GIÁO HỘI CÔNG GIÁO TRƯỚC NẠN LẠM DỤNG TÌNH DỤC TRẺ EM: CHẨN
ĐOÁN, PHÁT HIỆN, PHÒNG NGỪA VÀ HÀNH ĐỘNG MỤC VỤ
JB. Phương Đình Toại, MI
WHĐ (20.9.2020) – Gần đây, các phương tiện
truyền thông Việt Nam đã đăng tải rộng rãi những tin tức chấn động về nạn ấu
dâm, xâm hại tình dục trẻ em đang diễn ra tại Việt Nam với mật độ đáng báo
động, để lại những tổn thương gần như không thể chữa lành nơi thể chất và tinh
thần của nạn nhân là những trẻ nhỏ, của gia đình các em và toàn xã hội.
Theo ghi nhận của Bộ Công An, riêng
trong năm 2018 cả nước đã xảy ra 1.547 vụ xâm hại trẻ em trong đó có 1.293 em
bị xâm hại tình dục[1]. Nạn xâm hại tình dục không phải
chỉ diễn ra giữa trẻ em với người lạ, nhưng thực trạng đáng đau lòng là đa số
những người thực hiện các hành vi này lại là người thân của các em. Theo số
liệu thống kê, hơn 60% đối tượng xâm hại tình dục trẻ em là người quen, hàng
xóm, trên 21% là người thân; giáo viên và nhân viên nhà trường chiếm hơn 6%. Và
gần đây nhất là một sự kiện chấn động xảy ra khi một người làm một chức vụ khá
cao trong cơ quan hành pháp cũng đang bị truy tố về tội xâm hại tình dục trẻ em
mà chắc có lẽ tất cả chúng ta đều đã biết.[2]
Từ thực trạng trên, chúng ta cũng
không thể bỏ qua những sự kiện chấn động tương tự xảy ra ngay chính trong Giáo
hội Công Giáo chúng ta, điển hình như những vụ xâm hại và lạm dụng trẻ em được
nhắc đến nhiều nhất tại Chile bởi một linh mục khá nổi tiếng và từng được nhiều
người mến mộ, khiến Đức Thánh Cha Phanxicô phải triệu tập toàn thể Hội Đồng
Giám Mục Chile về Tòa Thánh để giải quyết vấn nạn trên. Sau đó là những cáo
buộc về sự tắc trách trong việc đối diện với vấn lạm dụng tình dục tại Hoa Kỳ
gây nên những làn sóng phản đối trong xã hội và trong lòng nhiều tín hữu, làm
ảnh hưởng trầm trọng đến đức tin của rất nhiều người. Tiếp theo đó vào tháng 2
năm 2019, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã triệu tập tất cả các chủ tịch Hội Đồng
Giám Mục trên toàn thế giới trong một phiên họp tại Vatican để cùng thảo luận
và tìm ra hướng phát hiện sớm, đồng thời xử lý các cáo buộc về tội lạm dụng
tình dục thiếu niên phạm phải bởi một số giáo sĩ trong Giáo hội, và cũng qua đó
tìm mọi cách phòng ngừa và giúp đỡ những nạn nhân bị lạm dụng để họ có thể tìm
lại được công lý cũng như chữa lành những tổn thương mà các giáo sĩ đó đã gây
ra cho họ.
Đứng trước những thông tin chấn động
và gây sốc cho toàn thể Giáo hội chúng ta nói chung cũng như những ngờ vực và
bối rối của riêng Giáo Hội Việt Nam chúng ta nói riêng, ai trong chúng ta cũng
đặt câu hỏi: Chúng ta phải đối diện với vấn nạn trên theo cách nào? Làm sao để
nhận biết những dấu hiệu nguy cơ, làm sao để phòng ngừa, và đặc biệt nếu nghi
ngờ, làm sao để hiểu tận gốc vấn đề trên và đối diện với chúng bằng một góc
nhìn quân bình và khôn ngoan?
Trong bài viết này, tôi xin được dùng
một vài kinh nghiệm, nghiên cứu và kiến thức về tâm lý nhằm góp một phần nhỏ
trong việc đưa đến sự hiểu biết, cách chẩn đoán và hành động mục vụ trong vấn nạn
lạm dụng tình dục trẻ em, hay xã hội vẫn gọi là hiện tượng ấu dâm. Một số dẫn
chứng và nghiên cứu ở đây được trích từ sách “Giáo hội và Sự Lạm Dụng Trẻ Vị
Thành niên” (Church and the Abuse of Minors) của cha Zollner, SJ và từ Đức ông
Rosetti trong bài viết “Những Dấu Hiệu cảnh báo đối với Lạm dụng Tình dục Trẻ
em” (Some Red Flags for Child Sexual Abuse) nhằm đưa ra góc nhìn sâu rộng hơn
đối với hiện trạng này, đặc biệt khi liên quan đến giáo sĩ phạm tội ấu dâm
trong Giáo hội.
Bệnh Ấu dâm – Pedophilia là gì?
Theo Hệ thống chẩn Đoán và Thống kê
các Rối loạn Tâm thần phiên bản thứ V của Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ (DSM V),
ấu dâm được liệt kê vào danh sách những bệnh rối loạn tâm thần liên quan đến sự
“lệch lạc về tình dục”. Người mắc bệnh ấu dâm (Pedophilia) là người có “sự gợi
hứng tình dục, thèm muốn quan hệ tình dục, mơ tưởng về hành vi tính dục và thậm
chí quan hệ tình dục với trẻ em từ 13 tuổi trở xuống, và triệu chứng này kéo
dài từ 6 tháng trở lên (Tiêu chuẩn A); Đương sự hành động trên sự thèm muốn tính
dục này, hoặc mơ tưởng về điều này khiến cho tâm trí không ổn định, gây ra
những cản trở và khó khăn trong công việc và tương quan của đương sự (Tiêu
chuẩn B), và đương sự phải từ 16 tuổi trở lên và phải ít nhất lớn hơn trẻ từ 5
tuổi (Tiêu chuẩn C ). Những dạng ấu dâm và mức độ cũng khác nhau, ví dụ như có
dạng ấu dâm với người thân hay loạn luân, có dạng chỉ với trẻ em, và có dạng
người ấu dâm nhưng vẫn có quan hệ tính dục với người trưởng thành. Cũng theo
DSM V, tỷ lệ những người mắc bệnh ấu dâm trên toàn thế giới vào khoảng 3-5%. Và
đây được coi là bệnh lý kéo dài suốt đời, tỷ lệ tái phát cao nếu không có một
chương trình và kế hoạch điều trị cũng như giám sát chặt chẽ sau điều trị.
