GIÁNG SINH
“Hang Bêlem” là bài ca danh tiếng của nhạc sĩ Phanxicô Hải
Linh, câu mở đầu là “Đêm đông, lạnh lẽo Chúa sinh ra đời”, vậy mà ca sĩ
nọ lại hát là “Đêm đông lạnh lẽo Chúa giáng sinh ra đời”. Hai chữ
“giáng sinh” đã đi vào đầu óc chúng ta từ lâu, ngày Chúa hạ sinh, chúng ta nói
là Chúa giáng sinh.
Lễ Giáng Sinh tiếng Latinh là Nativitas Domini (Sinh nhật
của Chúa [1]), tiếng Anh là Christmas (do chữ “Christ’s Mass” nghĩa là Thánh lễ
của Đức Kitô), tiếng Hoa gọi là Thánh Đản Tiết (Thánh: vị thánh; đản: sinh ra;
tiết: tết, ngày mừng).
1. Nguồn gốc
Trong những thế kỷ đầu, Hội Thánh chú tâm vào việc loan báo
cuộc khổ nạn, sự chết và sống lại của Chúa, nên không mừng ngày sinh của Chúa.
Các tín hữu họp nhau trong ngày Chúa Nhật, ngày phục sinh của Chúa. “Tuy
nhiên, ngay từ năm 200, Thánh Clementê Alexandria (150-215) đã nói đến một lễ
hết sức đặc biệt được cử hành vào ngày 20 tháng 5. Còn Hội Thánh Latinh thì
mừng kính lễ ấy vào ngày 25 tháng 12” [2]. Năm 354, Đức Giáo Tông Liberius
công bố ngày 25 tháng 12 là ngày chính thức để cử hành Lễ Giáng Sinh của Chúa
Giêsu, thay cho ngày lễ ăn mừng Thần Mặt Trời của người Rôma.
2. Nghĩa của chữ giáng, sinh
2.1. Giáng: Có 4 chữ Hán, ở đây là chữ降, nghĩa là: (đt.) (1) Rơi, rụng
xuống: Sương giáng (sương xuống); (2) Hạ xuống: Giáng quan
(quan phải xuống chức dưới cái chức đang làm); (3) Ban cho: Giáng phúc
(ban ơn phước); (4) Người đáng kính quang lâm: Giáng giá (ngài đến); (5)
Nén lại: Giáng tâm tương tùng (nén lòng cùng theo); (6) Sau này: Tự
tư dĩ giáng (từ này về sau).
2.2. Sinh: Có năm chữ Hán, trong trường hợp này là
chữ生, nghĩa là: (dt.)
(1) Mạng sống: Dưỡng sinh (nuôi mạng sống); (2) Quãng đời sống: Sinh
thời (khi còn sống); (3) Cuộc sống: Khởi tử hồi sinh (từ chết sống
lại); (4) Hết thảy những gì có sự sống, nói chúng: Sinh vật; (đt.)
