Học thuyết Xã hội Công
giáo diễn tả suy tư của Giáo hội về các thực tại xã hội trong thời đại chúng
ta qua việc thẩm định các thực tại xã hội đó chiếu theo ánh sáng Phúc Âm, và đề
nghị những nguyên tắc chỉ dẫn nếp sinh hoạt thực tiễn nơi xã hội này. Từ nền
tảng ấy, giáo thuyết xã hội là một lối áp dụng của thần học, và đặc biệt là
thần học luân lý, vào các vấn đề đạo đức mà xã hội con người thắc mắc[1]
Chúng tôi sẽ trình bầy về Học thuyết Xã hội Công giáo trên 2 trọng
điểm: Tiến trình hình thành và tóm lược Học thuyết Xã hội Công giáo.
I.
Tiến trình hình thành của Học thuyết Xã
hội Công giáo.
Tư tưởng xã hội của Giáo hội Công giáo là sứ mạng giáo huấn của
Giáo hội dưới ánh sáng của kinh nghiệm về cuộc sống xã hội trải qua bao thế kỷ
dựa trên nền thần học đạo đức áp dụng vào các vấn đề xã hội; nó không thể nào
so sánh với một lập trường ý thức hệ. Nó cũng không phải là một bản tóm lược dự
án riêng cho một hệ thống kinh tế hoặc xã hội, cũng không phải là một ước mơ
được lý tưởng hóa.
Giáo huấn đó là một kinh nghiệm thu thập dần hồi và được coi là một
tiến trình đang phát triển mạnh mẽ hơn là một bộ luật bất động về các mẫu mực
xã hội nhất định.
Vấn đề xã hội đã được các Giáo phụ, từ Clêmentê
Đến cuối thế kỷ XVIII
sang đầu thế kỷ XIX, trào lưu kỹ nghệ xuất phát, đi kèm với việc áp dụng chủ
nghĩa tự do kinh tế, đã làm cho các giá trị cổ truyền lung lay. Tình cảnh bất
công của giới lao động thúc đẩy Kitô hữu trong các nước trên đường kỹ nghệ hóa
lúc đó suy nghĩ và hành động. Thánh Gioan Bosco (1815-1888) sáng lập dòng
Salésiens với tổ chức giáo dục và công tác xã hội, chân phước Frédéric Ozanam (
1813-1853) sáng lập Hội Thánh Vinh Sơn v. v. . .
Năm 1891 là thời điểm
chín mùi để Giáo hội Công giáo đưa ra một viễn ảnh và một giáo huấn có hệ thống
hơn về vấn đề xã hội qua Thông điệp Rerum Novarum của Đức Lêo XIII (1878-1903). Rerum Novarum
chỉ trích và lên án nặng nề các lạm dụng của chủ nghĩa tư bản cũng như các ảo
tưởng của chủ nghĩa Cộng sản thời đó. Tầm quan trọng của Rerum Novarum được xác minh qua sự kiện lễ mừng kỷ
niệm văn kiện này được tổ chức đều đặn bằng những văn kiện bổ túc hay khai
triển, qua các thông điệp, tông huấn, tông thư, tuyên ngôn hay sứ điệp: Quadragesino
Anno (Năm Thứ Bốn Mươi, 1931), Divini Redemptoris (Chúa Cứu Chuộc,
1937), Mater et Magistra (Mẹ Và Thầy, 1961), Octogesima Advenniens (Tám
Mươi Năm Đã Đến, 1971), Laborem Exercens (Thực Hành Lao Động, 1981),
đặc biệt là Centesimus Annus (Một Trăm Năm, 1991) kỷ niệm 100 năm Thông
điệp Rerum Novarum, ra đời sau khi chủ nghiã cộng sản sụp đổ tại Nga và
Đông Âu.
Vấn đề phát triển con người theo Học thuyết Xã hội Công giáo đã
được Đức Phaolô VI công bố Thông điệp Populorum Progressio (Phát Triển
Các Dân Tộc, 1967) và Tông huấn Evangelii Nuntiandi (Rao Giảng Tin Mừng,
1975), Đức Gioan Phaolô II với Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis, (Mối
Quan Tâm Xã Hội, 1987),và Thông
điệp Redemptor Hominis (Đấng Cứu Chuộc Nhân Thế, 1979).
Công đồng Vaticanô II nhận ra yếu tố xã hội của các vấn đề hôm nay khi
cổ súy một cuộc đối thoại mới giữa đức tin Kitô giáo và thế giới. Hiến chế Mục
vụ, Gaudium et Spes- Vui Mừng và Hy Vọng -
đã đề cập đến các vấn đề: nhân phẩm, cộng đồng nhân loại, con người
trong vũ trụ, vai trò Giáo hội, phẩm giá hôn nhân và gia đình, sinh hoạt văn
hóa, phát triển các dân tộc, kinh tế, chính trị, hòa bình, cộng đồng quốc tế. .
.
Ngoài ra, cũng
có tác giả tổng kết tiến triển của Học thuyết Xã hội Công giáo qua 20 văn Kiện
sau đây:
1- Lêo XIII, Thông điệp Inscrustabili (1878)
2- Lêo XIII, Thông điệp Diuturnum
(1881)
3- Lêo XIII, Thông điệp Immortale Dei (1885)
4- Lêo XIII, Thông điệp Rerum Novarum- Tân
Sự (15.5.1891)
5- Piô XI, Thông điệp Ubi Arcano (1922)
6- Piô XI, Quadragesimo Anno- Tứ Thập Niên (1931)
7- Piô XI- Thông điệp Divini Redemptoris (1937)
8- Piô XII, Thông điệp Summi Pontificatus (1939)
9- Piô XII, Kỷ niệm năm mươi năm của "Rerum Novarum"
(1941)
10- Piô
XII, Tương lai của văn minh Kitô giáo (1944)
11- Piô XII, Diễn văn đọc trước các vị Hồng y (1946)
12- Gioan XXIII, Mater et Magistra- Mẹ và Thầy (1961)
13- Đức Gioan XXIII, Pacem
in Terris-Hòa Bình Trên Trái Đất (1963), Sứ điệp hòa bình gửi đến mọi người thành tâm thiện chí.
14- Các tài liệu Công đồng Vaticanô II (1962-1965)
15- Phaolô VI, Thông điệp Populorum
Progressio- Phát Triển Các Dân Tộc (1967)
16- Phaolô VI, Octogesima Adveniens- Bát Thập Niên (1971)
17- Gioan-Phaolô II, Thông điệp Redemptor
Hominis- Đấng
Cứu Chuộc Con Nguời (1997)
18. Gioan-Phaolô II, Thông điệp Laborem Exercens- Lao Động của Con Người (1981)
19- Gioan-Phaolô II, Diễn văn đọc tại cuộc hội nghị chuyên đề "Từ Rerum Novarum (Tân Sự) đến Laborem Exercens (Lao Động
của Con Người)" (1982)
20- Gioan-Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis- Quan
Tâm Đến Vấn Đề Xã Hội (1987)
II. Văn Kiện “Sưu Tập
Những Bản Văn Giáo Hội’ (The Social Agenda) năm 2000
Trong Năm Thánh
2000, nhiều tập san đã tập hợp những yếu tố khác nhau của học thuyết xã hội
công giáo. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cũng chứa đựng nhiều yếu tố và tạo
nên một trong những nguồn mạch chính thức nhất. Riệng Hội Đồng Giáo hoàng về
Công Lý và Hòa Bình do Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận làm Chủ Tịch đã thu thập
một bộ sưu tập hữu ích gồm những bản văn liên quan tới học thuyết xã hội của
Giáo hội.
Người đọc gặp được trong bộ sưu tập này những lời tuyên bố chính
yếu của các Đức Giáo hoàng, trích từ một số bản văn khác biệt, kể cả các Thông
Điệp Giáo Hoàng, các Tông Thư và những tài liệu Công Đồng về các chủ đề liên
quan tới chính trị, kinh tế và văn hoá. Dưới mỗi một tiêu đề theo chủ đề, những
phần trích dẫn được xếp hạng theo một thứ tự niên biểu hay huấn giáo - và mỗi
một chủ đề bắt đầu bằng một trích dẫn giải thích vấn đề được bàn tới.
