PHÚNG ĐIẾU
1. Một gia đình nọ, bà nội mới qua đời. Người nhà
bàn việc an táng, anh cả nói rằng chúng ta giàu có, nên viết rõ “xin miễn phúng
điếu”. Người em thì nói miễn luôn vòng hoa. Người chị thì hỏi có nên miễn xin
lễ không. Má lại bảo không nên viết “xin miễn phúng điếu”. Rồi cả nhà cải nhau!
Nên “xin miễn phúng điếu” hay không? Câu trả lời ở nơi thuật từ “phúng điếu”.
Vậy “phúng điếu” nghĩa là gì? Thuật từ này được sử dụng rất phổ biến, nhưng
không phải ai cũng hiểu ý nghĩa của nó, cho nên tìm hiểu ý nghĩa của thuật từ
này là cần thiết.
2. Phúng-điếu
2.1. Phúng: có những chữ Hán sau đây: 賵, (赗), 葑 (còn đọc phong), 風 (còn đọc phong), 諷, (讽), 縫, (缝) (còn đọc phùng).
Trong thuật từ phúng điếu, phúng là chữ 賵 (phúng), có bộ bối (貝) và chữ mạo (冒). Bối (貝) nghĩa là tiền tài,
còn mạo (冒) nghĩa là che đậy. Nên nghĩa nguyên
thuỷ của chữ phúng là tặng áo xống đồ vật cho người chết để che đắp thi hài;
cốt ý là tặng cho người chết, giúp tiền của cho nhà hiếu làm ma chay. Hiện
nay, phúng có nghĩa là: dt. (1) Đồ tặng người chết; đt.
(2) Đem lễ vật tới cúng người chết, dùng xe ngựa giúp người ta chôn kẻ chết.
Chúng ta nên phân biệt rõ: (1) giúp xe ngựa gọi là phúng (賵), giúp tiền bạc gọi là
phụ (賻); giúp quần áo gọi là tuỳ (禭) (2) cho người chết
gọi là phúng (賵), còn cho kẻ sống gọi là phụ (賻) [1].
2.2. Điếu: có những chữ Hán sau đây: 弔, 吊, 窎, 葯, (药) (còn đọc dược, ước), 窵, 釣, (钓). Trong thuật từ phúng
điếu, điếu là chữ 弔 (吊, điếu). 弔 là chữ hội ý, gồm hai
chữ nhân (人) và cung (弓). Cổ xưa người chết
không được chôn, nhưng để nơi hoang vắng và dùng củi che lại, nhà hiếu và những
người đi viếng kẻ chết thường mang theo cung tên để canh giữ, không cho dã thú
ăn xác kẻ chết. Nên nghĩa nguyên thuỷ của chữ này là viếng thăm kẻ chết.
Chữ điếu (弔) nghĩa là: đt. (1) Viếng kẻ
chết; (2) tỏ lòng thương tiếc đối với người chết; (3) an ủi; (4) treo, máng:
điếu kiều (cầu treo, cầu rút); (5) rút lại; (6) xách lấy, cắt lấy; dt.
(7) việc viếng kẻ chết; (8) một xâu tiền thời xưa (một ngàn đồng tiền là một
điếu, cũng như ta nói là một quan vậy). Thật ra chữ điếu (吊) có bộ khẩu (口) là chữ dân gian của
chữ điếu (弔) có bộ cung (弓), xưa hai chữ này đồng
nghĩa, nhưng nay đã sử dụng khác nhau, chữ điếu (弔) có bộ cung (弓) chỉ có nghĩa liên hệ
tới viếng người chết, còn điếu (吊) có bộ khẩu (口) thì dùng cho các
nghĩa treo, máng hay rút lại. Vì chữ Việt là chữ phiên âm,
không thể phân biệt chữ 弔 hay 吊, nhưng chúng ta cũng nên nhớ trong thuật từ phúng
điếu, chữ điếu chỉ có nghĩa viếng kẻ chết, mà không có nghĩa treo,
máng hay rút lại gì cả.
Chữ điếu còn có nghĩa Nôm là: (1) đồ dùng để hút thuốc lào;
(2) thuốc lá cuốn thành hình ống dài để hút: điếu thuốc lá.
2.3. Nghĩa của từ phúng điếu
Từ những tìm hiểu trên, chúng ta thấy phúng có nghĩa
là đem lễ vật tới cúng người chết, hay chính xác hơn là giúp nhà tang
bằng xe ngựa. Ngày nay ít người còn dùng ngựa nữa, chúng ta có thể tạm hiểu
là đem lễ vật tới cúng người chết. Còn chữ điếu nghĩa là viếng
thăm kẻ chết. Vậy phúng điếu là đem lễ vật đến cúng người
chết, thăm hỏi và chia buồn cùng tang quyến.
