sẵn sàng cho Chúa, trong sự toàn vẹn của con
người mình, và do đó, nhận ra chính mình cũng hoàn toàn sẵn sàng phục vụ mọi
người, đàn ông cũng như phụ nữ. Tôi nghĩ rằng tình trạng độc thân là một diễn
tả trọn vẹn cho tính toàn vẹn này” [4], Đức
Bênêđictô XVI mạnh mẽ tuyên bố với hàng giáo sĩ của Giáo phận Bolzano, Ý.
Tính cách khẩn trương về mục
vụ và truyền giáo của đòi hỏi độc thân linh mục
Là một giám mục, tôi sợ rằng
kế hoạch phong chức linh mục cho những người đàn ông có gia đình có thể tạo ra
một thảm họa mục vụ. Nó sẽ là một thảm họa cho các tín hữu mà họ sẽ được sai
đến. Nó cũng sẽ là một thảm họa cho chính các linh mục.
Làm
thế nào một cộng đoàn Kitô hữu có thể hiểu được linh mục nếu họ không nhận thấy
rõ ràng ngài được tách biệt khỏi môi trường thông thường, và hoàn toàn thuộc về
Thiên Chúa? Làm thế nào các Kitô hữu có thể hiểu rằng linh mục được trao ban
cho họ nếu ngài không hoàn toàn được dâng hiến cho Chúa Cha? Nếu ngài không đi
vào mầu nhiệm hủy diệt của Chúa Giêsu: Kenosis, hủy mình ra không, hoàn toàn từ bỏ bản thân? “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ
phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn
trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ”
(Pl 2, 6-7). Người tự vét rỗng mình khỏi những gì vốn là, trong một hành động
tự do và tình yêu. Sự từ bỏ của Chúa Kitô dù phải chết trên Thánh Giá không chỉ
đơn thuần là một thái độ vâng lời, khiêm tốn. Đó là một hành động hoàn toàn từ
bỏ mình qua tình yêu, trong đó Chúa Con hoàn toàn hiến thân cho Chúa Cha và cho
nhân loại: đây là nền tảng của chức tư tế của Chúa Kitô. Vì thế, làm sao một
linh mục có thể giữ, duy trì và đòi hỏi quyền được liên kết với dây hôn nhân?
Làm thế nào ngài có thể từ bỏ để biến mình thành tôi tớ cho Chúa Giêsu linh mục?
Trọn vẹn dâng hiến cho Chúa Kitô là điều kiện để hoàn toàn phục vụ mọi người.
Ai không hoàn toàn hiến mình cho Thiên Chúa thì không thể phục vụ anh em mình
một cách hoàn hảo.
Một
số người phải sống tách biệt trong vùng sâu vùng xa, trong vùng truyền giáo
nghèo khổ sẽ có một hình ảnh nào về linh mục? Có phải chúng ta có ý định ngăn
cản họ khám phá sự trọn vẹn của chức tư tế Kitô giáo không? Đầu năm 1976, khi
còn là một linh mục trẻ, tôi đi thăm viếng mục vụ đến một số ngôi làng xa xôi ở
nước Guinea. Một số người trong họ đã không được một linh mục nào đến thăm
trong gần mười năm, bởi vì các nhà truyền giáo châu Âu đã bị Sékou Touré trục
xuất vào năm 1967. Tuy nhiên, các Kitô hữu vẫn tiếp tục dạy giáo lý cho trẻ em,
đọc kinh cầu nguyện hàng ngày và lần chuỗi Mân côi. Họ đã thể hiện lòng sùng
kính Đức Trinh Nữ Maria một cách tuyệt vời, và cùng họp nhau mỗi Chúa nhật để
lắng nghe Lời Chúa.
Tôi
đã có duyên may được gặp gỡ những người đàn ông và phụ nữ này, những người đã
sống đức tin mà không được bất kỳ sự trợ giúp bí tích nào, vì thiếu linh mục.
