TIÊN TRI - NGÔN SỨ - SỨ NGÔN
1. Lời mở đầu
Khi cuốn Nghi thức
Thánh Lễ 2005 được UBPT phát hành và có lời giải thích tại sao không dùng từ
“ngôn sứ” mà trở lại dùng từ “tiên tri” để dịch từ propheta (Latinh) hay
prophetes (Hylạp), người ta đã nhận được nhiều phản ứng khác nhau.
Một ngôn ngữ còn đang
sử dụng là một ngôn ngữ sống, ngôn ngữ sống thì có thay đổi, bổ sung, như khoa
điện toán vẫn phải tạo ra rất nhiều từ mới để diễn tả những ý tưởng mới. Trường
hợp từ “ngôn sứ” cũng vậy. Chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa của từ “propheta” và
những từ đang có trong tiếng Việt để dịch từ này.
2. Propheta
2.1. Tìm hiểu về từ
nguyên
Tiếng Latinh cổ
propheta là từ tiếng Hylạp prophetes, nghĩa là người thông ngôn (interpreter),
người phát ngôn (spokeman) đặc biệt của các thần linh, bởi tiếp đầu ngữ pro có
nghĩa là “trước” và động từ phermi có nghĩa là “nói”, từ nguyên ngữ Ấn Âu có âm
gốc *bha (chẳng hạn, bhanati trong ngôn ngữ văn chương cổ Ấn Độ (tk. IV tcn),
nghĩa là “nói”). Prophetes được dùng trong bản Thánh Kinh LXX để dịch tiếng
Hipri nabi hoặc khozeh, nghĩa là thầy bói (soothsayer), thầy thị kiến (seer).
Tiếng Hipri có những
chữ này: (1) Nabi, do động từ naba có nghĩa là “sôi sùng sục”,
“sủi bọt ra” như một suối nước, thuật từ này có nguồn gốc từ tiếng Ảrập có
nghĩa “tỏ bày, nói ra”. Vì vậy nabi là người nói một cách tự do từ một trái tim
bị thúc đẩy bởi sự linh ứng từ Thiên Chúa. (2) Khozeh, do một động từ có
nghĩa là “nhìn thấy”, vì vậy khozeh được gọi là nhà tiên tri, thầy thị kiến (1
Sm 9,10-11), người đã nhìn thấy Thiên Chúa hiển lộ, những sự thật của Thiên
Chúa, và nói ra những gì đã đuợc nhìn thấy nơi Thiên Chúa.
Theo các tác giả gần
đây, từ Hylạp prophetes được dịch ra Latinh cổ là vates (thầy bói), nhưng từ
Latinh hoá propheta đã chiếm ưu thế trong thời hậu cổ điển (năm 300-700), chủ
yếu do các văn sĩ Kitô giáo, chắc chắn bởi vì thuật từ vates (thầy bói) tạo sự
liên tưởng ngoại giáo. Trong tiếng Latinh hiện đại, prophetes cũng dịch là
mantis [1]. Ý nghĩa không tôn giáo trong tiếng Anh (prophet: thi sĩ) có từ năm
1848; và từ năm 1615 prophet còn được sử dụng để chỉ Mahomet để dịch thuật từ
al-nabiy của tiếng Ảrập, và đôi khi cũng gọi là al-rasul, nghĩa là “sứ giả”
(messenger).
2.2. Tìm hiểu về nội
dung
Từ propheta được sử
dụng trong các tôn giáo lớn như: Do Thái giáo, Kitô giáo, Hồi giáo và Bahá'i
giáo với những nội dung như sau:
- Propheta là những sứ giả được Thiên Chúa soi sáng, để nói nhân
danh Thiên Chúa, để chuyển đạt các mệnh lệnh của Thiên Chúa hay các đòi hỏi đã
có trong lề luật, những lời cảnh cáo hay những lời hứa cho dân Ngài.
- Trong Cựu Ước: (a) Môisen là vị propheta lớn nhất trong các vị
prophetes [2] của Cựu Ước, là người được chọn để nói thay cho Thiên Chúa và
hướng dẫn dân
- Trong Tân Ước: (a) Phúc Âm có nói đến propheta Dacaria (Lc 1,67),
propheta Simêôn và prophetissa [3] Anna (Lc 2,25.36). (b) Gioan Tiền Hô được
coi là propheta lớn nhất mọi thời vì được tuyển chọn để loan báo khởi điểm việc
thực hiện ý định cứu rỗi nhân loại của Thiên Chúa. (c) Những người được linh
ứng để tiếp tục công việc của các prophetes thời Cựu Ước và để khích lệ anh em
của họ, được xếp sau các Tông đồ thời Hội Thánh sơ khai (1 Cr 12,28).