Lễ vật phúng điếu không chỉ là tiền, mà có thể là vòng hoa,
lẵng hoa, thẻ nhang, nhang đèn, trướng liễn, điếu văn, người Công giáo còn đem
tiền xin lễ nữa… Theo sử kể lại rằng khi vua Khải Định băng hà (1925), hoàng
gia nhận được nhiều trướng liễn phúng điếu, trong đó có trướng liễn của vua Duy
Tân (lúc đó vua đang bị đày ở đảo Réunion) viết:
“Ông vội bỏ đi đâu, bỏ bạc, bỏ tiền, bỏ vợ, bỏ con, bỏ
hát bội, thầy tu, bỏ hết trần duyên trong một lúc”.
“Tôi nay còn lại đó, còn trời, còn đất, còn non, còn
nước, còn anh hùng, hào kiệt, còn nhiều vận hội giữa năm châu” (Theo Hoàng
Trọng Thược).
Tóm lại: Phúng điếu nghĩa là vừa viếng thăm
kẻ chết vừa an ủi tang gia, vừa chia sẻ tinh thần lẫn vật
chất. Vậy khi đã viết câu “xin miễn phúng điếu” mà vẫn đón tiếp người đến thăm
hỏi và chia buồn cùng tang quyến... thì quả là đã làm không đúng với ý nghĩa
của thuật từ này! Có lẽ vì người ta thường chỉ đơn giản hiểu hai chữ phúng
điếu là biếu tiền để giúp tang gia lo việc an táng mà thôi.
2.4. Phong tục Việt
Đây là một thuần phong mỹ tục của người Việt chúng ta,
phúng điếu là hình thức thể hiện lòng kính trọng đối kẻ chết qua những lễ vật
hay điếu văn. Qua những hình thức phúng điếu như vậy người Việt thể hiện tinh
thần tương thân, tương ái, tương trợ giữa con người với nhau. Nếu chúng ta cảm
thấy đủ sức lo việc ma chay và thể hiện lòng hiếu thảo mà không cần người ta
giúp tiền thì cũng có thể nhận tiền biếu để làm việc thiện, đây đã là một thói
quen tốt của nhiều người không Công giáo. Sao chúng ta không bắt chước nhỉ?
Chúng ta có thể dùng tiền phúng điếu đó giúp những cơ sở từ thiện, hay giúp
chủng viện để tào đạo linh mục, tất cả chủng viện tại Việt
3. Văn hoá về sự chết - những khác biệt giữa
Đông và Tây
3.1. Nhất nguyên luận của Trung Quốc và nhị
nguyên luận của Phương Tây
Chúng tôi bàn về Trung Quốc, vì thật ra Việt
Kính thờ tổ tiên là một yếu tố tâm lý rất quan trọng trong
văn hoá Trung Quốc, họ đặt kẻ chết và ma chay với nhãn quan nhất nguyên luận.
Tuy người Trung Hoa rất coi trọng linh hồn, nhưng thông thường họ lại coi trọng
thân thể hơn. Họ không những vẫn xem người chết là một thành viên của gia tộc,
mà còn xem bài vị và ngôi mộ của kẻ chết là tượng trưng tồn tại nối dài của kẻ
chết. Cho nên việc tế tổ được xem là rất thiêng liêng và phải được kính trọng,
việc kính tổ tiên này làm cho người Trung Quốc thích tổ chức ma chay một cách
rất trọng thể.
Phương Tây xem sự chết với quan điểm nhị nguyên luận, họ
coi trọng linh hồn hơn thể xác, coi thể xác chẳng qua là nơi cư trú của linh
hồn. Chết là việc giải thoát và thăng tiến của linh hồn, linh hồn có thể tồn tại
riêng lẻ ngoài thể xác. Lễ an táng là để an ủi linh hồn của kẻ chết, cho nên lễ
an táng rất trang nghiêm và đơn giản.
3.2. Chế độ dòng tộc của Trung Quốc và chế độ
Giáo Hội của Phương Tây
Chế độ xã hội dòng tộc trọng dòng máu, gia tộc, đạo hiếu
của người Trung Quốc đã thắm vào văn hoá về sự chết. Đạo hiếu không những là
nguyên tắc cho kẻ sống, mà cũng là nguyên tắc hoạt động của lễ tang, cho rằng “khi
sống, phải thảo kính cha mẹ bằng lễ đạo, khi chết cũng phải an táng bằng lễ
đạo, tế tự bằng lễ đạo” [2] (Khổng Tử, Luận Ngữ, Vi Chính Đệ Nhị). Cho nên
lễ an táng sẽ cử hành bằng đơn vị cơ bản là gia tộc, nó trở thành một hoạt động
xã hội để đoàn tụ gia tộc với bà con bạn bè.