Họ được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa và giữ vững đức tin của họ qua việc cầu nguyện
hàng ngày. Tôi sẽ không bao giờ có thể quên được niềm vui không thể tưởng tượng
được của họ, khi tôi cử hành Thánh lễ, điều mà họ đã không được đón nhận trong
suốt một thời gian dài. Cho phép tôi tuyên bố một cách mạnh mẽ và chắc chắn
rằng: Tôi nghĩ nếu người ta đã phong chức cho những người đàn ông đã lập gia
đình ở mỗi làng, thì cơn đói Thánh Thể của tín hữu đã bị dập tắt từ lâu rồi.
Mọi người sẽ bị cắt đứt khỏi niềm vui to lớn khi đón nhận một Chúa Kitô khác
trong linh mục. Vì, với bản năng đức tin, những người nghèo khó đó biết rằng,
một linh mục đã từ bỏ hôn nhân sẽ ban cho họ món quà trọn vẹn của tình yêu dâng
hiến của ngài.
Đã
bao lần, trong khi đi bộ nhiều giờ giữa các ngôi làng nhỏ bé, với một chiếc cặp
có bàn thờ-bỏ túi trên đầu, dưới ánh mặt trời rực rỡ tỏa lan, bản thân tôi đã
trải nghiệm niềm vui miên man của việc dâng hiến cho Giáo hội là Hiền Thê. Khi
đi qua những vùng đầm lầy trong một chiếc ca nô tạm bợ, giữa những truông cỏ
rậm rạp, hoặc trong khi phải vượt qua những dòng chảy nguy hiểm nơi có thể bị
nhấn chìm, tôi cảm thấy phập phồng một niềm vui được dành trọn cho Chúa và được
sẵn sàng trao ban cho anh chị em của mình.
Tôi
sẽ yêu mến chức linh mục như thế nào nữa, nếu tất cả những anh em linh mục của
tôi một ngày nào đó có thể trải nghiệm sự chào đón một linh mục ở tại một ngôi
làng châu Phi, khi dân chúng nhận ra Chúa Kitô là Chàng Rể đang hiện diện trong
ngài: thật là một niềm vui bùng vỡ! Nhiều lễ hội được tổ chức! Những bài hát,
những điệu vũ, những sinh hoạt sôi động và cả những bữa ăn liên tiếp diễn ra để
thể hiện lòng biết ơn của mọi người đối với món quà chính Chúa Kitô ban tặng
cho họ.
Việc
phong chức cho những người đàn ông đã có gia đình sẽ tước đi nơi những cộng
đoàn Giáo hội non trẻ đang được truyền giáo, cái cảm nghiệm được Chúa Kitô hiện
diện và viếng thăm, qua một linh mục sống độc thân. Bi kịch mục vụ sẽ rất lớn.
Nó sẽ dẫn đến một sự bần cùng hóa công cuộc truyền giáo.
Tôi
tin chắc rằng nếu đã có một số các linh mục hoặc giám mục phương Tây sẵn sàng
tương đối hóa sự cao cả và tầm quan trọng của đời sống độc thân linh mục, thì
đó là vì họ chưa bao giờ có kinh nghiệm cụ thể về lòng biết ơn của một cộng đồng
Kitô giáo. Tôi không nói đơn giản về mặt con người. Tôi nghĩ rằng trong lòng
biết ơn này có một trải nghiệm về đức tin. Những người nghèo khó đó sống cuộc
sống giản dị có thể nhận ra bằng con mắt đức tin, sự hiện diện của Chúa Kitô là
Phu Quân của Giáo hội nơi một linh mục sống độc thân. Kinh nghiệm thiêng liêng
này là nền tảng trong cuộc sống của một linh mục. Nó dẫn đưa ngài khỏi rơi vào
những hình thức giáo sĩ trị. Đã từng trải nghiệm điều này trong bản thân tôi,
tôi biết rằng các Kitô hữu nhìn thấy qua tôi, một Chúa Kitô được trao ban cho
họ, chứ không phải con người giới hạn của tôi với những cá tính riêng và nhiều
yếu kém của nó.
