THỐNG HỐI
1. Trong bài tìm hiểu về thuật từ sám hối
kỳ trước, chúng tôi nhận thấy thuật từ này có nguồn gốc từ Phật giáo, nội dung
trong nhà Phật khác với quan niệm của Công giáo về “sám hối”. Vì vậy, trong bài
này, chúng ta thử tìm hiểu thêm những từ có thể diễn tả ý niệm “ăn năn, hối
hận về tội lỗi của mình” [1], hoặc “hối hận vì đã mắc lỗi và mong sửa
chữa” [2], sẵn có trong tiếng Việt nhưng hoàn toàn không có liên quan đến
nội dung sám hối của nhà Phật…
2. Hiện nay, chúng ta đang có nhiều thuật từ có
nội dung tương đồng với thuật từ sám hối. Có thể kể ra sau đây:
- Ân hận: Ân = lo lắng; Hận = giận ghét;
Ân hận = băn khoăn, day dứt và tự trách mình trước việc không hay đã để xảy ra.
- Ăn năn = Cảm thấy day dứt, giày vò
trong lòng về lỗi lầm đã mắc phải. Từ này xưa kia Cha Đắc Lộ giải thích: "
- Cải hối: Cải = sửa đổi; Hối = nuối
tiếc; Cải hối = biết lỗi nên chịu sửa đổi và hứa chẳng tái phạm nữa.
- Hối cải = Cải hối.
- Hối hận = Cảm thấy đau khổ, tự trách
mình đã lầm lỗi.
- Hối quá: Quá = lầm lỡ ; Hối quá = ăn
năn vì đã làm điều lầm lỡ.
- Hối lỗi: Lỗi (thuật từ Hán Việt đã hóa
Nôm 磊) = điều lầm lỡ, tật chứng nhẹ; Hối lỗi = hối
quá.
- Hối tiếc: Tiếc (chữ Nôm 惜) = xót vì mất, sợ hư
hao; Thuật từ này ghép bởi hai chữ Hán, Việt đồng nghĩa.
- Hối tội : Tội = điều phạm pháp ; Hối
tội = hối quá.
- Tự hối: Tự = riêng mình; Tự hối = tự
mình ăn năn.
- Thống hối (痛悔) là rút ngắn của “thống
tự hối cữu” (痛自悔咎). Thống (痛) có nghĩa là dt.
(1) Đau đớn; (2) Họ Thống; đt. (3) Lo buồn: Bi thống; (4)
Khổ não; (5) Căm ghét ; tt. (6) Rất nhiều : Thống khoái
(sướng hết sức); Hối là hối lỗi thừa nhận lỗi lầm [6]; Cữu (咎) có nghĩa là dt.
(1) Lỗi lầm. đt. (2) Trách lỗi. "Thống tự hối cữu"
nghĩa là hết sức đau lòng vì biết lỗi hối ngộ và tự trách mình. Thống hối
= Ăn năn cách đau đớn hoặc ăn năn rất nhiều.
3. Thuật từ thống hối rất quen thuộc đối
với mọi người Công giáo cả Việt Nam lẫn Trung Quốc, thế nhưng lại vắng bóng
trong hầu hết các từ điển ngoài Công Giáo, kể cả quyển TỪ HẢI của Trung
Quốc (2001) và Đài Loan (1972), ngoại trừ - theo chúng tôi được biết - hai
quyển VIỆT NAM TỰ ĐIỂN của Lê Văn Đức [7] và TỪ ĐIỂN HÁN VIỆT
của Viện Ngôn Ngữ Học [8].
Thuật từ thống hối có nguồn gốc từ Công giáo. Thực
vậy, thuật từ này đã có trong các từ điển của Paulus Của (1895) [9], của cha
Eugène Gouin (1957) [10]vv và trên 350 năm trước, đã thấy dùng trong bản kinh
vãn nguyện giỗ “Phục Dĩ Chí Tôn” (nguyên văn bằng chữ Hán) do thầy Phanxicô
biên soạn khi hợp tác với cha Majorica ở Đàng Ngoài (1631-1656):
Mạc toàn kính toàn tuân toàn phụng.
Ngẫu tao, thử ách, thống hối vị chân.
Ô hô! Sinh nhật dĩ hoàn, mệnh chung thích chí.
Khí linh đãi tận, bồi hồi thuấn tức chi gian.
Nghĩa là:
Làm quấy sai ngoa, không kính không tuân không
thờ.
Nay thình lình gặp nạn, thống hối chưa
nên.
Than ôi! Đời sống đã tàn, lâm chung đã tới.
Khí thiêng đã hết, đang cơn hoi hóp bồi hồi.
Bên Trung Quốc, hơn kém trong khoảng thời gian này dưới
triều nhà Thanh, đã có bản dịch Kinh Ăn Năn Tội (Actus Contritionis) gọi là
“Thượng Đẳng Thống Hối Kinh”.