Cuốn sách đã được Đức Ông Nguyễn Quang Sách dịch sang tiếng Việt và
đồng ý cho Diễn Đàn Giáo Dân phổ biến dưới tựa đề Học Thuyết Xã Hội Công Giáo.
Thật tình, cuốn sách này khó đọc và khó hiểu. Lý do đây không phải
là một cuốn sách được viết ra có “bài bản” mà chỉ là “sưu tập” những đoạn liên
hệ đến chủ đề từ những văn kiện khác nhau. Tỷ dụ như Phần Giáo Hội là Mẹ và
Thầy ở Chương I, là sự góp nhặt các đoạn : Mater et Magistra, số 1, Rerum
Novarum, số 16, Mater et Registra, số 2 và số 6, Redemptoris Hominis, số 19,
Giáo Luật, số 747, và Veritatis Splendor,
số 27. Nó không có mở đầu, diễn dịch và kết luận. Thực ra, đó là bước thứ nhật
cho cuốn Học thuyết Xã hội Công giáo hoàn chỉnh được ấn hành vào năm 2004.
Cuốn Chương Trình Hành
Động Xã Hội, Tuyển Tập Những Văn Kiện Giáo Quyền[2]
in năm 2000 rút ra từ 369 đoạn trích dẫn đã quy tụ lại 10 chủ điểm:
1.
Bản chất Học thuyết Xã
hội của Giáo hội
2.
Con Người
3.
Gia đình
4.
Trật tự xã hội
5.
Vai trò của nhà nước
6.
Vấn đề kinh tế
7.
Lao động và Tiền lương
8.
Sự nghèo đói và đức bác ái
9.
Môi trường
10.
Cộng đồng thế giới
III. Sự ra đời của cuốn “Tóm
lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo” (Compendium of the Social
Doctrine of the Church) năm 2004.
Nối tiếp công việc
của Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, năm 2004 Hội Đồng Giáo Hoàng về Công Lý và
Hòa Bình, dưới sự điều kiển của Đức Hồng Y Renato Rsffaele Martino, đã thực hiện
cuốn sách gọi là bản tóm lược, thu thập tất
cả các chất liệu và trình bày một cách hệ thống, để giới thiệu những điều cơ
bản của Học thuyết Xã hội Công giáo. Tài liệu này cũng trình bày giá trị của
Học thuyết Xã hội Công giáo như một phương tiện để rao giảng Tin Mừng, bởi vì
tài liệu này đặt con người và xã hội trong mối tương quan với ánh sáng Tin
Mừng. Những nguyên tắc của Học thuyết Xã hội Công giáo đặt nền tảng trên luật
tự nhiên, vì thế được xác nhận và củng cố trong niềm tin của Giáo hội nhờ Tin
Mừng của Đức Kitô.
Qua bản Tóm lược này, chúng ta có thể thấy tầm
quan trọng của các giá trị đạo đức đặt nền móng trên luật tự nhiên được ghi
khắc trong lương tâm của con người; vì thế, mỗi lương tâm con người bắt buộc
phải nhìn nhận và tôn trọng luật tự nhiên này. Rõ ràng là Giáo hội phải
làm cho tiếng nói của mình vang dội đến mọi người và Giáo hội có nhiệm vụ mời
gọi mọi người làm tất cả những gì có thể được để hướng đến một nền văn minh
đúng nghĩa càng ngày càng nhắm tới sự phát triển toàn diện của con người trong
tình liên đới.
Cuốn sách
đã được Uỷ ban Bác ái Xã hội thuộc Hội đồng Giám mục Việt
Ủy Ban đã in nội dung cuốn sách thành hai ấn
bản. Một ấn bản “Phổ thông” dành cho quảng đại độc giả và một ấn bản tạm gọi là
“đầy đủ”, có thêm phần tra cứu, dành cho những độc giả nào muốn tham khảo, đối
chiếu chi tiết về nội dung Học thuyết Xã hội Công giáo. Nội dung ấn bản Phổ
thông là các phần chính văn gồm Nhập đề và 12 chương sách, kèm thêm 1232 số chú
thích của bản gốc Anh ngữ. Ấn bản đầy đủ gồm tất cả nội dung của ấn bản Phổ
thông cộng thêm các phần: Mục lục tham khảo về Thánh Kinh và các văn kiện như
Công đồng Vatican II, các Thông điệp, Tông thư, Tông huấn, Sứ điệp của các Giáo
hoàng, các Huấn thị của các Bộ, Hội đồng Giáo hoàng và các văn kiện khác; mục
lục hình ảnh và mục lục phân tích chủ đề.
Nội dung cuốn sách được
chia ra như sau:
Nhập đề (1-19) Một nền
nhân bản toàn diện và liên đới
Chương I (20-59) Kế
hoạch yêu thương của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Chương II (60-104) Sứ
mạng của Giáo hội và Học thuyết Xã hội
Chương III (105-159)
Con Người và Nhân Quyền
Chương IV (160-208) Các
nguyên tắc của Học thuyết Xã hội Công giáo
Chương V (209-254) Gia
đình, tế bào sống động của xã hội
Chương
VI ( 255-322) Lao Động của Con Người
Chương
VII (323-376) Đời sống kinh tế
Chương
VIII (377-427) Cộng đồng Chính trị
Chương IX (428-450) Cộng đồng Quốc tế
Chương
X (451-487) Bảo vệ Môi trường
Chương
XI (488-520) Cổ vũ Hòa bình
Chương
XII (521-574) Học thuyết Xã hội và hoạt động của Giáo hội
Kết
luận (575-583) Vì một nền văn minh tình yêu
Cuốn sách được
trình bầy khá chi tiết, theo phương pháp sư phạm, dễ hiểu, gồm 583 đoạn. Mỗi
đoạn đều có một câu đầu mà ta thường gọi là “topic sentence” tóm lược toàn thể
đoạn văn.
IV.Những Điểm Cơ Bản Về Học Thuyết Xã Hội Công
Giáo
Thật rất khó khăn để
nói về những điểm cơ bản của Học thuyết Xã hội Công giáo trong mấy trang giấy.
Chúng tôi cố gắng ghi lại Những Điểm
Cơ Bản Về Học Thuyết Xã Hội Công Giáo
PHẦN I
Chương I: Kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa đối với nhân loại
1. Thiên Chúa đã sáng tạo nên vũ trụ và dựng nên con người. Đức Giêsu Kitô
hoàn thành kế hoạch yêu thương của Chúa Cha. Ngài nối lại mối tương quan giữa
Thiên Chúa với loài người và muôn vật. Ngài mạc khải tình yêu vô biên của Thiên
Chúa Ba Ngôi bằng lời nói và việc làm, bằng cái chết và sự sống lại để chúng ta
được trở thành con cái Thiên Chúa và anh chị em với nhau.
2. Giáo
hội tiến vào Thiên Niên Kỷ Thứ Ba của kỷ nguyên Kitô giáo như một đoàn dân lữ
hành, dưới sự hướng dẫn của Đức Kitô. Giáo hội cống hiến học thuyết xã hội cho những người bạn đồng hành với
mình, là mọi người hôm nay. Khi
khám phá ra mình được Thiên Chúa yêu thương, người ta mới hiểu được phẩm giá
siêu việt của mình, Tình yêu Kitô giáo sẽ đưa chúng ta tới chỗ tố cáo, đề nghị
và dấn thân vào những dự án văn hoá và xã hội; tình yêu này thúc đẩy sự hoạt
động tích cực để tất cả những ai thành thật coi trọng ích lợi của con người đều
muốn góp phần.
Chương II: Sứ Mạng của Giáo hội và Học thuyết Xã
hội
1. Khi chia sẻ với nhân loại những
vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng, Giáo hội đã đứng về phía mỗi con người ở
mọi nơi mọi thời, mang tin vui Nước Chúa đến cho họ, Nước ấy đã xuất hiện nơi
Đức Giêsu Kitô và vẫn đang tiếp tục hiện diện giữa nhân loại. Với giáo huấn xã hội, Giáo hội tìm cách công bố Tin Mừng và làm cho Tin
Mừng hiện diện trong hệ thống phức tạp các mối quan hệ xã hội.