Không
có kinh nghiệm cụ thể này, đời sống độc thân trở thành một gánh nặng không thể
mang nổi. Tôi có cảm tưởng rằng đối với một số giám mục phương Tây hoặc thậm
chí cả Nam Mỹ, đời sống độc thân đã trở thành một gánh nặng lớn. Họ vẫn trung
thành với nó nhưng không còn cảm thấy có can đảm áp đặt lên các linh mục tương
lai và các cộng đồng Kitô hữu bởi vì chính họ đang phải chịu đựng gánh nặng đó.
Tôi cảm thông với họ. Ai có thể áp đặt gánh nặng lên người khác khi không còn
yêu mến ý nghĩa sâu xa của nó nữa? Đó không phải là hành động của Pharisêu sao?
Tuy
nhiên, tôi chắc chắn rằng người ta đã mắc một quan điểm sai lầm ở đây. Mặc dù
đôi khi là một thách đố, bậc độc thân linh mục, hiểu một cách đúng đắn, là giải
thoát. Nó cho phép linh mục được thiết lập để trở nên nhất quán trong căn tính
là người phối ngẫu của Hội Thánh.
Một
kế hoạch nhằm tước đoạt niềm vui này khỏi các cộng đồng Kitô hữu và các linh
mục chắc chắn không phải là một công việc của tình thương. Là một người con của
châu Phi, trong lương tâm tôi, tôi không thể ủng hộ ý tưởng rằng, những nhóm
người đang được rao giảng Tin mừng lại phải bị tước mất được một lần gặp gỡ một
linh mục sống trọn vẹn thiên chức của mình. Các dân tộc Amazon có quyền được
trải nghiệm đầy đủ về một Chúa Kitô là Phu Quân. Chúng ta không thể cung cấp
cho họ các “linh mục hạng hai”.
Trái
lại, một Giáo hội càng trẻ trung, thì lại càng cần phải gặp được những giá trị
triệt để của Tin Mừng. Khi thánh Phaolô khuyên dạy các cộng đồng Kitô hữu non
trẻ ở Ephêsô, Philipphê và Côlôssê, ngài không đưa ra cho họ một lý tưởng bất
khả thấu đạt, nhưng chỉ dạy cho họ tất cả những đòi hỏi của Tin Mừng: “Vậy như anh em đã nhận
Đức Kitô Giêsu làm Chúa, thì hãy tiếp tục sống kết hợp với Người. Anh em hãy
bén rễ sâu và xây dựng đời mình trên nền tảng là Đức Kitô Giêsu, hãy dựa vào
đức tin mà anh em đã được thụ huấn, và để cho lòng chan chứa niềm tri ân cảm
tạ. Hãy coi chừng chớ để ai gài bẫy anh em bằng mồi triết lý và những tư tưởng
giả dối rỗng tuếch theo truyền thống người phàm và theo những yếu tố của vũ trụ
chứ không theo Đức Kitô.” (Cl 2, 6-8). Trong giáo huấn này chúng ta thấy không có
sự cứng nhắc cũng không có sự bất khoan dung. Tuy nhiên, Lời Chúa thì luôn đòi
hỏi hoán cải triệt để. Lời Chúa không tương thích với sự thỏa hiệp và mơ hồ. Đó
là: “Lời Thiên Chúa là lời sống
động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi” (Hr 4,12). Theo gương thánh Phaolô, chúng ta phải
rao giảng với sự rõ ràng và dịu dàng, không tạo sự hà khắc gây khiêu khích cũng
như sự rụt rè nửa vời.