Tuy nhiên, có một dạng bệnh lý khác
vẫn thường được ghép chung với bệnh ấu dâm (Pedophilia) đó là Ephebophilia –
nghĩa là người có khuynh hướng bị gợi hứng tình dục và tìm cách quan hệ tình
dục với trẻ trong độ tuổi dậy thì (từ 13 đến dưới 18 tuổi). Những người có
khuynh hướng này thường cảm thấy gợi hứng và bị quyến rũ bởi trẻ trong độ tuổi
dậy thì vốn đã phát triển về mặt tính dục và sinh lý. Tuy vậy, các trẻ này vẫn
còn ở độ tuổi vị thành niên nên chưa có khả năng và hiểu biết để đưa ra quyết
định, sự đồng thuận và trách nhiệm đối với hành vi của mình. Dù mức độ nghiêm trọng
về mặt bệnh lý rối loạn tâm thần trong tính dục có phần nhẹ hơn ấu dâm, nhưng
hành vi lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên vẫn được coi là lệch lạc về tính
dục và để lại những hậu quả nghiêm trọng, trực tiếp tác động đến sự phát triển
tâm sinh lý của trẻ cho dù trẻ đã ở tuổi dậy thì, và vẫn bị quy trách nhiệm
hình sự trước pháp luật.
Nghiên cứu cũng cho thấy những người
bệnh ấu dâm cũng có kèm theo những bệnh rối loạn hành vi tâm lý khác, như
70-80% có rối loạn nhân cách (vd. nhân cách ái kỷ) hoặc có bệnh rối loạn tình
dục khác (nghiện sex, nghiện phim khiêu dâm 50-70%) (Harvard mental health
letter, 2010)[3]
Từ những định nghĩa trên, chúng ta
thấy Pedophilia (ấu dâm) và Ephebophilia, được hiểu là hoạt động tình dục giữa
một người lớn và một trẻ vị thành niên. Đa số những người mắc bệnh này là nam.
Hành động ấu dâm này bao gồm cả việc: cởi quần áo để xem trẻ trần truồng, dùng trẻ
để thủ dâm, hoặc thủ dâm bằng miệng trên trẻ, quan hệ tình dục trên miệng,
trong âm hộ, hậu môn của trẻ hoặc dùng tay để thọc vào hoặc sờ nắn bộ phận sinh
dục của trẻ.[4]
Điều trị cho chứng bệnh ấu dâm thường
khá tốn kém, lâu dài và khả năng tái phát cao. Phương pháp điều trị bao gồm tâm
lý trị liệu; dùng thuốc nhằm làm giảm sự thèm muốn tính dục; tâm lý trị liệu
nhóm và đương sự phải được điều trị nội trú. Do việc xâm hại tình dục liên quan
đến pháp luật, người phạm phải tội này còn phải đối diện với án phạt, và vì tỷ
lệ tái phát cao nên những người đã từng được điều trị vẫn phải luôn được giám
sát để ngăn ngừa tái phạm.
Những hậu quả để lại cho trẻ là nạn
nhân của lạm dụng/ xâm hại tình dục
Điều chúng ta thường nghe và thấy
trên truyền thông đó là sự lên án đối với các thủ phạm ấu dâm, tuy nhiên, rất
ít thông tin nhắc tới những hậu quả nghiêm trọng mà các nạn nhân phải gánh
chịu.
Nghiên cứu cho thấy, các trẻ bị lạm
dụng tình dục sẽ bị sang chấn tâm lý nặng và kéo dài, do đa số các em là trẻ
thơ yếu ớt không thể chống cự. Nhiều em gặp phải tình huống khó khăn và e dè
phải kể ra vì người lớn không tin hoặc bỏ lơ. Từ đó, các em phải chịu đựng thời
gian dài do sống trong gia đình và người hại các em lại chính là cha, chú hoặc
ông của các em, khiến các em mất niềm tin nghiêm trọng và luôn sống trong sự
hoảng sợ. Đối với các trẻ bị lạm dụng bởi giáo sĩ, các em mất niềm tin vào Thiên
Chúa, do bởi niềm tin thánh thiêng vào thiên chức linh mục đã bị phá vỡ. Các em
lớn lên với những mặc cảm lớn về bản thân, cảm thấy xấu hổ về mình, tự trách
mình, và thường bị trầm cảm, thậm chí nhiều trường hợp tìm đến tự vẫn.[5] Bởi cấu trúc thần kinh não bộ
bị tổn thương nghiêm trọng ảnh hưởng đến cảm xúc và sự ham muốn tính dục, nhiều
nạn nhân trở nên lãnh cảm, sợ hãi với việc quan hệ tính dục, không thể lập gia
đình, không thể có tương quan bình thường như mọi người. Một số khác thì trở
nên “siêu dục tính” (hyper-sexualized), luôn tìm đến tình dục để giải quyết mọi
vấn đề của mình. Ngoài ra, không ít các nạn nhân sau này lại tiếp tục để cho
mình trở thành nạn nhân trở lại (dễ bị lạm dụng và bị cưỡng hiếp), hoặc 1/3
trong số đó có khuynh hướng lạm dụng lại các trẻ khác sau này.[6] Có thể
nói, ảnh hưởng của sự lạm dụng tình dục lên trẻ là rất nghiêm trọng, những nạn
nhân này gần như phải đối diện với những vết thương nặng nề về tinh thần và tâm
sinh lý suốt quãng đời của các em. Vì thế, ngăn chặn nạn ấu dâm là cần thiết,
không chỉ qua việc nhận diện và tìm ra thủ phạm, nhưng còn phải giúp đỡ đồng
hành và chữa trị kịp thời cho nạn nhân.