- Mahomet (570-632), người sáng lập Hồi giáo.
- Bahá'u'lláh (1817-1892), người sáng lập Bahá'i giáo.
- Người được xem hay tự cho mình là một lãnh tụ hay vị thầy được
linh ứng.
- Nhà tiên tri hay người báo trước việc tương lai: tiên tri cảnh
báo, tiên tri tận thế.
- Người tuyên ngôn một giáo lý, một sự nghiệp hay phong trào.
Tóm lại:
Theo Thánh Kinh, propheta là sứ giả của Thiên Chúa và là nhà thuyết giáo, thứ
đến là người báo trước tương lai (nhà tiên tri) [4].
3. Ngôn sứ và sứ ngôn
3.1. Tìm hiểu ý nghĩa
theo tự điển
* Ngôn: chữ Hán là言, cách cấu tạo chữ có
nhiều giải thích: (a) có người giải thích là bộ 辛 (tân, cổ văn nghĩa là người tù) và chữ口 (khẩu, miệng), nói
thẳng là ngôn. (b) Hay là bộ舌 (thiệt: lưỡi) và chữ 二 (cổ văn là thượng), những gì phát xuất từ lưỡi là ngôn. (c) 言 (ngôn) cổ văn là音 (âm). Dù cách giải
thích cấu tạo chữ như thế nào đi nữa, chữ “ngôn” cũng có nghĩa là: dt.
(1) Âm thanh phát xuất từ miệng để tuyên xưng chính mình là ngôn. (2) Mệnh
lệnh. (3) Nghị luận. (4) Lời nói. (5) Một câu văn: nhất ngôn. (6) Một chữ: ngũ
ngôn thi. (7) Họ Ngôn. (động từ) (8) Nói.
* Sứ : Chữ Hán là使: gồm bộ 人 (nhân: người) và chữ 吏 (lai: lại, tới lui),
có những nghĩa sau đây:
使: dt.(1) Người vâng mệnh trên đi làm một việc gì. (2) Viên
chức được phái đi làm việc ở nước ngoài. (3) Vâng mệnh của chủ nhân mà ứng phó
với người ngoài. (4) Nhận làm một việc khó khăn nguy hiểm. (5) Những vị thuốc
để làm truyền tống điều độ cho phương thuốc: tá sứ. đt.(6) Lệnh. (7) Sai
phái. (8) Sử dụng.
Chữ Nôm
có 3 nghĩa : dt.(1) Bông ngọc lan, bông sứ cùi (frangipani, hoa đại).
(2) Tên loại chuối : chuối sứ. (3) : Đất nung tráng men, gốm trắng: chậu sứ.
3.2. Tìm hiểu về nguồn
gốc và ngữ pháp
Vì có người cho rằng
việc ghép từ “ngôn” và từ “sứ” thành từ “ngôn sứ” là không hợp lệ, không đúng
văn phạm. Nên sau đây, chúng tôi thử tìm hiểu về nguồn gốc và việc ghép từ này.
“Ngôn sứ” và “sứ ngôn”
là hai thuật từ không có trong tiếng Trung Quốc, chỉ mới có trong tiếng Việt từ
30-40 năm nay. Đây là hai thuật từ ghép phụ nghĩa [5], gồm hai thành tố cùng
loại (gốc chữ Hán), đều có nghĩa, có quan hệ hạn định [6]. Nếu xét theo quan hệ
cú pháp của tiếng Hán [7]: trong “ngôn sứ” [8] thì “sứ” là thành tố chính, chỉ
sự vật (người) và “ngôn” là thành tố phụ, chỉ hành động, ngược lại: trong “sứ
ngôn” [9] thì “ngôn” là thành tố chính, chỉ sự vật (lời) và “sứ” là thành tố
phụ, chỉ hành động. Như vậy, “ngôn sứ” và “sứ ngôn” (theo cú pháp tiếng Hán) là
hai thuật từ có nghĩa khác nhau. Nhưng từ “sứ ngôn” trong bộ Điển ngữ Thần học
Thánh Kinh [10] là từ ghép nghĩa theo quan hệ cú pháp của tiếng Việt [11], nên
đồng nghĩa với từ “ngôn sứ” (tương tự Thánh Kinh và Kinh Thánh). Đây là một
trường hợp phức tạp và hãn hữu, hiện nay các tác giả Công giáo vẫn sử dụng hai
thuật từ này với nội dung khác nhau tuỳ theo ngữ cảnh.