Cho
phép tôi một lần nữa trình bày kinh nghiệm cá nhân của tôi. Thời thơ ấu, tôi
sống trong một thế giới hầu như xuất phát từ ngoại giáo. Cha mẹ tôi không biết
đến Kitô giáo cho đến khi họ trưởng thành. Cha tôi đã được rửa tội hai năm sau
khi tôi sinh ra. Bà tôi đã đón nhận Bí tích Rửa tội vào lúc bà qua đời. Do đó,
tôi đã quen với đạo vật linh và tôn giáo truyền thống. Tôi thấu biết những khó
khăn của công cuộc rao giảng Tin mừng: sự nhổ bỏ gây đau đớn cùng những thay
đổi đến mức anh hùng mà người mới nhập đạo phải chấp nhận liên quan đến những
phong tục ngoại giáo, lối sống và truyền thống cố hữu. Tôi tưởng tượng việc
truyền giáo của làng tôi sẽ như thế nào, nếu một người đàn ông đã có vợ được
thụ phong linh mục ở đó. Nghĩ về điều đó thôi đã làm tôi đau đớn cõi lòng. Thật
là một nỗi buồn khôn xiết! Tôi chắc chắn sẽ không trở thành một linh mục như
ngày hôm nay, bởi vì giá trị triệt để của đời sống các vị thừa sai đã cuốn hút
tôi.
Làm
sao chúng ta dám tước đoạt niềm vui của mọi người về một cuộc gặp gỡ như vậy
với Chúa Kitô? Tôi coi đó là một thái độ khinh miệt. Một số người đã khai thác
và nhấn mạnh sự đối lập giữa “việc chăm sóc mục vụ bằng thăm viếng” với “việc
chăm sóc mục vụ bằng sự hiện diện”. Việc một linh mục thừa sai từ một đất nước
xa xôi đến phục vụ tại một cộng đoàn thể hiện sự quan tâm của Giáo hội hoàn vũ.
Đó là hình ảnh của Ngôi Lời viếng thăm nhân loại. Việc phong chức cho một người
đàn ông đã có gia đình ở giữa cộng đồng, cho thấy một chuyển động ngược lại:
như thể mỗi cộng đồng bị ràng buộc phải tìm một phương thế cứu rỗi trong chính
nó.
Khi
nhà truyền giáo kiệt xuất Phaolô kể cho chúng ta về những chuyến viếng thăm của
ngài đến các cộng đồng ở Tiểu Á mà chính ngài thiết lập, ngài cho chúng ta mẫu
gương về một người tông đồ đến thăm các cộng đồng Kitô giáo để củng cố họ như
thế nào.
Lòng
thương xót của Thiên Chúa đã trở nên hiện thực trong việc viếng thăm của Chúa
Kitô. Chúng ta đón nhận với lòng biết ơn. Đối với chúng ta, đó là một lối mở để
đi vào với cả gia đình giáo hội. Tôi sợ rằng việc phong chức cho những người
đàn ông đã có vợ, mà họ phải nhận trách nhiệm cho một cộng đồng, có thể đóng
cửa chính cộng đồng đó và cắt đứt nó khỏi tính phổ quát của Giáo hội. Làm sao
một ai có thể bắt một người đàn ông đã có vợ biến đổi cộng đồng của mình, trong
khi còn đa mang cùng vợ và con cái? Làm thế nào ông ta có thể trải nghiệm sự tự
do của một người phục vụ sẵn sàng hi sinh cho mọi người?
Chức
linh mục là một món quà được trao ban khi Ngôi Lời Nhập Thể được đón nhận. Đối
với Chúa đó không phải là nghĩa vụ, còn đối với con người đó không phải là
quyền. Một cộng đồng được truyền đạt theo cái ý tưởng cho mình có quyền được
nhận Thánh Thể sẽ không còn là môn đệ của Chúa Kitô nữa. Như tên gọi của nó, Bí
tích Thánh Thể là lời tạ ơn, là một hồng ân nhưng không, một món quà của lòng
thương xót. Sự hiện diện Thánh Thể được đón nhận với cảm xúc ngỡ ngàng và vui
mừng như một món quà vô giá. Bất kỳ người tín hữu nào nghĩ rằng họ có quyền
được hưởng các ơn ấy cho thấy họ không hiểu biết một chút nào cả.