2. Học
thuyết xã hội của Giáo hội “tự nó là một công cụ hữu hiệu để Phúc Âm hoá”, và
học thuyết ấy được khai sinh là bởi những cuộc gặp gỡ luôn mới mẻ của thông
điệp Tin Mừng với đời sống xã hội. Học thuyết xã hội của
Giáo hội ban đầu không được dự tính là một hệ thống quy củ, nhưng được thành
hình theo dòng thời gian, qua nhiều lần can thiệp của Huấn Quyền trước các vấn
đề xã hội. Bởi đó, học thuyết
xã hội của Giáo hội mang bản chất thần học, chính xác là thần học luân lý,
“vì đó là học thuyết nhằm hướng dẫn
cách cư xử của con người”.
3. Học thuyết xã hội của Giáo hội đặt nền
tảng trên mạc khải Thánh Kinh và Truyền thống Giáo hội. Đức tin và lý trí diễn tả hai con đường nhận
thức khác nhau của học thuyết xã hội Công giáo: đó là mạc khải và bản tính con
người. Học thuyết xã hội của
Giáo hội sẽ tận dụng các đóng góp của mọi ngành kiến thức, bất kể chúng xuất
phát từ nguồn gốc nào, và học thuyết này mang chiều hướng liên ngành rất quan
trọng. Trên hết, phải kể đến sự
đóng góp rất thiết yếu của triết học. Sự đóng góp này được thể hiện qua việc
học thuyết xã hội của Giáo hội thường hay lấy bản tính con người làm nguồn gốc
và dùng lý trí làm con đường nhận thức của chính đức tin. Nhờ biết cởi mở với các ngành kiến thức khác
một cách chăm chú và bền bỉ mà học thuyết xã hội Công giáo mới càng thêm đáng
tin, cụ thể và thích đáng. Bao
lâu còn là một phần trong giáo huấn luân lý của Giáo hội, bấy lâu học thuyết xã
hội của Giáo hội sẽ có cùng phẩm giá và thẩm quyền như giáo huấn luân lý của
Giáo hội.
4. Chủ
thể đầu tiên tiếp nhận học thuyết xã hội của Giáo hội chính là cộng đồng Giáo hội
với tất cả mọi thành viên, vì ai ai cũng có những trách nhiệm xã hội cần phải
chu toàn. Học thuyết xã hội này
cũng hàm chứa những trách nhiệm liên quan đến việc xây dựng, tổ chức và vận hành
xã hội, tức là những bổn phận chính trị, kinh tế và hành chính “ những bổn phận
mang bản chất trần thế “. Học
thuyết xã hội Công giáo luôn được ánh sáng ngàn đời của Tin Mừng hướng dẫn và
luôn quan tâm tới sự tiến hoá của xã hội, nên nó có đặc điểm là vừa liên tục
vừa đổi mới. Học thuyết xã hội
của Giáo hội được giới thiệu như một “địa chỉ làm việc”, tại đó công việc vẫn
đang tiến hành, chân lý ngàn đời vẫn đang thâm nhập và lan toả vào các hoàn
cảnh mới, chỉ ra những con đường dẫn tới công lý và hoà bình.
5. Để
trả lời cho vấn nạn xã hội nghiêm trọng đầu tiên, Đức Giáo hoàng Lêô XIII đã
ban hành Thông điệp xã hội đầu tiên là “Rerum Novarum”(Tân Sự). Thông điệp này trở thành văn kiện thôi thúc
các Kitô hữu hoạt động trong lĩnh vực xã hội và trở thành điểm tham chiếu cho
các Kitô hữu khi hoạt động.
Chương III: Con Người
và Nhân Quyền
1. Con người
có hai đặc điểm khác nhau: là hữu thể vật chất có liên quan với thế giới này
qua thân xác mình, và là hữu thể thiêng liêng, mở ra với siêu việt. Giáo hội nhìn thấy nơi mỗi người, nam cũng
như nữ, hình ảnh sống động của chính Thiên Chúa. Hình ảnh này mỗi ngày được
triển khai thêm một cách trọn vẹn và sâu sắc hơn nơi mầu nhiệm Đức Kitô, hình
ảnh tuyệt hảo của Thiên Chúa, Đấng duy nhất đã mạc khải Thiên Chúa cho con
người và mạc khải con người cho chính con người. Toàn bộ đời sống xã hội đều là sự biểu hiện của một nhân vật chính
không thể lầm lẫn được, đó chính là con người. Trong những hoàn cảnh cụ thể của lịch sử,
con người chính là trọng tâm và linh hồn của tư duy xã hội Công giáo. Thật vậy,
toàn bộ học thuyết xã hội Công giáo chẳng qua chỉ là sự triển khai nguyên tắc: con người có phẩm giá bất khả xâm phạm.
Hình ảnh Thiên Chúa nơi con người
chính là yếu tố định tính và phân biệt con người.
2. Cảnh tượng tuyệt vời
mô tả con người được Chúa tạo dựng không thể tách rời khỏi sự xuất hiện bi đát
của tội nguyên tổ (original sin). Khi
lần tới tận gốc các chia rẽ của cá nhân và xã hội, đang xúc phạm tới giá trị và
phẩm chất của con người ở những mức độ khác nhau, chúng ta luôn thấy có một vết
thương nằm trong nơi sâu xa nhất của con người. Mầu nhiệm tội được cấu thành bởi một vết thương hai mặt, mà tội nhân
bộc lộ nơi mình, cũng như thể hiện ra trong quan hệ với người thân cận. Ngoài
ra, có một số tội do chính đối tượng của chúng là những hành vi trực tiếp xúc
phạm đến người thân cận. Những tội đó đặc biệt được gọi là tội xã hội (social sin). Giáo lý về tội nguyên tổ, cho biết tội mang tính phổ quát, có nền tảng
rất quan trọng. Tuy nhiên,
không được tách rời giáo lý về sự phổ quát của tội với ý thức về sự phổ quát
của ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô.
3. Một
xã hội công bằng chỉ trở thành hiện thực khi được xây dựng trên việc tôn trọng
phẩm giá siêu việt của con người. Con người là mục tiêu tối hậu của xã hội; xã
hội được tổ chức là nhắm tới con người. Không thể lấy con người làm phương tiện để thực hiện các dự án kinh
tế, xã hội hay chính trị, những dự án do một chính quyền nào đó áp đặt. Tự do không phải là một điều gì ngược với sự
lệ thuộc vào Thiên Chúa của con người, trong tư cách là một thụ tạo. Muốn thực
hành đúng đắn sự tự do cá nhân, con người cần có những điều kiện đặc biệt liên
quan đến trật tự kinh tế, xã hội, pháp lý, chính trị và văn hoá. Tự do
tôn giáo là một phần tất yếu của phẩm giá con người.
4. Phong
trào tiến tới chỗ xác định và công bố các quyền của con người là một trong
những cố gắng quan trọng nhất nhằm đáp ứng cách hữu hiệu những đòi hỏi tất yếu
của phẩm giá con người. Nguồn
gốc sau cùng của các quyền con người không phải ở trong ý muốn thuần tuý của con
người, trong thực thể quốc gia hay chính quyền, nhưng là ở trong chính con
người và trong chính Tạo Hoá. Quyền
đầu tiên được nêu ra trong danh sách này là quyền được sống, từ khi thụ thai
cho tới khi chết một cách bình thường. Phạm vi nhân quyền được mở rộng ra để bao gồm cả quyền lợi của các dân
tộc và các quốc gia. Tiếc thay,
có một khoảng cách giữa “chữ viết” và “tinh thần” của nhân quyền.