Tìm hiểu yếu tố tâm lý của những
người phạm tội ấu dâm
Những yếu tố tâm lý và nguy cơ từ
trong chính gia đình
Nghiên cứu về nạn loạn luân do
Seympur và Hilda Parker thực hiện trên nhóm 54 người cha lạm dụng con (28 người
là cha ruột, và 26 người là cha kế) so sánh với một nhóm của các người cha
không lạm dụng đã chỉ ra một số khác biệt như: những người cha lạm dụng đa số
đã trải qua những kinh nghiệm tiêu cực với cha mẹ của họ thời thơ ấu (ví dụ: xa
cách, bạo hành, và lạm dụng), thiếu sự gắn kết cảm xúc – và những người cha lạm
dụng này cũng có những biểu hiện thiếu sự quan tâm đến con của mình, thiếu sự
gần gũi thể lý với con mình. Không chỉ vậy, các mối tương quan khác của họ cũng
rất mờ nhạt, đặc biệt ngay cả với người lớn, và một số khác thì nghiện rượu
cũng như lạm dụng chất kích thích. “Có một bằng chứng cho thấy người lạm dụng
trẻ khác với người không lạm dụng trẻ ở cách họ nhìn nhận con của mình.... Đặc
biệt, nghiên cứu cho thấy cha mẹ lạm dụng trẻ thường gán cho con mình những ý
nghĩ tiêu cực về hành vi của chúng hơn là những người cha mẹ bình thường, ngay
cả khi những hành vi của trẻ xảy ra trong quy luật bình thường của sự phát
triển tâm sinh lý của trẻ. Một nghiên cứu tương tự cũng cho thấy, những cha mẹ
lạm dụng có những mong đợi không thực tế về con của mình vốn vượt quá hoặc đi
ngược với hành vi và sự phát triển bình thường của đứa trẻ trong độ tuổi. Và
những cha mẹ lạm dụng thường có khuynh hướng đổ thừa rằng hành vi của con mình
làm cho chính mình bị căng thẳng, stress hơn là những người cha mẹ bình
thường.”[7] Tương quan với tha nhân khá
lạnh nhạt, thiếu biểu cảm cũng là một vấn đề nơi họ. Những dấu hiệu này thường
có nguồn gốc từ một thời thơ ấu bị tổn thương bởi bạo hành, hoặc bị bỏ rơi (đặc
biệt là trong giai đoạn quan trọng của phát triển tâm lý như giai đoạn cai
sữa), để lại một hậu quả là họ khó có thể tương quan với chính thân thể mình và
có sự khủng hoảng của tâm lý phát triển tính dục.
Những người cha không lạm dụng, ngược
lại, thường thiết lập một quan hệ mật thiết với con cái mình, đặt sự lưu tâm và
chú ý đến con cái trong cách tương quan với chúng. Dưới góc nhìn trên, chúng ta
nhận ra rằng vai trò chăm sóc nuôi dưỡng con cái và cách tương quan với chúng
của các bậc cha mẹ là rất quan trọng, góp phần đóng góp vào tiến trình phát
triển tâm sinh lý bình thường của trẻ. Sự thiếu trách nhiệm hoặc mờ nhạt trong
tương quan của cha mẹ với con trẻ có thể tạo ra những động năng không lành mạnh
trong đời sống gia đình. Từ đó ta có thể nhận thấy, cách mà các bậc cha mẹ sống
vai trò làm cha làm mẹ với con cái mình là một yếu tố quyết định quan trọng,
cũng có thể là một trong các nguyên do tạo ra sự thiếu lành mạnh trong các
tương quan gia đình và cho con trẻ sau này.
Những yếu tố tâm lý của giáo sĩ và tu
sĩ lạm dụng tình dục trẻ
Theo Cha Zollner, SJ -Giáo sư tâm lý
học của Giáo Hoàng Học Viện Gregorian, hiện là một trong những người tiên phong
trong việc bảo vệ trẻ vị thành niên trong Giáo hội, với kinh nghiệm nhiều năm
của mình, ngài chỉ ra rằng, một đặc điểm quan trọng liên quan đến động năng tâm
lý của người ấu dâm thường được thấy (đặc biệt là giáo sĩ), đó là những người
này thiếu khả năng tương quan với những người đồng trang lứa. Người ấu dâm
thường bị quyến rũ bởi những người trẻ hơn mình do họ yếu hơn và tuân phục hơn.
Sự quyến rũ với người trẻ hơn cho thấy người ấu dâm thường có cảm giác yếm thế
trước người khác vì một trong những dấu hiệu của người có sức khỏe tâm lý tốt
là “người có khả năng tương quan với các bạn cùng trang lứa”[8]. Ngay cả tình yêu mà người này có
dành cho trẻ em hoặc người nhỏ hơn mình cũng thiếu những yếu tố nói lên một
tình yêu trưởng thành, ví dụ như sự tôn trọng, không sở hữu
(non-possessiveness), và nhìn nhận ranh giới cá nhân của người khác
(individuality). Và khi trẻ được người ấu dâm yêu phát triển và thành người
lớn, tình yêu của người ấu dâm này sẽ chấm dứt! Người này chỉ cảm thấy dễ chịu
với trẻ bởi qua trẻ anh ta có thể có cảm thức quyền lực và có thực quyền với
người trẻ kia”[9].