Cha Đặng Đức Tuấn (1806-1874) đã diễn tả tâm tình thống hối
một cách rất cảm động trong những lúc tĩnh tâm, tự xét mình giữa đêm khuya
thanh vắng qua trường thi "Thống Hối Đề Ngâm" như sau:
Lương tâm buồn bực thiết tha,
Hằng đêm châu luỵ chan hoà thấm trôi.
Trí khôn rối rắm vô hồi,
Ngày nào cho đặng phản hồi cùng Cha.
Lòng tôi đau đớn xót xa,
Xin Chúa chớ lấy oai gia nghiêm trừng
Lòng tôi thống thiết bâng khuâng
Chúa rất nhơn thứ xin đừng bỏ chê,
Tội lỗi gánh rất nặng nề,
Đón ngăn ơn Chúa, chở đè mình tôi,
Canh trường ngùi thảm thương ôi!
Nhớ Chúa trọn tốt, giận tôi bạc tình.
Tôi như mồ mả trắng tinh,
Trong đầy xương thúi ngoài hình vôi tô.
Tôi như cây đã héo khô,
Chẳng còn bông trái đáng vô hoả hình!
(Thống Hối Đề Ngâm, câu 47-62)
4. Kết luận
Như vậy, thống hối là thuật từ đã được sử dụng lâu
đời và phổ biến trong Công Giáo với nội dung hoàn toàn thích hợp để diễn tả
khái niệm ăn năn tội (contritio) hay sám hối (paenitentia) trong Đạo mà không
sợ lẫn với quan niệm về sám hối trong các tôn giáo khác. Thuật từ này rất phù
hợp để dịch câu định nghĩa về contritio của Công Đồng Trentô: "Thống
hối là cảm thấy đau buồn, gớm ghét tội đã phạm và quyết chí chừa cải"
[11] hay Ordo Paenitentiae dịch là Nghi Thức Thống Hối... Có lẽ
vì lý do này mà thuật từ "thống hối" vẫn được sử dụng rất phổ
biến trong các sách phụng vụ như Sách Lễ Rôma (2005) (công thức thống hối,
hành động thống hối…) chẳng hạn.
------------------------------
[1] Nguyễn Như Ý (chủ biên), ĐẠI TỪ ĐIỂN TIẾNG
VIỆT, NXB. Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, 1999.
[2] Nguyễn Lân, TỪ ĐIỂN TỪ VÀ NGỮ VIỆT
[3] Alexandre de Rhodes, TỪ ĐIỂN
[4] J.B. Tavernier, SUITE DES VOYAGES DE MGR
TAVERNIER, BARON D'AUBONNE, Paris, 1680, phần IV, tr. 22: "Mais s'il y a
bien pour un coupable de demander pardon de son crime, on le mène devant celuy
qui le doit écouter et alas il faut qu'il ait à la bouche un bouquet d'herbe
qui donne à entendre que par le déréglement de sa vie et sa mauvaise conduite,
il s'étoit rendu semblable aux bestes".
[5] Gs. Lê Ngọc Trụ, TẦM NGUYÊN TỪ ĐIỂN VIỆT
[6] x. BÀI GIẢNG CHÚA NHẬT, số 09-2008, tr.
109.
[7] Lê Văn Đức, VIỆT
[8] Phan Văn Các (chủ biên), TỪ ĐIỂN HÁN VIỆT,
Viện Ngôn ngữ học, TPHCM, 2002: Thống hối = rất ăn năn hối hận.
[9] Huỳnh Tịnh Paulus Của, ĐẠI NAM QUẤC ÂM TỰ
VỊ, Rey, Curiol & Cie, Sài Gòn, 1895. nxb. Khai Trí, Sài Gòn, 1974: Thống
hối = ăn năn, trách mình.
[10] Lm. Eugène Gouin, MEP, DICTIONNAIRE
VIETNAMIEN CHINOIS FRANÇAIS, D’Extrême Orient, Sài Gòn, 1957: Thống hối =
regrette, se repentir, contrit (ăn năn, hối tiếc, hối hận, hối quá, bị dày
vò, cắn rứt).
[11] "Contritio, quae primum locum inter
dictos paenitentis actus habet, animi dolor ac detestatio est de peccato
commisso, cum proposito non peccandi de cetero" (DZ.1676).
***
Phụ lục
Năn (eleocharis equisetina) là một loại cỏ mọc ở
vùng đất phèn hay vùng nước lợ, cây suôn tròn, cao từ 30 đến 40cm, bọng, có mắt
dài, phát hoa dài trắng, được dùng dồn nệm hay gòn. Thân của nó dùng làm đan
chiếu, thảm, giỏ và một số vật dụng trang trí thủ công mỹ nghệ... Đặc biệt có
một số loại năn củ (eleocharis tuberosa) của nó là thức ăn ưa thích của loài
sếu đầu đỏ.
Lm. Stẹphanô Huỳnh Trụ