Chương IV: Các Nguyên tắc của Học thuyết Xã hội
Công giáo
1. Những
nguyên tắc trường tồn của học thuyết xã hội Công giáo chính là trọng tâm của
giáo huấn xã hội Công giáo. Đó là những nguyên tắc: phẩm giá con người,
đây là nền tảng của tất cả các nguyên tắc khác đồng thời là nội dung của học
thuyết xã hội Công giáo, đó là: công ích (common good), bổ trợ (subsidiarity)[3],
và liên đới (solidarity). Những nguyên tắc này diễn tả toàn bộ
sự thật về con người theo sự nhận biết của lý trí và đức tin,
2. Nguyên tắc công ích: mọi khía cạnh trong đời sống xã hội đều
phải liên hệ đến công ích. Ba yếu tố căn bản của công ích là: phải tôn trọng
con người, phải đạt đến sự an lạc của xã hội, và phải kiến tạo hòa bình. Dù là
thuộc về mọi người và mỗi người, công ích vẫn là và mãi mãi là ích lợi “chung”.
Bởi đó, công ích có liên quan tới mọi
thành phần trong xã hội, không ai được miễn cộng tác vào việc thực hiện và phát
huy công ích, tuỳ theo khả năng của mỗi người. Để bảo đảm công ích, chính phủ mỗi nước có nghĩa vụ đặc biệt là làm hài
hoà các quyền lợi khác nhau của các thành phần xã hội với các đòi hỏi của công
lý.
3. Bổ trợ
là một trong những định hướng bền vững và đặc thù nhất của học thuyết xã
hội Công giáo. Dựa trên nguyên tắc này, mọi xã hội thuộc trật tự cao hơn phải
có thái độ trân trọng giúp đỡ (subsidium) “ tức là hỗ trợ, đẩy mạnh, phát triển
“ các xã hội thuộc trật tự thấp hơn. Nhờ nguyên tắc bổ trợ, dân chúng có thể
được bảo vệ khỏi những sự lạm quyền của chính quyền cấp cao hơn và chính quyền
này cũng được mời gọi hãy giúp các cá nhân và các đoàn thể trung gian chu toàn
nghĩa vụ. Nguyên tắc này cũng mang tính đòi buộc, vì mỗi người, mỗi gia đình và
mỗi đoàn thể trung gian đều có một điều gì đó độc đáo có thể đóng góp cho cộng
đồng. Một hệ luận điển hình của nguyên tắc bổ trợ là sự tham gia (participation),
được thực hiện chủ yếu qua một loạt hoạt động mà nhờ đó các công dân “trong tư
cách cá nhân hay liên kết với người khác, trực tiếp hay thông qua đại diện “
góp phần vào đời sống văn hoá, kinh tế, chính trị và xã hội của cộng đồng dân
sự mà mình là thành viên.
4. Sự liên đới[4]
làm nổi bật một cách đặc biệt bản tính xã hội nội tại của con người, sự bình
đẳng của mọi người về phẩm giá và quyền lợi, cũng như con đường chung cho các
cá nhân và các dân tộc tiến tới sự thống nhất với một ý thức ngày càng cao hơn.
Những mối quan hệ mới mẻ về sự lệ thuộc nhau, giữa các cá nhân và các dân tộc,
mới là những hình thức liên đới trong thực tế; cần phải được biến thành những
quan hệ nhằm tạo ra sự liên đới đích thực trên bình diện đạo đức xã hội. Nguyên
tắc liên đới đòi hỏi con người hôm nay phải ngày càng nhận thức rõ hơn rằng họ
chính là người mắc nợ xã hội mà trong đó họ là thành viên.
5. Công
Bằng Xã Hội là một đòi hỏi khẩn thiết. Để đạt mục tiêu, cần phải cải tổ đời
sống kinh tế, xã hội và mọi người phải đổi mới tâm thức và thái độ của mình. Không kể những nguyên tắc phải dùng để hướng
dẫn việc xây dựng một xã hội cho xứng với con người, học thuyết xã hội Công
giáo còn nêu ra các giá trị căn bản là sự thật, tự do, công bằng và
yêu thương.
Tóm lại, Học thuyết
Xã hội Công giáo lấy Thánh Kinh làm chỉ nam, lấy Con Người làm cứu cánh; nguyên tắc hành động là công ích, bổ trợ,
tham gia và liên đới, và căn bản đời sống dựa trên sự thật, tự do và công lý.
PHẦN II
Chương V: Gia Đình, tế bào sống động của xã hội
1. Tầm
quan trọng và vị trí trung tâm của gia đình so với con người và xã hội là những
điều thường xuyên được Thánh Kinh nhấn mạnh. Một xã hội xây dựng trên gia đình chính là một sự bảo đảm tốt nhất cho
xã hội khỏi bị cuốn hút theo chủ nghĩa cá nhân hay chủ nghĩa tập thể, vì chỉ
trong gia đình, con người mới luôn luôn là trung tâm của mọi sự quan tâm; con
người được coi như một mục tiêu chứ không bao giờ bị coi như một phương tiện.
2. Gia
đình đặt nền tảng trên sự lựa chọn tự do của hai vợ chồng muốn kết hợp với nhau
trong hôn nhân, đồng thời trên sự tôn trọng ý nghĩa và các giá trị của định chế
này, một định chế không tuỳ thuộc con người mà tuỳ thuộc chính Thiên Chúa.
Không quyền lực nào có thể xoá bỏ
quyền tự nhiên của con người là được kết hôn, cũng không quyền lực nào có thể
thay đổi các đặc tính và mục tiêu của hôn nhân. Thật vậy, hôn nhân được phú cho
những đặc tính riêng, bẩm sinh và vĩnh viễn. Những nét đặc thù của hôn nhân là: toàn vẹn, hợp nhất, bất khả phân ly, trung tín và sinh con cái.
3. Bí
tích Hôn Nhân thu nhận thực tại nhân loại của tình yêu vợ chồng với tất cả
những hệ luận của tình yêu ấy. Chính
nhờ tình yêu “ vốn là thực tại căn bản để định nghĩa hôn nhân và gia đình “ mà
mỗi người, nam hay nữ, được nhìn nhận, được chấp nhận và được tôn trọng theo
đúng phẩm giá của mình. Tình
yêu cũng được biểu lộ qua việc quan tâm rộng rãi tới những người cao tuổi sống
trong các gia đình: sự có mặt của họ có thể mang giá trị rất lớn.
4. Giáo hội vẫn không mệt mỏi nhắc lại
giáo huấn sau đây của mình: “Mọi người, dù là nam hay nữ, đều cần nhận ra và
chấp nhận bản sắc tính dục của mình. Chính
bản chất của tình yêu vợ chồng đòi hỏi quan hệ hôn nhân phải bền vững và bất
khả phân ly. Đưa ly dị vào
trong pháp chế dân sự là tiếp sức thêm cho quan niệm tương đối hoá sự ràng buộc
của hôn nhân. Tuy nhiên, Giáo
hội không hề bỏ rơi những người đã tái kết hôn sau khi ly dị. Giáo hội cầu
nguyện cho họ và khích lệ họ vượt qua những khó khăn mà họ gặp phải trong đời
sống thiêng liêng, đồng thời nâng đỡ họ trong đức tin và đức cậy.
5. Những
sự “kết hợp đã rồi” (de facto unions), mà số này ngày càng gia tăng, đều dựa
trên một quan niệm sai lạc về sự tự do lựa chọn của cá nhân và dựa trên một cái
nhìn hoàn toàn riêng rẽ về hôn nhân và gia đình. Liên quan tới những sự “kết hợp đã rồi” này là một vấn đề đặc biệt: vấn
đề đòi luật pháp nhìn nhận sự kết hợp giữa những người đồng tính luyến ái.
Điều ấy bị chống đối. Tuy nhiên, phải
tôn trọng những người đồng tính luyến ái một cách đầy đủ trong chính nhân phẩm
của họ. Thi hành bổn phận tôn trọng ấy không có nghĩa là bênh vực sự hợp
pháp hoá một hành vi không phù hợp với luật luân lý.
6. Chúng ta khẳng định
lại rằng phá thai, thử nghiệm trên phôi người, tạo sinh vô tính (cloning), trợ
tử (euthanasia), tất cả đều sai trái trên bình diện đạo đức vì chúng tấn công
vào chính sự sống con người; mà quyền sống là quyền nền tảng nhất để mọi quyền
khác được đặt lên.