Bất cứ một công việc giáo dục, chuyên
môn hay mục vụ nào dành cho trẻ của cha mẹ, giáo viên, huấn luyện viên thể thao
và linh mục tu sĩ… đều đòi hỏi sự say mê, nhiệt huyết và việc đầu tư thời gian
cho trẻ. Sự say mê này có thể trở thành điều đáng quan ngại chỉ khi người này
không có cách nào, không có ai khác để tương quan ngoài trẻ, đặc biệt là khi
người này cảm thấy thiếu thoải mái hoặc cảm thấy bị cô lập khi tương quan với
những người lớn khác, điều này ám chỉ người đó đặt niềm đam mê và ham muốn của
mình ở một mức độ thiếu quân bình đâu đó. “Một câu hỏi phân định cần được hỏi
đó là: ‘Bạn dành thời gian nghỉ của mình với ai, và cho ai?’ Người ấu dâm, hay
người lạm dụng thiếu niên thường sẽ dành thời gian rảnh của mình với trẻ vị
thành niên. Người lớn, người trưởng thành thường dành thời gian rảnh của mình
để ở với người trưởng thành. Đức ông Rosetti, từng là giám đốc trung tâm trị
liệu St. Luke nơi điều trị tâm lý cho linh mục và tu sĩ tại Hoa Kỳ kể rằng,
“khi tôi làm lượng giá về tâm lý để xác định những người có nguy cơ lạm dụng
trẻ, tôi hỏi đương sự, bạn thân của họ là ai, và không ít những đương sự này
trả lời đó là trẻ vị thành niên. Tương tự như thế, tôi có thể hỏi tương quan cá
nhân nào là ý nghĩa nhất đối với bạn. Một lần nữa, một số nói về tương quan của
họ với trẻ vị thành niên; và những người có khó khăn này thường cũng là những
người có nhân cách thụ động, khép kín, lệ thuộc hoặc họ thường bị lầm tưởng là
kiểu người hiền lành, ngọt ngào, và tuân phục, nhưng trong thực tế những người
này chỉ tìm cách làm hài lòng bề trên và giấu kín sự bất an của họ.”[10]
Một dấu hiệu chẩn đoán quan trọng
khác thường tìm thấy trong những người này đó là, trong thời gian ở tuổi dậy
thì, tuổi nổi loạn, họ đã có những hành vi chống đối xã hội và có sự phát triển
sớm về tính dục được biểu lộ qua cách người trẻ này nói chuyện, tưởng tượng và
tương quan. Những người đã từng bị lạm dụng khi còn nhỏ cũng có khuynh hướng
trong vô thức, quyến rũ người khác một cách dục tính. Thường thì, đây là cách
duy nhất người này biết để thu hút sự chú ý và tương quan với người khác. “Có
một sự công nhận rằng những trẻ nhỏ có hành vi tính dục sớm không phù hợp là
dấu chỉ cảnh báo cho thấy trong tương lai khi trưởng thành, trẻ có nguy cơ có
hành vi lạm dụng. Khi nói đến hành vi tính dục không phù hợp, cũng có nghĩa là
có quan hệ tình dục với đồ chơi hoặc thú vật, bị cố định (fixation) vào những
vấn đề tính dục, thủ dâm cưỡng chế, hoặc có sự thích thú không lành mạnh với
hoạt động tình dục”[11]. Sự siêu dục tính (hyper-sexuality)
trổi lên, một cách không may, làm mất đi sự phát triển đúng mực của cảm xúc,
làm cho tâm cảm gần như lặng chìm, khiến khả năng phát triển những tương quan
không dục tính bên trong người này trở nên khó khăn hơn, đi theo đó là khả năng
có sự mật thiết, mềm dẻo và cho đi chính mình gần như khó hơn. Đây là hệ quả
của việc tính dục (sex) đã trở thành phương thế duy nhất mà người này có thể
dùng để diễn tả chính mình, và truyền đạt cái sâu xa nhất về bản thân mình.
Tiến sĩ Len Sperry chỉ ra rằng, mặc
dù nhiều người ấu dâm không có khuynh hướng đồng tính, tuy nhiên, trong số các
giáo sĩ phạm tội ấu dâm, thì phần đông những người này lại là đồng giới
(homosexual) hoặc lưỡng giới (bi-sexual), và chỉ có ¼ trong số này là dị giới
(heterosexual).[12] Tỷ lệ linh mục bị cáo buộc và
chẩn đoán mắc bệnh ấu dâm cũng nằm trong khoảng 2% (linh mục tại Mỹ), con số
này cũng tương đương với tỷ lệ dân số bị mắc bệnh ấu dâm bên ngoài. Đây là số
liệu cho thấy những thành kiến của nhiều người cho rằng linh mục tu sĩ sống đời
sống độc thân có nguy cơ phạm tội ấu dâm là không có cơ sở thậm chí sai lệch.
Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy, đa số những người phạm tội ấu dâm có một số
giới hạn về sự trưởng thành tâm cảm. Một dấu hiệu rõ nét của sự thiếu trưởng
thành tâm cảm đó là không có khả năng thấu cảm (empathy) tức là không có khả
năng đặt mình vào trong hoàn cảnh của người khác. Họ gặp khó khăn trong việc
nhận biết và hiểu cảm giác của tha nhân khi đứng trước một hoàn cảnh mà người
đó đang đối diện.