Tôi
trộm nghĩ rằng các cộng đồng Kitô hữu ở Amazon không cho rằng mình phải được
đáp ứng đầy đủ các nhu cầu về Bí tích Thánh Thể đâu. Tôi nghĩ, đúng hơn, rằng
những chủ đề này là nỗi ám ảnh bắt nguồn từ các môi trường thần học tại các
trường đại học. Chúng ta đang phải đối phó với các dòng ý thức hệ được khai
triển bởi một vài nhà thần học, hay đúng hơn là những phù thủy học nghề, những
người muốn sử dụng đau khổ của những người nghèo làm phòng thí nghiệm cho kế
hoạch thông minh của họ. Tôi không thể cứ im lặng và để họ hành xử như vậy mãi.
Tôi muốn bảo vệ những người nghèo đó, những người nhỏ bé, những người này
“không có tiếng nói”. Chúng ta không được tước đoạt của họ sự toàn vẹn của chức
linh mục. Chúng ta đừng lấy mất ý nghĩa thực sự của Bí tích Thánh Thể mà họ
hằng ấp ủ. “Chúng
ta không thể sửa lại giáo lý Công giáo về chức linh mục và luật độc thân để gọi
là điều chỉnh, hầu đáp ứng nhu cầu được cho là cảm thấy cần thiết trong một số
tình huống mục vụ khó khăn”, Đức hồng y Marc Ouellet gần đây đã nhận xét như vậy. “Trên tất cả, tôi nghĩ rằng Giáo hội Latinh không tự
đặt định truyền thống độc thân linh mục cho riêng mình đâu, mà đặc sủng này vốn
tồn tại từ thời các tông đồ và là bí quyết, là động lực cho sứ vụ truyền giáo
mạnh mẽ của Giáo hội. [5]” Điều
chúng ta đang nói đến là cực kì quan trọng. Độc thân linh mục là một động lực
mạnh mẽ của công cuộc truyền giáo. Đặc sủng đó làm cho các nhà truyền giáo đáng
được tin cậy. Triệt để hơn, nó giúp các ngài được tự do, để sẵn sàng đi bất cứ
đâu và dám mạo hiểm mọi sự vì các ngài không còn bị giam hãm bởi bất cứ nơi
chốn nào cả.
Trong
ánh sáng của truyền thống Giáo hội
Một số người sẽ nghĩ rằng
những suy tư của tôi là sai lầm. Họ nói với tôi rằng độc thân linh mục chỉ là
một kỷ luật được áp đặt các cho các giáo sĩ của Giáo hội Latinh vào một thời xa
xưa thôi.
Tôi
đã đọc những lời tuyên bố như vậy, đã được lặp đi lặp lại trên các báo chí. Sự
trung thực trong lịch sử bắt buộc tôi phải tuyên bố rằng họ đã sai lầm. Các nhà
sử học nghiêm túc cho biết rằng từ thế kỷ thứ bốn trở đi, các công đồng đã nhắc
đến sự bắt buộc tiết chế tình dục đối với các linh mục. Chúng ta phải luôn
chính xác. Nhiều người đàn ông đã có vợ được thụ phong linh mục trong thiên
niên kỷ đầu tiên. Nhưng kể từ ngày thụ phong, họ buộc phải kiêng quan hệ tình
dục với vợ. Điều này thường xuyên được nhắc lại qua các công đồng chung, dựa
trên một truyền thống đã có từ thời các tông đồ. Có thể nào không hình dung
được rằng nếu Giáo hội tự ý cố chấp đưa ra kỷ luật tiết chế tình dục cho giáo
sĩ mà lại không gây ra sự phản đối chung nơi những người mà luật này tác động
sao? Ngày hôm nay các nhà sử học nhấn mạnh một điều là, đã không hề có các cuộc
phản đối khi Công đồng Elvira, vào đầu thế kỷ thứ bốn, quyết định loại trừ khỏi
hàng giáo sĩ các giám mục, linh mục và phó tế bị nghi ngờ có quan hệ tình dục
với vợ của họ. Việc một quyết định gay gắt như vậy không làm dấy lên một sự
phản đối nào chứng tỏ rằng luật độc thân giáo sĩ không phải là điều gì mới.