7. Một
vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt về xã hội và văn hoá hiện nay, vì kéo theo
nhiều hệ luỵ luân lý nghiêm trọng, chính là nhân bản vô tính. Thuật ngữ này tự
nó muốn ám chỉ việc tạo ra một thực thể sinh học hoàn toàn giống với cơ quan đã
sinh ra nó, xét về mặt di truyền.
Chương VI: Lao Động
của Con Người
1. Lao động là một phần trong tình
trạng nguyên thuỷ của con người và đã có trước khi con người phạm tội; bởi đó,
lao động không phải là một hình phạt hay là một sự chúc dữ. Trong giáo huấn của mình, Đức Giêsu dạy chúng ta cần phải trân trọng
lao động. Trên hết, con người phải quan tâm tới linh
hồn mình; giành được cả thế giới không phải là mục đích của cuộc đời con người
2. Cuộc cách mạng Công nghiệp đã đặt ra
cho Giáo hội một thách đố hết sức nghiêm trọng, mà huấn quyền xã hội của Giáo
hội phải đáp ứng một cách mạnh mẽ và có tính tiên tri, luôn luôn khẳng định
những nguyên tắc ngàn đời hữu hiệu để hậu thuẫn những người lao động và bênh
vực quyền lợi của họ. Thông điệp Rerum Novarum trên hết là sự chân thành bênh
vực phẩm giá bất khả nhượng của người lao động. Từ
Thông điệp Rerum Novarum ấy, Giáo hội đã không bao giờ ngừng xem xét các vấn đề
của người lao động trong khuôn khổ là một vấn đề xã hội ngày càng mang những
chiều hướng toàn cầu.
3. Học
thuyết xã hội của Giáo hội không ngừng nhấn mạnh tới mối quan hệ giữa lao động
và tư bản. Quan hệ giữa lao
động và tư bản còn được biểu hiện qua việc người lao động tham gia vào việc làm
chủ, quản lý và lợi nhuận. Huấn
quyền về xã hội của Giáo Hội coi định chế tư hữu, quyền có tư hữu và quyền sử
dụng tư hữu cũng là một cách biểu hiện mối tương quan giữa lao động và tư bản.
Vì quan hệ kinh tế - tài chính và thị
trường lao động ngày càng có tính toàn cầu, nên cần phải đẩy mạnh việc hợp tác
hiệu quả giữa các quốc gia.
4.
Sự thịnh vượng kinh tế của quốc gia
không chỉ được đo bằng số lượng của cải quốc gia ấy làm ra, mà còn phải xét tới
cách thế mà chúng được làm ra và mức độ công bằng trong việc phân chia lợi tức.
Giáo huấn xã hội của Giáo hội nhìn
nhận sự chính đáng của việc đình công. Huấn Quyền nhìn nhận vai trò căn bản của
các nghiệp đoàn lao động; sự hiện hữu của nó có liên hệ với quyền lập các hiệp
hội hay công đoàn để bảo vệ các lợi ích sinh tử của người lao động trong các
ngành nghề khác nhau.
5. Càng ngày người ta càng có nhu cầu xem xét
cẩn thận tình hình mới mẻ của lao động trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện tại,
trong một viễn tượng đề cao khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn thiết
lập các mối liên hệ. Thật vậy,
lao động là " chìa khóa chính yếu " của cả vấn đề xã hội, ảnh hưởng đến phát triển không những kinh tế,
mà cả đến văn hoá và luân lý của mỗi con người, đến gia đình, xã hội và cả dòng
giống nhân loại.
Chương VII: Đời sống
Kinh tế
1. Nhờ
tin vào Đức Giêsu Kitô, chúng ta có thể hiểu đúng đắn sự phát triển xã hội,
trong khuôn khổ của nền nhân bản toàn diện và liên đới. Của cải, dù được sở hữu một cách chính đáng,
luôn luôn có mục tiêu phổ quát; bất cứ hình thức tích trữ nào không chính đáng
đều trái đạo đức, vì như thế là công khai đi ngược lại mục tiêu phổ quát đã
được Tạo Hoá ấn định cho mọi của cải.
2. Học
thuyết xã hội của Giáo hội thừa nhận vai trò thích đáng của lợi nhuận, coi đó
như chỉ số đầu tiên cho biết một doanh nghiệp hoạt động tốt. Thị trường tự do là một định chế có tầm quan
trọng xã hội vì nó có khả năng bảo đảm cho việc sản xuất hàng hoá và cung ứng
các dịch vụ được kết quả thực sự. Học
thuyết xã hội của Giáo hội vừa nhìn nhận thị trường là một công cụ không thể
thay thế được để điều hoà các hoạt động bên trong của hệ thống kinh tế, vừa chỉ
cho thấy thị trường cần phải bám chặt vào các mục tiêu đạo đức của nó, nhằm bảo
đảm sự công bằng.
3. Hành
động của Nhà Nước và của các cơ quan công quyền khác phải ăn khớp với nguyên tắc bổ trợ và phải tạo ra những
tình huống thuận lợi cho mọi người được tự do hoạt động kinh tế. Hành động ấy
cũng phải xuất phát từ nguyên tắc liên
đới, và phải đặt ra được những giới hạn cho sự độc lập của các bên, để có
thể bảo vệ những bên yếu kém hơn. Nhiệm
vụ căn bản của Nhà Nước trong các vấn đề kinh tế là xác định một khung pháp lý
thích hợp để điều hành các hoạt động kinh tế. Thị trường và Nhà Nước cần phải làm việc ăn ý với nhau và hỗ trợ nhau.
4 Kỷ
nguyên chúng ta hiện nay đang được đánh dấu bởi một hiện tượng phức tạp, là sự
toàn cầu hoá về kinh tế và tài chính; người ta cũng nhận thấy những rủi ro gắn liền với những chiều hướng
mới trong các quan hệ thương mại và tài chính. Thương mại là một yếu tố căn bản làm nên các quan hệ kinh tế thế giới,
góp phần quyết định vào việc chuyên biệt hoá một số hình thức sản xuất và sự
tăng trưởng kinh tế tại nhiều quốc gia.
5. Song
song với việc toàn cầu hoá ngày càng lan rộng, các tổ chức khác nhau của xã hội
dân sự càng phải nhận thức một cách trưởng thành hơn về những nhiệm vụ mới mà
mình đang được mời gọi đảm nhận ở cấp độ toàn cầu. Những tổ chức tư nhân phi lợi nhuận cũng có
vai trò riêng của mình trong lĩnh vực kinh tế. Những tổ chức ấy có đặc điểm là
không ngại tìm cách liên kết tính hiệu quả trong sản xuất với sự liên đới.
Muốn có một sự liên đới tương xứng
trong kỷ nguyên toàn cầu hoá này, người ta phải bảo vệ các quyền của con người.
Phải đặc biệt chú ý tới những nét
riêng của mỗi địa phương và những sự khác biệt về văn hoá, có thể bị đe doạ bởi
tiến trình kinh tế và tài chính đang diễn ra.
6. Một trong
những nhiệm vụ căn bản của những người tích cực tham gia vào các vấn đề kinh tế
thế giới là làm sao thực hiện cho nhân loại một sự phát triển toàn diện trong
tình liên đới, tức là “phát huy điều tốt của mỗi người và của toàn thể
con người”. Theo học thuyết xã hội của
Giáo hội, kinh tế “chỉ là một khía cạnh và là một chiều hướng trong toàn bộ
hoạt động của con người”.
Chương VIII: Cộng Đồng
Chính Trị
1. Giáo hội tuyên bố
rằng Đức Kitô “ Đấng chiến thắng sự chết “ đang cai quản vũ trụ đã được Người
cứu chuộc. Vương quốc của Người bao gồm cả hiện tại này và sẽ chỉ chấm dứt khi
mọi sự được trao lại cho Chúa Cha và khi lịch sử nhân loại đã hoàn tất trong
ngày phán xét cuối cùng.