Trong khi tỷ lệ ấu dâm trong hàng ngũ
giáo sĩ thấp khoảng 2%, tiến sĩ Len Sperry nhận định tỷ lệ giáo sĩ lạm dụng trẻ
ở tuổi dậy thì lại cao gấp đôi số trong số trường hợp bị cáo buộc. Trong bài
trả lời phỏng vấn với báo Avvenire vào tháng 3 năm 2010[13] về những trường hợp lạm dụng
tình dục của giáo sĩ được gửi đến Bộ Giáo Lý Đức Tin để phán xử, Đức Tổng Giám
Mục Charles Scicluna cho biết rằng có 60% vụ lạm dụng tình dục là Ephebophilia
(trong trường hợp này là lạm dụng tình dục đồng giới với trẻ dậy thì); và 30%
các trường hợp là liên quan đến lạm dụng tình dục khác giới, và chỉ có 10% là
thật sự ấu dâm theo như định nghĩa của bệnh học về rối loạn tâm lý (lạm dụng
tình dục trẻ dưới tuổi dậy thì). Một nghiên cứu khác cũng cho thấy, đa số những
giáo sĩ lạm dụng trẻ ở tuổi dậy thì cũng bị nghiện phim khiêu dâm và có hành vi
thủ dâm cưỡng chế.[14]
Từ những nghiên cứu và phát hiện như
đã nêu trên, Đức ông Rosetti chỉ ra những dấu hiệu tâm lý thường thấy ở những
người từng lạm dụng trẻ, đây cũng là dấu hiệu để có thể giúp nhận biết và can
thiệp trong môi trường đào luyện khi phát hiện: (1) Một người không có tương
quan với bạn bè và anh em trong cộng đoàn, sống cô độc, một mình hoặc khép kín,
và có tính lệ thuộc; (2) Không thể hiện nam tính mạnh mẽ, hoặc có dấu hiệu bối
rối về căn tính tính dục của mình. (3) Người này thường không cảm thấy dễ chịu
về những vấn đề liên quan đến giới tính. (4) Người thiếu khả năng thấu cảm và
đồng cảm; không thể quản lý cảm xúc của mình.(5) Người có lịch sử thơ ấu bị bạo
hành, thiếu tình thương, hoặc có những kinh nghiệm tính dục từ nhỏ.(6) Có những
hành vi và sở thích mang tính trẻ con. Tuy rằng không thể dựa trên những dấu
hiệu trên để khẳng định rằng một người có ấu dâm hay không, nhưng là những dấu
chỉ quan trọng về sự thiếu trưởng thành tâm cảm của đương sự, để những người
hữu trách trong công tác đào luyện cần lưu tâm đồng hành và đảm bảo rằng đương
sự phải được phát triển hướng đến sự hội nhất trưởng thành tâm cảm cũng như đề
phòng khuynh hướng lạm dụng tình dục trẻ.
Đáp ứng lại vấn nạn lạm dụng tình dục
trẻ vị thành niên trong Giáo hội Công Giáo
Thời gian gần đây, song song với
những tin tức, diễn biến của vấn nạn tại Việt Nam, nhiều báo đài quốc tế đã nêu
ra những tin tức chấn động về những vụ ấu dâm và lạm dụng tình dục trẻ trong
Giáo hội Công giáo tại Hoa Kỳ. Nếu đọc kỹ, chúng ta đều có thể nhận thấy rằng
những vụ việc được phanh phui đều đã xảy ra ở những thập niên trước. Theo Đức
ông Rosetti, những trường hợp cáo buộc liên quan đến giáo sĩ phạm tội ấu dâm và
lạm dụng tình dục trẻ trong những năm gần đây đã giảm rất nhiều trong nước Mỹ,
nhờ vào những quy tắc ứng xử và hệ thống pháp lý chặt chẽ được Hội Đồng Giám
Mục Hoa Kỳ ban hành, và sự nhanh chóng trong việc tiếp nhận cũng như điều tra
các cáo buộc đã giúp ngăn ngừa tệ nạn lạm dụng một cách khá hiệu quả. Tuy
nhiên, không phải quốc gia nào cũng có những đường hướng cụ thể như Hội Đồng
Giám Mục Hoa Kỳ. Cụ thể nhiều nước Châu Á và Châu Phi do hệ thống luật pháp còn
mơ hồ và nhiều người còn tự vệ cho rằng hiện trạng ấu dâm chỉ là bệnh của người
phương Tây do sự phóng khoáng về dục tính.
Những bài học trong quá khứ cũng cho
chúng ta thấy rằng, việc thuyên chuyển một giáo sĩ bị cáo buộc lạm dụng tình
dục trẻ sang một xứ khác gần như là không thể và thậm chí gây nguy hiểm cho các
trẻ em khác. Một nghiên cứu của trung tâm St. Luke tại Hoa Kỳ cho thấy, trung
bình nếu phát hiện ra một nạn nhân của việc lạm dụng tình dục, có thể có thêm 3
nạn nhân nữa. Nghiên cứu chỉ ra rằng trung bình mỗi giáo sĩ phạm tội lạm dụng
thường có tới 4 nạn nhân. Có một trường hợp một giáo sĩ lạm dụng 500 nạn nhân.
Qua đó, việc can thiệp sớm và ngăn không cho phạm nhân tiếp xúc với trẻ và tìm
những nạn nhân còn lại là rất cần thiết để giảm tác hại đã gây ra cho trẻ. Đồng
thời, chúng ta cần ý thức được rằng đây là một căn bệnh và đương sự cần phải
được chữa trị để có thể sống một cuộc sống lành mạnh không gây hại đến trẻ và
cộng đoàn.
Làm sao để nhận diện hoặc phát hiện
nguy cơ lạm dụng tình dục trẻ trong môi trường mục vụ?
Trong kế hoạch phòng ngừa và phát
hiện những nguy cơ lạm dụng tình dục trẻ, Đức ông Rosetti chỉ ra những dấu hiệu
cảnh báo dựa trên các nghiên cứu và kinh nghiệm của Giáo hội Hoa Kỳ nhằm giúp
chúng ta sớm phát hiện và biết cách can thiệp kịp thời đó là: (1) Dấu hiệu tiềm
ẩn, (2) Dấu hiệu cảnh báo cao và (3) Dấu hiệu nguy hiểm.
(1) Dấu hiệu tiềm ẩn: đó
là khi một giáo sĩ, tu sĩ hay chủng sinh thiếu hoặc không có sự tương quan với
anh em trong cộng đoàn, hay linh mục đoàn. Người này thường không thấy thoải
mái khi ngồi chung và chia sẻ với những người bạn cùng lứa, chỉ thích chơi với
trẻ, thích những trò chơi của trẻ con; hay né tránh những chủ đề liên quan đến
tính dục, và đặc biệt là không có dấu hiệu khả nghi nào, không bao giờ than
trách gì (bởi mỗi chúng ta ai cũng có một vấn đề gì đó không hài lòng).