Giáo hội vừa mới bước ra khỏi thời kỳ bách hại. Một trong những mối quan tâm
đầu tiên của Giáo hội là cần phải thiết định lại một quy luật vốn đôi khi đã bị
buông lỏng trong hoàn cảnh xáo trộn của thời kì tử đạo, và luật đó đã được phục
hồi hết sức tốt đẹp.
Chức
linh mục là lời đáp trả cho một tiếng gọi cá nhân. Đó là kết quả của một tình
yêu thân thiết đến từ Thiên Chúa, mà chúng ta có thể tìm thấy nguyên mẫu trong
ơn gọi của Samuel (1 Sm 3). Một người không trở thành linh mục bởi vì anh cần
phải đáp ứng nhu cầu của cộng đồng, và rồi bất cứ ai cũng có thể chiếm giữ vị
trí đó. Chức linh mục là một tình trạng sống. Đó là kết quả của một cuộc đối
thoại mật thiết giữa Thiên Chúa Đấng kêu gọi và tâm hồn đáp trả: “Lạy Thiên Chúa, này con
đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Hr 10, 7). Không gì có thể can thiệp vào cuộc trò
chuyện từ-trái-tim-đến-trái-tim này. Giáo hội chỉ xác thực hóa lời đáp trả ấy.
Tôi vẫn tự hỏi: Điều gì sẽ xảy ra với vợ của một người đàn ông được phong chức
linh mục? Cô ấy sẽ ở vị thế nào? Có một ơn gọi để làm vợ của một linh mục
không? Chức linh mục, như chúng ta đã thấy, giả định một sự trao hiến trọn cuộc
đời mình, giải thoát chính mình như Chúa Kitô đã sống. Nó giả định người ta
phải trở nên một món quà tuyệt đối của bản thân dành cho Thiên Chúa và một quà
tặng trọn vẹn của bản thân cho anh chị em mình. Vậy thì còn nơi nào nữa để dành
cho các liên hệ vợ chồng? Công đồng Vatican II đã trình bày phẩm giá của bí
tích Hôn phối là con đường đúng đắn để nên thánh qua đời sống vợ chồng. Tuy
nhiên, tình trạng đời sống như vậy giả định rằng vợ chồng đặt mối quan hệ gắn
kết của họ lên trên tất cả. Để phong chức một người đàn ông đã có vợ, một linh
mục sẽ làm suy giảm phẩm giá của hôn nhân, đồng thời thu giảm chức linh mục
thành một công việc [một viên chức].
Phải
nói gì về sự tự do mà con cái của hai vợ chồng được quyền ao ước một cách chính
đáng? Chúng cũng phải theo đuổi ơn gọi của cha chúng hay sao? Làm thế nào bất
cứ ai có thể áp đặt cho những đứa con này một lối sống mà chúng không muốn
chọn? Chúng có quyền tận hưởng tất cả những nguồn lực cần thiết cho sự phát
triển của chúng. Liệu các linh mục đã kết hôn có đáp ứng được tất cả những đòi
hỏi này không?