2. Con
người là nền tảng và mục tiêu của đời sống chính trị. Đặc điểm trước tiên của một dân tộc là cùng
nhau chia sẻ cuộc sống và các giá trị, mà đây chính là nguồn đem lại sự hiệp
thông trên bình diện tâm linh và luân lý. Cộng đồng chính trị theo đuổi công ích, khi nó tìm cách tạo ra một môi
trường nhân bản, cho phép các công dân thực thi các quyền con người của mình và
thi hành trọn vẹn các nghĩa vụ tương ứng của mình. Một cộng đồng có nền tảng vững chắc là khi
nó nhắm đến sự phát huy toàn diện của con người và của công ích. Trong trường
hợp đó, luật pháp được xác định, được tôn trọng và tồn tại tuỳ theo thái độ
liên đới và xả thân cho người lân cận của mình.
3. Mọi tập thể con người đều cần đến quyền bính
để phục vụ công ích và điều hành tập thể
ấy. Việc hành xử quyền bính trong quốc gia luôn luôn phải nằm trong giới hạn
của trật tự luân lý để đem lại mưu cầu công ích. ĐGH Lêo XIII đã nhắc tới hình
thức “tam quyền phân lập” mà đương thời được xem như là điểm mới trong Giáo
huấn của Giáo hội. Các thể chế chính trị có thể khác nhau, miễn sao các thể chế
này mang lại lợi ích chính đáng cho cộng đoàn đã thừa nhận chúng. Nguyên nhân
sâu xa của chế độ độc tài trong thời đại là vì
nó khước từ sự nhìn nhận phẩm giá của con người. Giáo hội đề cao thể chế
dân chủ vì nó bảo đảm sự tham gia của người dân vào thể chế chính trị. Tóm lại,
quyền hành chính trị phải bảo đảm cho
có được một đời sống cộng đồng trật tự và ngay thẳng, không tước đoạt sự hoạt
động tự do của các cá nhân và tập thể, nhưng phải điều tiết và định hướng cho
sự tự do ấy bằng cách tôn trọng và bảo vệ sự độc lập của các cá nhân và chủ thể
xã hội hầu đạt được ích lợi chung.
4. Các
công dân, theo lương tâm, không bị buộc phải tuân theo những chỉ thị của chính
quyền dân sự, nếu những mệnh lệnh ấy trái ngược với những đòi hỏi của trật tự
luân lý, trái ngược với những quyền căn bản của con người, hay trái ngược với
giáo huấn của Tin Mừng. Nhìn
nhận luật tự nhiên là nền tảng cho luật thiết định và đặt giới hạn cho luật
thiết định; điều đó có nghĩa là chấp nhận rằng: thật là chính đáng khi phản
kháng những nhà cầm quyền vi phạm các nguyên tắc thiết yếu của luật tự nhiên
một cách nghiêm trọng hay liên tục.
5. Một
nền dân chủ đích thực không phải chỉ là kết quả của việc tuân thủ máy móc các
luật lệ, mà là kết quả của một sự chấp nhận với niềm xác tín các giá trị đưa
tới các tiến trình dân chủ như: phẩm giá của mỗi người, tôn trọng nhân quyền,
dấn thân cho công ích như là mục tiêu và tiêu chuẩn hướng dẫn đời sống chính
trị. Huấn Quyền nhìn nhận
nguyên tắc phân chia quyền hành (nhân quyền) trong một quốc gia là có giá trị.
6. Các
đảng phái chính trị có nhiệm vụ tạo điều kiện cho có sự tham gia chính trị cách
rộng rãi và cho mọi người có thể tiếp cận với các trách nhiệm chung. Xã hội dân sự là tổng hợp bao gồm các mối
quan hệ và các nguồn lực về văn hoá lẫn hiệp hội, mà các mối quan hệ và các
nguồn lực này độc lập một cách tương đối với lĩnh vực chính trị và kinh tế.
Nhà Nước phải cung cấp một khung pháp
lý thích đáng để các chủ thể xã hội được tự do tham gia vào các hoạt động khác
nhau của họ, cũng như Nhà Nước phải sẵn sàng can thiệp khi thấy cần, mà vẫn tôn
trọng nguyên tắc bổ trợ.
7. Sự
tự do lương tâm và sự tự do tôn giáo “liên quan đến con người cả về phương diện
cá nhân lẫn phương diện xã hội”. Dù
cả Giáo hội lẫn cộng đồng chính trị đều xuất hiện trong các cơ cấu mang tính tổ
chức thấy rõ bên ngoài, nhưng tự bản chất, hai bên vẫn rất khác nhau do cách
định hình và do mục tiêu hai bên theo đuổi. Giáo hội có quyền được luật pháp nhìn nhận bản sắc chính đáng của mình.
Tóm lại, Gia Đình là
nền tảng của cộng đồng nhân loại và là tế bào thiết yếu của xã hội loài người.
Lao động là làm cho bản thân nhưng còn làm cho người khác và với người khác.
Hoạt động kinh tế nhằm gia tăng các sản phẩm và lợi nhuận, nhưng trước tiên là
để phục vụ con người, tôn trọng luân lý và công bằng xã hội. Sau hết, cộng đồng
chính trị quy hướng về mỗi công dân, được nhìn nhận một cách tổng quát như
những người đang nắm chủ quyền.
Chương IX: Cộng Đồng Quốc Tế
1. Cộng đồng quốc tế là
một cộng đồng pháp lý xây dựng trên chủ quyền của mỗi quốc gia thành viên,
không có những ràng buộc lệ thuộc làm mất đi hay hạn chế sự độc lập của mỗi
quốc gia. Lấy con người làm trọng tâm và thiết lập các
mối quan hệ giữa con người với nhau, giữa các dân tộc với nhau theo khuynh
hướng tự nhiên, đó chính là những yếu tố căn bản cần thiết để xây dựng một cộng
đồng quốc tế đích thực, mà cộng đồng này phải nhắm đến việc bảo đảm cho có công
ích toàn cầu cách hữu hiệu. Việc
sống chung giữa các dân tộc được xây dựng dựa trên các giá trị từng làm nền
tảng để xây dựng các mối quan hệ giữa người với người: đó là sự thật, công lý,
liên đới tích cực và tự do.
2. Huấn
Quyền nhìn nhận tầm quan trọng của chủ quyền mỗi quốc gia, được hiểu chủ quyền
đó như biểu hiện sự tự do cần có để điều khiển các quan hệ giữa các quốc gia
với nhau. Để giải quyết những
căng thẳng giữa các cộng đồng chính trị khác nhau mà có thể làm phương hại đến
sự ổn định của các quốc gia và an ninh thế giới, cần phải sử dụng các luật
chung khi tham gia thương thảo, đồng thời dứt khoát gạt bỏ ý nghĩ có thể tìm
được công lý bằng cách sử dụng chiến tranh.
3. Giáo
hội là người bạn đường trong cuộc hành trình nhằm thành lập một “cộng đồng”
quốc tế đích thực, một cộng đồng đã có một hướng đi rõ rệt khi Tổ chức Liên
Hiệp Quốc được thành lập năm 1945. Vì quan tâm tới việc chung sống hoà bình và trật tự trong gia đình nhân
loại, nên Huấn Quyền đã phải nhấn mạnh tới nhu cầu thiết lập “một thẩm quyền
chung mang tính quốc tế nào đó, được mọi quốc gia nhìn nhận và được trao cho
quyền lực hữu hiệu, để bảo vệ an ninh nhân danh mọi quốc gia, chăm lo cho công
lý và tôn trọng nhân quyền”.
4. Huấn
Quyền đánh giá cách tích cực các hiệp hội được hình thành trong xã hội dân sự
nhằm hướng dẫn công luận nhận thức các khía cạnh khác nhau của đời sống quốc tế.