Đây là những dấu hiệu tiềm ẩn mà
người huấn luyện cần chú ý, nếu trong thời gian thụ huấn, người này cần được giúp
đỡ để phát triển nhân cách và trưởng thành tâm cảm. Cần phải quan sát xem nơi
người này còn có những nguy cơ tiềm ẩn khác hay không. Chúng ta phải bảo đảm
rằng người này được học và biết cách tôn trọng cũng như biết giữ khoảng cách an
toàn với trẻ.
(2) Dấu hiệu cảnh báo cao:
khi đương sự chỉ đi chơi với trẻ và đi nhiều, cho trẻ một món quà theo cách
không bình thường, thường xuyên lén lút với trẻ, có vẻ bí mật và riêng tư.
Người này cũng làm bạn với nhiều trẻ trên mạng xã hội. Trẻ có thể cảm thấy rùng
mình với một số hành vi của đương sự. Một số người lớn quan sát cảm thấy có gì
đó không ổn trong cách đương sự tương tác với trẻ. Người này thậm chí còn chứa
nhiều đồ chơi trong phòng riêng.
Những dấu hiệu trên cho thấy ranh
giới của người này với trẻ có thể đã không còn. Chúng ta cần can thiệp ngay,
đưa người này vào cộng đoàn cách ly với trẻ/ không có trẻ. Chúng ta cần phải
kiểm tra các dấu hiệu tổn thương (nếu có) nơi trẻ, và cần phải kiểm tra sâu để
phát hiện những hoạt động tiềm ẩn cũng như phát hiện những hành vi lạm dụng có
thể đã xảy ra.
(3) Dấu hiệu nguy hiểm:
khi đương sự đưa trẻ đi chơi riêng và đưa trẻ vào phòng riêng. Trong phòng và
trong máy tính chứa nhiều hình ảnh của trẻ, người này thường thích chơi vật lộn
với trẻ, và dùng tay để sờ soạng khắp cơ thể của trẻ. Thích sờ trẻ ở vùng da
nhạy cảm như đùi, mông, ngực; Hay nói chuyện bông đùa và gợi ý với trẻ về những
chủ đề liên quan đến tính dục, có trường hợp còn cho trẻ uống rượu và chất kích
thích.
Những hành động trên đã có thể được
coi là lạm dụng, và cần phải can thiệp ngay, đưa đương sự cách ly với trẻ;
chúng ta cần phải thực hiện điều tra, nếu hoàn cảnh bắt buộc, cần có sự can
thiệp của cơ quan hành pháp để điều tra. Ngoài ra, việc hỗ trợ tâm lý, hỗ trợ
cho trẻ có liên quan là không thể bỏ qua.
Những dấu hiệu cảnh báo và tiềm ẩn
trên dường như có thể làm cho tương quan của người mục tử và trẻ thơ bị giới
hạn, thậm chí có nhiều nơi xảy ra những thái độ đề phòng thái quá. Tuy nhiên,
đối diện với thực trạng nặng nề về nạn lạm dụng tính dục trẻ, có lẽ chúng ta
phải tập chấp nhận rằng chúng ta không thể ứng xử một cách tự do như trước kia.
Hơn thế nữa, chúng ta cần phải luôn tự hỏi hành vi đó nhằm mục đích gì? Để đề
phòng và đứng trước sự yếu đuối của bản thân, chúng ta phải hiểu rằng, ngày
nay, người giáo sĩ không thể ôm và bế trẻ trên đùi, không thể để cho trẻ ngủ
lại trong phòng của mình cho dù nhiều vùng quê vẫn còn cho rằng đây là những
hành vi bình thường.
Yếu tố cần lưu tâm khi xử lý những
nghi án liên quan đến việc lạm dụng tình dục trẻ của giáo sĩ
Đối với Giáo hội Công Giáo chúng ta,
trong Bộ Giáo Luật ( Code of Canon Law 1983) có phần luật bổ túc liên quan đến
lạm dụng tình dục trẻ được gọi là tội phạm nghiêm trọng (graviora delicta) được
bổ túc theo Motu Proprio Sacramentorum Santitatis Tutela (MPSST),
công bố năm 2001 dành cho những tội phạm vào Điều răn thứ Sáu của giáo sĩ đối
với trẻ dưới 18 tuổi được coi là tội lạm dụng tình dục trẻ em[15]. Việc có chứa, sở hữu, lan truyền
về phim ảnh quan hệ tình dục trẻ cũng được ghép vào tội danh trên. Người lớn
(>18 tuổi) nhưng có sự thiểu năng suy nghĩ và trí tuệ cũng được coi là tương
đương với trẻ (MPSST part 6, #1, n1). Vậy chúng ta có thể hiểu hành vi xâm hại,
hoặc lạm dụng tình dục mà Giáo hội cũng như xã hội lên án, đó là bất cứ hình
thức thoả mãn tình dục nào của người lớn đối với trẻ vị thành niên, bao gồm
việc quấy rối tình dục trẻ, dâm ô trẻ (sờ mó những vùng kín và bộ phận sinh dục
của trẻ) thậm chí sở hữu những phim ảnh khiêu dâm trẻ em cũng bị ghép vào tội
danh trên.