(5) Đẻ, sinh sản, sinh ra: Sinh tử (đẻ con) (6) Làm ăn
kiếm sống, nuôi: Kế sinh nhai (các cách để nuôi sống); (7) Xảy ra: Sinh
bệnh; (8) Gây ra: Sinh sự; (9) Nhóm lửa: Sinh lư tử (đốt lò);
(10) Mọc ra: Sinh căn (đâm rễ); (11) Xuất hiện, hiện ra: Phát
sinh;; (12) Trưởng thành: Sinh đắc như hoa tự ngọc (trưởng
thành đẹp như hoa như ngọc); (13) Nho sĩ: Thư sinh; (14) Học trò: Học
sinh; (15) Họ Sinh; (tt.) (16) Chưa chín: Sinh tích tân
quả (một trái táo xanh), sinh nhục (thịt sống); (17) Chưa quen biết:
Sinh khách (khách lạ); (pht.) (18) Rất nhiều: Sinh thống
(đau lắm); (19) Cưỡng bách: Sinh lạp ngạnh xả (生拉硬扯cố mà kéo); (trợ từ) (20) Dùng
làm tiếng đệm: Y sinh (thầy thuốc)
3. Nghĩa của từ giáng sinh
Giáng là hạ xuống, sinh là sinh ra, giáng
sinh là từ trên hạ xuống mà sinh ra. Theo cuốn “Trùng Biên Quốc Ngữ Từ Điển Tu
Chính Bản” [3] thì giáng sinh là mục từ viết tắt của câu “Kim Đồng
giáng thế, Ngọc Nữ tái sinh”. Truyện kể [4]: “Kim Đồng, Ngọc Nữ là hai
tiểu thần của Chân Vũ Đại Đế. Hai vị chịu trách nhiệm ghi chép thiện, ác, công
lao hay tội lỗi của tam giới. Kim Đồng bị ảnh hưởng việc lấy vợ gã chồng của
trần gian, nên đã chọc ghẹo Ngọc Nữ, bị Chân Vũ Đế phát hiện, nên đã giáng
xuống nhân gian. Kim Đồng làm một ông già bói toán. Vì trước đó phụ trách sổ
sách của Chân Vũ Đế, “
Ngày nay khi nói đến giáng sinh thì người ta chỉ
nghĩ đến từ trên hạ sinh. Khi người ta chúc mừng con người khác thông minh tài
giỏi, thì nói “thạch lân giáng thế”, nghĩa là con thạch kỳ lân trên trời bị
giáng xuống thế gian. Thật ra nghĩa chính của thuật từ này chỉ có nghĩa là sinh
ra đời, nhưng thường nói về việc sinh ra đời của một bậc vĩ nhân, một người
sáng lập ra một tôn giáo hay có khi cũng nói về sự xuất hiện những bậc thần tiên
xuống thế.
Giáng thế, giáng trần hay giáng phàm
đều có cùng một nghĩa là xuống thế gian, trần gian hay cõi phàm trần này;
còn giáng sinh thì có nghĩa khác một chút là (từ cao) xuống thế sinh
ra.
Ngày lễ Chúa Giêsu sinh ra đời, Trung Quốc gọi là Thánh
Đản Tiết (nghĩa là ngày lễ mừng vị thánh sinh ra đời). Người Đài Loan thì
gọi là Gia [5] Đản Tiết. Họ quan niệm Khổng Tử mới là vị thánh, nên gọi
mừng ngày sinh của Khổng Tử là Khổng Thánh Đản Tiết. Nhưng trên thực tế, khi
nói đến Thánh Đản Tiết ai cũng hiểu là lễ sinh nhật của Chúa Giêsu.
Nhận xét
Ở Việt Nam, vì kính huý Danh Thánh Chúa, nên “Societas
Jesus” thường được gọi là Dòng Tên, chứ không gọi là Dòng Chúa Giêsu. Cũng vậy,
Lịch Phụng Vụ trước đây (1967) ghi ngày 25/12 là Lễ Sinh Nhật Đức Chúa Giêsu, nhưng
Kitô hữu Việt Nam chỉ gọi là Lễ Sinh Nhật mà thôi. Hiện nay, khi nói đến Lễ
Giáng Sinh, ai cũng hiểu là lễ mừng sinh nhật của Chúa Giêsu, tuy giáng sinh
chỉ có nghĩa là hạ sinh, cũng không chỉ rõ ai giáng sinh.
---------------------------------------
[1] Từ Chúa (Dominus) ở đây phải hiểu là Chúa
Giêsu Kitô - Ngôi Lời nhập thể, chứ không phải là Thiên Chúa (Deus). Trong
Thánh Kinh, Dominus ám chỉ quyền lãnh chúa phổ quát và tuyệt đối của Giavê
(trong Cựu Ước) hay của Chúa
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