5. Tinh
thần hợp tác quốc tế đòi hỏi mọi người không những phải có tư duy đúng đắn về
thị trường, mà còn có khả năng nhận thức về bổn phận phải liên đới, bảo vệ công
lý và bác ái phổ quát. Vào đầu
thiên niên kỷ mới này, sự nghèo đói của hàng tỷ người nam cũng như nữ chính là
“một vấn đề thách thức nhất cho các lương tâm con người cũng như các lương tâm
Kitô hữu”. Cuộc đấu tranh chống
nghèo đói tìm được một động cơ mạnh mẽ khi biết rằng Giáo hội chọn lựa và dành
tình thương ưu tiên cho người nghèo. Học thuyết xã hội Công giáo cổ vũ các hình thức cộng tác nào có thể
giúp các nước nghèo và kém phát triển tham gia thị trường quốc tế. Giáo
hội cổ võ việc giảm nợ và xóa nợ cho các nước nghèo không có khả năng hoàn trả.
Chương X: Bảo vệ Môi
trường
1. Quan
điểm của Thánh Kinh sẽ soi sáng cho người Kitô hữu biết phải có thái độ nào
trong việc sử dụng trái đất, cũng như đối với các tiến bộ của khoa học và kỹ
thuật. Những gì Huấn Quyền suy
nghĩ về khoa học và công nghệ nói chung đều có thể áp dụng cho vấn đề môi
trường và nông nghiệp. Một điểm
quan trọng mà mỗi khi ứng dụng khoa học và công nghệ, người ta phải tham chiếu
là phải tôn trọng con người, và cũng kèm theo đó là thái độ cần phải tôn trọng
các sinh vật khác.
2. Thiên
nhiên xuất hiện như một công cụ trong tay con người, và như một thực tại mà con
người phải liên tục vận dụng. Hiểu
đúng đắn về môi trường sẽ ngăn chặn sự giản lược mang tính thực dụng rằng thiên
nhiên chỉ là một đồ vật không hơn không kém mà con người được sử dụng và khai
thác tuỳ ý. Đồng thời, chúng ta cũng không được tuyệt đối hoá thiên nhiên, đặt
nó lên trên cả phẩm giá con người.
3. Huấn
Quyền nhấn mạnh tới trách nhiệm của con người trong việc bảo tồn một môi trường
lành mạnh cho tất cả mọi người. Trong
tinh thần liên đới quốc tế, cần phải sử dụng các biện pháp khác nhau đối với
việc ứng dụng các công nghệ sinh học mới. Trước hết, phải tạo điều kiện để có sự trao đổi thương
mại cách công bằng, không áp đặt những điều khoản bất công.
4. Các
nhà chính trị, lập pháp và quản lý hành chính phải chịu trách nhiệm về việc
đánh giá các lợi ích tiềm tàng và rủi ro có thể xảy ra khi sử dụng công nghệ
sinh học. Đối với vấn đề sinh
thái, giáo huấn xã hội Công giáo nhắc lại rằng của cải trên trái đất là do
Thiên Chúa tạo thành để mọi người sử dụng cách khôn ngoan. Chúng phải được chia
sẻ một cách công bằng, phù hợp với công lý và bác ái.
Chương XI: Cổ vũ Hòa bình
1. Theo
mạc khải Thánh Kinh, hoà bình là một điều gì lớn lao hơn nhiều chứ không đơn
giản chỉ là vắng bóng chiến tranh; hoà bình nói lên cuộc sống sung mãn. Nỗ lực
xây dựng hoà bình là một việc không bao giờ được tách rời khỏi việc loan báo
Tin Mừng, vì đây đúng là “Tin Mừng hoà bình”. Hoà bình không phải chỉ là không
có chiến tranh, cũng không phải hạ thấp xuống tới mức chỉ là giữ cho các bên
thù địch nhau cân bằng về quyền lực; mà đúng hơn, hoà bình được xây dựng trên
việc hiểu rõ con người và đòi phải thiết lập được một trật tự dựa trên nền tảng
công lý và bác ái.
2. Hiến
chương Liên Hiệp Quốc, được khai sinh từ thảm kịch Thế Chiến Thứ Hai nhằm tránh
cho các thế hệ tương lai khỏi tai hoạ chiến tranh, là một bản văn dựa trên một
lệnh cấm chung không cho phép nhờ đến vũ lực để giải quyết những tranh chấp
giữa các quốc gia, ngoại trừ hai trường hợp: đó là sự tự vệ chính đáng và những
biện pháp do Hội đồng Bảo an đưa ra trong phạm vi trách nhiệm gìn giữ hoà bình.
3. Giáo
huấn xã hội Công giáo đề nghị mục tiêu “giải trừ quân bị toàn bộ, có cân đối và
có kiểm soát”. Sự gia tăng vũ khí một cách kinh khủng là một đe doạ lớn cho sự
ổn định và nền hoà bình. Những vũ khí có sức huỷ diệt hàng loạt “ bằng sinh
học, hoá học hay hạt nhân “ đang là một mối đe doạ đặc biệt nghiêm trọng. Những
ai đang sở hữu những vũ khí ấy phải chịu trách nhiệm rất lớn trước mặt Thiên
Chúa và toàn thể nhân loại.
4. Khủng
bố là một trong những hình thức bạo lực tàn ác nhất gây kinh hoàng cho cộng
đồng thế giới hiện nay; nó gieo thù hận, chết chóc, cũng như thôi thúc báo thù
và trả đũa. Thật là một điều
báng bổ và phạm thượng khi tự xưng mình là kẻ khủng bố nhân danh Thượng Đế.
5. Giáo
hội dạy rằng chỉ có thể kiến tạo một nền hoà bình đích thực bằng cách tha thứ
và hoà giải. Tha thứ cho nhau
không có nghĩa là loại bỏ nhu cầu về công lý và càng không phải là ngăn chặn
con đường dẫn đến sự thật. Ngược lại, công lý và sự thật là những đòi hỏi cụ
thể để có được sự hoà giải. Ngoài ra, chính qua việc cầu nguyện mà Giáo hội dấn thân vào mặt trận hoà bình.
PHẦN III
Chương XII: Hoc thuyết Xã hội và hoạt động của
Giáo hội
1.Trong học thuyết xã
hội của mình, Giáo hội trước tiên đưa ra một cái nhìn tổng thể về con người và
một sự am hiểu trọn vẹn về những chiều hướng cá nhân và xã hội của con người. Trên hết mọi sự, hoạt động mục vụ của Giáo
hội trong lĩnh vực xã hội phải làm chứng cho sự thật về con người.
2. Trong
bối cảnh của việc dạy giáo lý, điều quan trọng trước hết là phải giảng dạy học
thuyết xã hội của Giáo hội thế nào để thôi thúc người học làm cho các thực tại
trần thế thấm nhuần Tin Mừng và mang tính nhân bản. Học thuyết xã hội của Giáo hội phải là nền
tảng của một công trình đào tạo sâu sắc và bền bỉ, đặc biệt cho giáo dân. Một
sự đào tạo như thế phải để ý đến những bổn phận của họ trong xã hội dân sự.
3. Việc
tận dụng học thuyết xã hội để đào tạo các linh mục và các ứng viên chức linh
mục cũng không kém phần quan trọng. Các ứng viên này là những người, trong bối
cảnh chuẩn bị cho thừa tác vụ, cần phải trau dồi một kiến thức toàn diện về
giáo huấn của Giáo hội và về mối quan tâm của Giáo hội trong lĩnh vực xã hội
cũng như sự chú ý sâu sắc đối với những vấn đề xã hội của thời đại họ sống.
4. Học
thuyết xã hội của Giáo hội là một công cụ ưu việt cho việc đối thoại giữa các
cộng đồng Kitô giáo với cộng đồng dân sự và chính trị. Công tác mục vụ trong
lĩnh vực xã hội cũng được hiểu là dành cho tất cả các Kitô hữu, những người
được mời gọi trở nên những chủ thể sống động để làm chứng cho học thuyết xã hội
này.
5. Bổn
phận chính đáng của tín hữu giáo dân là công bố Tin Mừng bằng lời chứng gương
mẫu của đời sống được ăn rễ sâu trong Đức Kitô và được sống động qua những thực tại trần thế. Tín hữu giáo dân cần hành động theo
tiếng gọi của sự thận trọng, một đức tính làm cho ta có thể nhận ra được sự
thiện đích thực trong mọi trường hợp và chọn ra được những phương tiện đúng đắn
để đạt được sự thiện đó. Nhờ đức tính này, những nguyên tắc luân lý được áp
dụng cách chính xác trong những trường hợp riêng biệt.