Một điểm quan trọng cần lưu ý đó là,
trong điều số 7 của MPSST có nói đến giới hạn độ tuổi có thể tố cáo hành vi lạm
dụng tình dục của giáo sĩ có thể lên đến 20 năm kể từ khi nạn nhân được 18
tuổi. Thậm chí với những trường hợp nghiêm trọng, giới hạn giá trị của việc tố
cáo có thể lâu hơn. Đây là một chi tiết của giáo luật cho thấy Giáo hội nhấn
mạnh mức độ nghiêm trọng của tội lạm dụng tình dục của giáo sĩ và sự khó khăn
về mặt tâm lý của nạn nhân trước khi nạn nhân có thể can đảm đứng lên cáo buộc
những người đã lạm dụng mình. Hơn thế nữa, luật này cho thấy việc giải quyết
kín đáo và riêng tư với phụ huynh của trẻ để cho mọi chuyện êm xuôi không được
nhắc đến là nguy hiểm. Thứ nhất, hướng giải quyết này không giúp cho phạm nhân
nhận lấy trách nhiệm về hành vi của mình và có thể không được chữa trị đúng
mức. Thứ hai, chúng ta có thể bỏ sót những nạn nhân khác, và kế đến là chính
nạn nhân khi đến tuổi trưởng thành vẫn có thể hồi tố, lúc này người hữu trách
của phạm nhân (như đấng bản quyền và bề trên) cũng có thể bị liên luỵ về trách
nhiệm trước pháp luật và giáo luật. Cuối cùng, do phạm nhân dễ dàng lèo lái và
chối bỏ các cáo buộc trước đấng bản quyền, đồng thời do tính chất phức tạp của
sự lạm dụng tình dục trẻ, việc có một ban tư vấn gồm những người có chuyên môn
về giáo luật, tâm lý… là rất cần thiết để có thể đại diện cho Giám mục tiếp
nhận cáo buộc và điều tra trong sự cẩn mật và khôn ngoan, cũng như can thiệp
kịp thời nhằm bảo vệ sự an toàn của nạn nhân.
Hành Động Mục vụ cần thiết
Trong những lần thuyết trình về đề
tài này, con nhận thấy nhiều người Việt Nam vẫn còn cho rằng giáo dân Việt Nam
rất yêu mến các linh mục, và cho dù có xảy ra chuyện gì họ cũng muốn giải quyết
một cách kín đáo và muốn bảo vệ linh mục. Kế đến nhiều người vẫn còn cho rằng
nạn ấu dâm chỉ xảy ra ở các nước phương Tây, và rất ít trường hợp được báo cáo
ở Việt Nam. Tuy nhiên, trước lời mời gọi tự cáo mình của Đức Thánh Cha, chúng
ta cần phải nhìn nhận một cách trung thực rằng chúng ta đã có phần ỷ lại vào
lòng đạo đức bình dân của anh chị em giáo dân. Đứng trước những vấn nạn về xâm
hại tình dục trẻ em được các báo giới trong nước đưa lên, và sự ảnh hưởng của
phương tiện truyền thông, mạng xã hội, có lẽ không ai trong chúng ta dám quả
quyết rằng các linh mục của chúng ta sẽ không bao giờ mắc phải những lỗi phạm
trên. Học hỏi từ những kinh nghiệm của các Giáo hội phương Tây, có lẽ đây là
lúc cần thiết để chúng ta phải nghiêm túc ngồi lại và đưa ra những đường hướng,
những quy tắc ứng xử cụ thể nhằm xử lý, ngăn chặn nạn lạm dụng tình dục trẻ
trong Giáo hội cũng như kịp thời đồng hành và nâng đỡ các nạn nhân trước những
thương tổn họ phải gánh chịu.
Hơn thế nữa, qua truyền thông chúng
ta cũng được biết nhiều gia đình và cộng đồng vẫn chưa ý thức được mối nguy hại
của vấn nạn lạm dụng và hậu quả của nó để lại. Do đó, ngoài việc phòng ngừa
trong Giáo hội, chúng ta cũng cần lên tiếng để giúp cho các gia đình và con em
trong giáo xứ ý thức được những nguy cơ trên, mời gọi các gia đình có một cuộc
sống quân bình, giáo dục nhận thức cho họ và trang bị cho trẻ những kiến thức
cần thiết nhằm có thể bảo vệ chính mình.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã công bố một
chính sách không khoan nhượng của Giáo hội (Zero Tolerance) đối với tội lạm
dụng tình dục trẻ em của giáo sĩ.[16] Ngoài ra Đức Thánh Cha cũng
nhấn mạnh việc cần thiết lắng nghe nạn nhân trước, tin vào họ và đứng về phía
họ. Ngài mời gọi toàn thể Giáo hội phải có một chương trình “Tông đồ phòng ngừa
lạm dụng tình dục trẻ” (apostolate of prevention)[17] và
khẳng định rằng “bất cứ ai – cho dù người đó là tu sĩ, giáo dân hay Giám mục…
mà có thái độ làm cho trẻ em không đến được với Chúa Giêsu thì cần phải được
ngăn chặn, sửa dạy một cách kịp thời, hoặc trừng phạt nếu có liên can đến tội
ác của sự lạm dụng tình dục”[18].
Trong bài diễn văn bế mạc hội nghị về
bảo vệ trẻ dành cho các chủ tịch Hội Đồng Giám Mục và các bề trên thượng cấp
của các dòng diễn ra tại Vatican[19], Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn
mạnh sự cấp thiết của việc toàn thể Giáo hội Công giáo cần phải hành động một
cách cụ thể để ngăn chặn và phòng ngừa nạn lạm dụng tình dục trẻ trong Giáo
hội. Ngài cũng lưu ý rằng chúng ta phải tránh hai thái cực nguy hiểm, đó là:
(1)Thái độ duy công lý (Giustizialismo) do mặc cảm tội lỗi vì những sai lầm quá
khứ và vì sức ép của truyền thông – tìm kiếm và bắt bớ, lên án những ai mà ta
nghi ngờ. Hoặc (2) Thái độ tự vệ: cho rằng vấn đề này là vấn đề nhỏ, không phù
hợp với hoàn cảnh văn hoá của mình, không xảy ra nơi mình… dẫn đến việc không
giải quyết tận căn mà để lại những hậu quả nghiêm trọng của tội ác.[20] Tuy
nhiên, Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh, cần phải tạo một môi trường an toàn và
lành mạnh cho thiếu niên, cho trẻ nhỏ. Ngài mời gọi toàn thể Giáo hội hoàn toàn
nghiêm túc trong việc xử lý các cáo buộc liên quan đến giáo sĩ lạm dụng trẻ,
không che đậy ém nhẹm, và thậm chí Giáo hội phải làm việc với cơ quan hành pháp
để làm sáng tỏ những nghi án trên một cách minh bạch. Đối với Đức Thánh Cha,
việc giáo sĩ lạm dụng tình dục trẻ là một tội ác của người sống đời Thánh hiến,
vốn nhuốm màu đen tối của sự bất trung và làm biến dạng khuôn mặt của Giáo hội.