Bên phương Tây ảnh hưởng của Giáo Hội rất lớn, ảnh hưởng
này giống như tổ chức dòng tộc của Trung Quốc. Trong văn hoá Kitô giáo, sự sống
và sự chết là việc giữa Thiên Chúa và cá nhân. Chết là linh hồn rời khỏi thể
xác về với Chúa, một khi đã chết, con người không còn liên hệ nhiều với bà con
bạn bè, vì thể xác đã hư nát, linh hồn trở về nơi vĩnh hằng.
3.3. Người Trung Quốc chú trọng hình thức,
người phương Tây chú trọng nội tâm
Trong nghi lễ an táng người Trung Quốc rất chú trọng hình
thức, thích phô trương hình thức bề ngoài, thích náo nhiệt, ưa sĩ diện, thích
so sánh, người tham dự càng đông, thì kẻ sống càng được vinh dự. Còn mồ mả cần
xem phong thuỷ, phải đẹp đẽ, phải kiên cố, ngày xưa còn cần rất nhiều lễ vật
chôn theo. Nói cách nghiêm túc, người Trung Quốc tổ chức an táng là để cho
người sống xem, nên chú trọng hình thức.
Người phương Tây có truyền thống tổ chức lễ an táng một
cách đơn giản, lễ an táng cho kẻ chết là tiễn đưa linh hồn. Người phương Tây
tương đối bình tĩnh, chủ yếu là tưởng nhớ những thành tựu của kẻ chết, chú
trọng việc người sống cầu nguyện cho kẻ chết.
4. Kết luận
Từ những khác biệt văn hoá giữa Đông và Tây, chúng ta thấy
được những khác biệt trong tâm thức giữa hai bên. Chúng ta là người phương
Đông, ít nhiều cũng thích có hình thức bề ngoài, mà chúng ta lại là người Công
giáo, lại nghĩ đến phải trở về thế giới nội tâm. Khi tổ chức ma chay, tuy vẫn
nhớ cầu nguyện cho kẻ chết, nhưng chúng ta cũng thích có nhiều vòng hoa, có
nhiều linh mục đến dâng lễ tại gia, cũng muốn có nhiều linh mục đồng tế trong
thánh lễ an táng. Đây là vấn đề hội nhập văn hoá, làm sao dung hoà ngoại tại và
nội tâm. Tôi trộm nghĩ, nếu chúng ta không biết văn hoá của mình là gì, điều gì
là văn hoá của ta, thì chưa thể hội nhập văn hoá được. Cũng thế, nếu chúng ta
hiểu được “phúng điếu” là gì, thì không thể có việc tranh cải có nên “miễn
phúng điếu” hay không.
-------------------------------
[1] Cao Thụ Phan (chủ biên), HÌNH ÂM NGHĨA TỔNG
HỢP ĐẠI TỰ ĐIỂN, NXB. Chánh Trung, Đài Loan, 1971, tr. 1742-1743.
[2] 生,事之以禮;死,葬之以禮,祭之以禮。(Sinh, sự chi dĩ lễ; tử, táng chi dĩ lễ, tế chi dĩ lễ)
-------------------------------
Tham khảo
1. Châu Văn Cán, HOA VIỆT TÂN TỰ ĐIỂN, Thế Giới
Thơ Cuộc, Chợ Lớn, 1960.
2. Cao Thụ Phan, HÌNH ÂM NGHĨA TỔNG HỢP ĐẠI TỰ
ĐIỂN, Đài Loan, 1971.
3. Lý Lạc Nghị, TÌM VỀ CỘI NGUỒN CHỮ HÁN, NXB.
Thế Giới, Hà Nội, 1997.
4. Bộ Giáo dục Đào tạo, Nguyễn Như Ý (chủ
biên), ĐẠI TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT, NXB. Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, 1999.
5. Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê (chủ biên), TỪ
ĐIỂN TIẾNG VIỆT, Đà Nẵng, 2005.
6. Viện Ngôn ngữ học, Phan Văn Các (chủ
biên), TỪ ĐIỀN HÁN VIỆT, NXB. TP. HCM, 2001.
7. Châu Hà (chủ biên), QUỐC NGỮ HOẠT DỤNG
TỪ ĐIỂN, NXB. Ngũ
8. KHƯƠNG HY TỰ ĐIỂN, NXB. Hán Ngữ Đại Từ Điển,
2002.
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