6. Học
thuyết xã hội của Giáo hội vô cùng quan trọng đối với các hiệp hội và phong
trào của Giáo hội mà mục tiêu của chúng là hoạt động mục vụ trong xã hội. Sự hiện diện của giáo dân trong đời sống xã
hội được tiêu biểu bởi việc phục vụ; đó là dấu hiệu và sự biểu lộ của tình yêu,
được thể hiện trong lĩnh vực gia đình, văn hoá, lao động, kinh tế và chính trị
theo những khía cạnh đặc trưng. Trong những lĩnh vực dấn thân xã hội của giáo dân, việc phục vụ con
người chiếm ưu thế hàng đầu.
7. Cổ
vũ một nền văn hoá xã hội và chính trị được gợi hứng từ Tin Mừng phải là một
phạm vi hoạt động có tầm quan trọng đặc biệt đối với tín hữu giáo dân. Các Kitô hữu phải hoạt động sao cho toàn bộ
giá trị về chiều hướng tôn giáo của văn hoá được nhìn nhận. Đây là một nhiệm vụ
hết sức quan trọng và cấp bách đối với phẩm chất của cuộc sống con người, cả về
mức độ cá nhân lẫn xã hội.
8. Tín
hữu giáo dân sẽ coi các phương tiện truyền thông như những công cụ tạo nên và
tăng cường sự liên đới. Đối diện với những phức tạp của bối cảnh kinh tế
ngày nay, tín hữu giáo dân sẽ được các nguyên tắc của Huấn Quyền về xã hội dẫn
dắt trong những hành động của họ. Việc tham gia vào chính trị là một hành động
thích đáng và đòi hỏi nhiều nỗ lực để biểu lộ sự dấn thân của Kitô hữu trong việc
phục vụ người khác.
Kết Luận: Một nền Văn minh Tình Yêu
1. Trong
xã hội hiện đại, con người càng ngày càng kinh nghiệm về một nhu cầu mới là tìm
lại ý nghĩa và mục đích của cuộc sống con người. Giáo hội trả lời qua việc công
bố Tin Mừng của Đức Kitô, Tin Mừng này giải thoát phẩm giá con người khỏi những
tư tưởng đang thay đổi và bảo đảm cho quyền tự do của những người, mà không có
luật lệ nào của con người có thể làm được.
2. Giáo
hội dạy mọi người, nam cũng như nữ, rằng Thiên Chúa ban tặng cho họ một khả
năng thực sự để vượt qua sự dữ và đạt tới sự thiện. Niềm hy vọng của Kitô hữu cho họ một năng
lực lớn lao để dấn thân vào lĩnh vực xã hội vì niềm hy vọng này tạo ra sự tự
tin vào khả năng xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, mặc dù sẽ không bao giờ có
“một thiên đàng hạ giới”.
3. Mục
tiêu trước mắt của học thuyết xã hội của Giáo hội là đề nghị những nguyên tắc
và giá trị có thể duy trì một xã hội xứng đáng với con người. Trong số những
nguyên tắc ấy, nguyên tắc liên đới bao gồm tất cả mọi nguyên tắc khác một cách
chắc chắn. Tình yêu phải
hiện diện và thâm nhập vào bên trong mọi quan hệ xã hội. Để làm cho xã hội nhân bản hơn, xứng đáng
hơn với con người, phải đem lại một giá trị mới cho tình yêu trong đời sống xã
hội “ bao gồm chính trị, kinh tế và văn hoá “ bằng cách làm cho tình yêu đó trở
thành một chuẩn mực vững bền và cao nhất cho mọi hoạt động. Chỉ có tình yêu mới
có thể biến đổi hoàn toàn con người. Bản chất của
đời sống đạo của người kitô hữu chính là sống tốt ba thứ tương quan: tương quan
siêu vị (transpersonal relationship: với Chúa), tương quan liên vị
(interpersonal relationship: với tha nhân), và tương quan bản vị (intrapersonal
relationship: với chính mình).
4. Học thuyết xã hội
của Giáo hội đề ra những nguyên tắc cho
sự suy nghĩ (xem); nêu lên những tiêu chuẩn cho sự phán đóan (xét); đưa ra những định hướng cho hành động (làm)
(sách Giáo Lý, số 2423)
Tham khảo:
- “Nouveau Regard sur la
Doctrine Sociale de l’Église”,
Hervé Carrier, S.J., Conseil Pontifical Justice et Paix, Cité du Vatican, 1990.
Bản tiếng Việt:”Một Cái Nhìn về Học Thuyết Xã Hội Công Giáo”, tập I và
II, bản dịch của Nguyễn Đăng Trúc,
Định Hướng, 1999.
- Sưu tập những văn bản của huấn quyền về Học thuyết Xã hội Công giáo của
Hội Đồng Giáo Hòang về Công Lý và Hòa Bình, ấn bản Anh văn“The Social Agenda, A Collection of
Magisterial Texts”, Rev. Robert A. Sirico & Rev. Maciejo Zieba, Libreria
Editrice Vaticana, 00120 Citta Del Vaticano, 2000, bản dịch của Đức Ông
Nguyễn Quang Sách, Diễn Đàn Giáo Dân xuất bản, 2004.
- Tóm lược Học thuyết Xã hội của
Giáo hội Công giáo của Hội Đồng Giáo Hoàng về Công Lý và Hòa Bình, ấn bản
Anh văn « Compendium of the
Social Doctrine of the Church », 2004
bản dịch của Ủy Ban Bác Ái thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, 2007.
- Các Thông điệp Xã hội, Đại
Chủng viện Thánh Giuse, 878 trang, 2000.
- Các tài liệu trong cuộc Hội nghị quốc tế về đề tài:
Công bằng xã hội, Trách nhiệm Xã hội và Liên đới Xã hội do Viện Khoa Học Xã Hội
Việt Nam và Tổ chức Công giáo Đức Misereor (German Catholic Action For Human
Development ) đồng tổ chức, từ ngày 15 đến 16-10-2007, tại Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam.
- Các tài liệu trong cuộc Hội thảo về Học thuyết Xã hội Công giáo được Uỷ
Ban Bác ái Xã hội thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam đứng ra tổ chức, do tổ chức
Công giáo Đức Misereor tài trợ, từ ngày 12 đến 13. 03.2008, tại Toà Giám mục
Xuân Lộc.
- Tài liệu làm việc chuẩn
bị cho hội thảo từ ngày 12 đến ngày 13.03.2008 tại Toà Giám Mục Xuân Lộc do Uỷ
Ban Bác ái Xã hội soạn thảo, 360 trang.
- Các chủ đề liên hệ
của : LM Nguyễn Hữu An, Phan Anh, HY O’Brien, GM Bùi Văn Đọc, LM Nguyễn
Hồng Giáo, LM Nguyễn Thái Hơp, Christopher Kaczor, HY Phạm Minh Mẫn, SH Huynh
Quảng, Andrea Riccardi, LM Nguyễn Ngọc Sơn, LM Vinh Sang, Đ.Ô. Nguyễn Văn Tài,
LM Phan Tấn Thành, LM Lê Quang Uy, Lê Quang Vinh.
- Tài liệu của các
Giáo Phận Sàgòn, Vĩnh Long, Vinh, St Paul and Minneapolis.
[1] “Nouveau Regard sur la Doctrine
Sociale de l’Église”, Hervé Carrier, S.J., Conseil Pontifical Justice et Paix,
Cité du Vatican, 1990. Bản tiếng Việt:”Một Cái Nhìn về Học Thuyết Xã Hội Công
Giáo”, Định Hướng, 1999
[2] “The Social Agenda, A Collection of
Magisterial Texts”, Rev. Robert A. Sirico & Rev. Maciejo Zieba, Libreria
Editrice Vaticana, 00120 Citta Del Vaticano, 2000
[3] Còn gọi là hỗ trợ hay phụ túc
[4] Bầu ơi thương
lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.