Ngài mời gọi Giáo hội phải có sự thanh tẩy thật sự, biết tự cáo mình, và ý thức
được rằng dân Chúa có quyền đòi hỏi các mục tử của mình trở nên đồng hình đồng
dạng với Chúa Kitô - vị mục tử nhân lành… Từ đó, Giáo hội chúng ta cần củng cố
việc đào tạo trong chủng viện, nhấn mạnh việc huấn luyện sự trưởng thành tâm
cảm, quân bình trong tâm sinh lý, thể lý và tín lý… để có thể có một “cuộc sống
hoàn toàn tận tuỵ và dấn thân một cách nhất quán; loại bỏ những người thiếu
quân bình về tâm lý, thể lý, và luân lý; không thể chủ quan cho rằng ơn thánh
sẽ bù đắp những khiếm khuyết tự nhiên về vấn đề này” (n.64 Sacerdotalis
Caelibatus, Thánh Phaolô VI). Kế đến, Ngài đề nghị mỗi Hội Đồng Giám Mục phải
củng cố đường hướng mục vụ nhằm khai triển tốt lối tiếp cận phòng ngừa và xử lý
triệt để các trường hợp nghi án, không che đậy, thông qua bộ quy tắc ứng xử cụ
thể do Hội Đồng Giám mục ban hành cho tất cả các giáo phận, giáo xứ, và các cơ
sở tổ chức thuộc Giáo hội.
Một yếu tố quan trọng mà chúng ta hay
bỏ sót đó là thế giới kỹ thuật số, vốn ảnh hưởng nghiêm trọng lên người trẻ hôm
nay, không loại trừ cả với các ứng viên cho đời sống thánh hiến. Phim ảnh khiêu
dâm tràn lan và hiện tượng nghiện phim ảnh này để lại những hậu quả nghiêm
trọng trong sự phát triển tâm lý tính dục của ứng viên và linh mục. Đối với nạn
nhân của sự lạm dụng tình dục, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta phải biết lắng
nghe, tin tưởng và nâng đỡ họ, giúp họ có thể được chữa lành và được bù đắp
xứng hợp trước những thương tổn họ phải gánh chịu.
Ước mong rằng trong sự khiêm tốn trước
mặt Chúa, với lòng yêu mến Giáo hội và những trẻ em vốn mỏng dòn không thể tự
vệ, mỗi chúng ta sẽ làm mọi việc hết sức có thể để bảo đảm rằng chúng ta sẽ có
những vị mục tử nhân lành như lòng Chúa mong ước, và những trẻ em và thiếu niên
sẽ luôn được bảo vệ trong một môi trường mục vụ thật an toàn.
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN,
Số 114 (Tháng 9 & 10 năm 2019)
[1] Đức Bình, “Gần 70% trẻ em Việt
Nam từng bị bạo hành, xâm hại”, tại https://tuoitre.vn/gan-70-tre-em-viet-nam-tung-bi-bao-hanh-xam-hai-20190418102323645.htm,
truy cập ngày 20.9.2020
[2] Ibid.
[3] https://www.health.harvard.edu/newsletters/harvard_mental_health_letter/2010/july ,
truy cập ngày 20.9.2020
[4] Sperry, L., Ministry and
Community: Recognizing, Healing and Preventing Ministry
Impairment, Liturgical Press, Collegeville, Minnesota:2000, 32
[5] https://members.victimsofcrime.org/media/reporting-on-child-sexual-abuse/effects-of-csa-on-the-victim ,
truy cập ngày 20.9.2020
[6] https://www.counseling.org/docs/disaster-and-trauma_sexual-abuse/long-term-effects-of-childhood-sexual-abuse.pdf?sfvrsn=2 ,
truy cập ngày 20.9.2020
[7] Emery, R., Laumann-Billing, L.,
“Child Abuse,” in M. Rutter, E. Taylor (eds), Child and Adolescent
Psychiatry, Oxford, Blackwell Publishing, 2002, 328- 329.
[8] Rosetti, S., “Some Red Flags
for Child Sexual Abuse,” in Human Development, 15 (1994), No.4,
5-11.
[9] Hanson, R., Prognosis. “How Can
Relapse be Avoided-Discussion” in K. Hanson, K., Pfafflin, F.,Lutz, M. (eds),
Sexual Abuse in the Catholic Church. Scientific and Legal Perspectives,
Città del Vaticano, Editrice Vaticana, 2004, 133-149
[10] Rosetti, “Some Red Flags for
Child Sexual Abuse,” op. cit, 11
[11] Salvatori, A., Salvatori,
S., L’abuso sessuale al minore e il danno psichico. Il vero e il falso
secondo la rassegna della letteratura internazionale, Milano, Giuffrè, 2001
[12] Sperry, L., Ministry and
Community: Recognizing, Healing and Preventing Ministry
Impairment, op. cit., 32.
[13] https://www.avvenire.it/chiesa/pagine/intervista-pedofilia-scicluna_201003130801409170000_201003311353481630000 ,
truy cập 20.9.2020
[14] Sperry, L., Ministry and
community:Recognizing, Healing and Preventing Ministry Impairment, op.
cit. 32-33
[15] Cf. http://www.vatican.va/resources/resources_norme_en.html ,
truy cập 20.9.2020
[16] https://www.franciscanmedia.org/pope-says-church-was-late-fighting-abuse-promises-zero-tolerance/ ,
truy cập 20.9.2020
[17] https://www.ncronline.org/news/accountability/pope-church-needs-apostolate-prevention-protect-minors-abuse ,
truy cập 20.9.2020
[18] Ibid.
[19] https://press.vatican.va/content/salastampa/en/bollettino/pubblico/2019/02/24/190224c.html ,
truy cập 20.9.2020
[20] Ibid.