Người
ta có thể lập luận rằng Kitô hữu Đông phương vẫn luôn quen với những tình huống
này rồi và nó không xảy ra vấn đề gì. Điều đó là sai. Vào một thời gian xa xưa,
Kitô giáo Đông phương cho phép những người đàn ông đã kết hôn trở thành linh
mục được quan hệ tình dục với vợ của họ. Kỷ luật này đã được đưa vào trong Công
đồng Trullô năm 691. Sự kiện lạ thường này xuất hiện là do hậu quả của một nhầm
lẫn trong việc sao chép các điều khoản giáo luật của Công đồng Carthage trước
đó, nhóm họp vào năm 390. Hơn nữa, những thay đổi quan trọng hơn của Công đồng
cuối thế kỷ thứ bảy này không phải là xóa bỏ sự tiết dục đối với các linh mục
mà là giới hạn việc sinh hoạt tình dục trong những thời kỳ trước khi cử hành
các Mầu Nhiệm Thánh. Như vậy, mối liên hệ thuộc bản thể giữa việc thi hành tác
vụ linh mục và sự tiết chế vẫn được nhìn nhận và duy trì. Có ai muốn quay trở
lại việc thực hành đó không? Chúng ta phải lắng nghe những lời chứng từ các
Giáo hội Công giáo Đông phương. Nhiều người trong các Giáo hội này đã phát biểu
rõ ràng rằng đời sống linh mục gặp rất nhiều căng thẳng với công việc gia đình.
Trong nhiều thế kỷ qua, tình trạng này vẫn có thể tồn tại được nhờ vào sự hiện
hữu các mối dây giữa “các gia đình linh mục”, trong đó những đứa trẻ nam được
giáo dục để tham gia vào ơn gọi của người cha trong gia đình, còn các cô con gái
thường kết hôn với một linh mục tương lai. Nếu cần phải lượng giá thì có thể
nói kiểu cách sinh hoạt như thế này (modus operandi) không thể đem lại phẩm giá và tự do cho mỗi người được.
Các giáo sĩ kết hôn phương Đông luôn gặp khủng hoảng. Việc ly hôn của các linh
mục đã trở thành nguyên do gây ra căng thẳng trong sinh hoạt đại kết giữa các
Tòa Thượng phụ Chính thống.
Trong
các cộng đồng Giáo hội Đông phương tách biệt, chỉ có sự hiện diện của các tu sĩ
trổi vượt về đức hạnh mới có thể làm cầu nối, giúp cho một giáo sĩ đã kết hôn
được cộng đoàn dân Chúa đón nhận. Có nhiều Kitô hữu Chính thống không bao giờ
đi xưng tội với một linh mục đã kết hôn. Cảm thức đức tin (sensus fidei) mách bảo cho người tín
hữu nhận ra có một điều gì đó khiếm khuyết trong các giáo sĩ không sống bậc độc
thân tận hiến.
Tại
sao Giáo hội Công giáo cho phép sự hiện diện của một số giáo sĩ đã kết hôn
trong Giáo hội Đông phương được hội nhập với Rôma? Dưới ánh sáng của các tuyên
bố mới đây trong Huấn Quyền về mối tương quan bản thể giữa chức linh mục và
tình trạng độc thân, tôi nghĩ rằng mục đích của sự chấp nhận này là để thúc đẩy
sự tiến triển dần dần đối với việc thực hành đời sống độc thân, sẽ diễn ra,
không phải bằng con đường kỷ luật, mà đúng hơn bằng những lý do thiêng liêng và
mục vụ phù hợp.
__________________
[1] Bênêđictô XVI, Sứ
điệp Kinh Truyền Tin ngày 13, tháng Sáu 2010
[2] Nội dung này được
đặt ở phần đầu sách
[3] Bênêđictô XVI, Bài
giảng lễ Truyền Dầu tại Đền thờ thánh Phêrô, thứ Năm Tuần Thánh, 4 tháng 9, năm
2009.
[4] Bênêđictô XVI,
huấn từ với hàng giáo sĩ Giáo phận Bolzano-Bressanone, ngày 6 tháng 8, năm 2008.
[5] Marc Cardinal
Ouellet, trong cuộc phỏng vấn với Jean-Marie Guénois, Le Figaro, 28 tháng Mười,
2019