Về nguyên tắc, nghĩa
của từ ghép phụ nghĩa không thể có hiện tượng tự do về mặt trật tự; yếu tố nào
phải đứng trước, yếu tố nào phải đứng sau, là một vấn đề do thói quen thông
thường (ngữ ngôn) chứ không phải do chuẩn mực chi phối (ngữ pháp). “Ngôn sứ”
cấu tạo theo lối Hán, “sứ ngôn” cấu tạo theo lối Việt, hai thuật từ này có thể
song song tồn tại. Đây là hiện tượng song song tồn tại của hai kiểu cấu tạo (1
bên Hán, 1 bên Việt) chứ không phải là bắt nguồn từ hiện tượng song song tồn
tại của hai khả năng mà mỗi kiểu cấu tạo cho phép như ở trường hợp những từ
ghép láy nghĩa (ví dụ: đơn giản / giản đơn, đấu tranh / tranh đấu, ca ngợi /
ngợi ca, che chở / chở che…).
Theo Cha Lê Văn Lý,
thói quen thông thường là một định luật quan trọng của ngôn ngữ, ngài đưa ví
dụ: trước kia người ta nói lý trưởng, tỉnh trưởng (từ cấu tạo theo tiếng Hán),
nhưng sau này lại xuất hiện thuật từ trưởng ấp (từ cấu tạo theo tiếng Việt).
Đúng lý phải nói là ấp trưởng, nhưng thói quen lại nói là trưởng ấp, và ngài
viết: “Người nào nói ngược lại với thói quen: ‘Ấp trưởng’ thay vì ‘trưởng ấp’,
‘học ngữ’ thay vì ‘ngữ học’, ‘học đại’ thay vì ‘đại học’, sẽ không được quần
chúng noi theo, nếu như không bị người ta chê cười” [12].
Theo chúng tôi, người
Công giáo hiện nay quen dùng từ sứ ngôn theo cấu tạo tiếng Hán hơn là tiếng
Việt, và thuật từ sứ ngôn không dùng đồng nghĩa với ngôn sứ (propheta) mà chỉ
dùng với nghĩa là lời ngôn sứ (prophetia) mà thôi.
3.3. Nhận xét về việc
dùng từ ngôn sứ để dịch từ propheta
Trong tài liệu CHÚ
THÍCH BẢN DỊCH NGHI THỨC THÁNH LỄ của Uỷ ban Phụng tự HĐGMVN (xb. 1992), trang
30 có viết: ‘Từ Hylạp prôphêtês gồm hai yếu tố: prô và phermi. Phemi là nói,
còn “prô” trong từ “prôphêtês” có nghĩa là ‘thay thế cho’. Về từ “prô” trong
từ“prôphêtês”, A. Gelin và L. Monloubou có viết: "La particule 'pro' qui
entre dans la composition du mot grec 'prophète' n'est point le 'pro' temporel
(dire à l'avance), mais plutôt le 'pro' substitutif (dire à la place de).
Ainsi... le terme grec nous indiquerait plus un prédicateur (forthteller)
qu'un prédiseur (foreteller) (Introduction à la Bible II,
Như vậy, propheta là
'người nói thay cho ai' (Thiên Chúa hoặc thần linh) trước khi có nghĩa là
'người biết trước'. Vả lại nhìn vào công việc của các ngôn sứ, chúng ta thấy
các ngài thường được sai đi và thay mặt Thiên Chúa, nói những gì Người đã dạy
qua luật Môisê, còn yếu tố 'biết trước' không phải là yếu tố chính yếu.
Vì thế, chúng tôi xin
đề nghị dùng từ 'ngôn sứ' để dịch từ Propheta: ngôn sứ là người được sai đi nói
thay mặt ai nói chung và thay mặt Thiên Chúa nói riêng trong Thánh Kinh”.
Lý do mà UBPT HĐGMVN
(1992) đã đề nghị dùng từ “ngôn sứ” để dịch từ propheta là vì ngôn sứ là
người được sai đi nói thay mặt ai nói chung và thay mặt Thiên Chúa nói riêng
trong Thánh Kinh xem ra diễn tả nội dung của từ propheta là ‘người nói thay
cho ai’ (Thiên Chúa hoặc thần linh) trước khi có nghĩa là ‘người biết trước’ nhiều
hơn khi so sánh với thuật từ tiên tri là người biết trước.
Trong tài liệu MỘT SỐ
NHẬN XÉT VỀ CUỐN NGHI THỨC THÁNH LỄ 2005, đề ngày 08/09/2006, hai cha Anbetô
Trần Phúc Nhân và Micaen Nguyễn Hữu Phú thay mặt Nhóm Phiên Dịch CÁC GIỜ KINH
PHỤNG VỤ có viết: “Theo cách hiểu thông thường, tiên tri là người “biết trước”
việc sẽ xảy ra. Như vậy từ ngữ này không nói hết được ý nghĩa của từ propheta
(Latinh) hay prôphetes (Hylạp). Vai trò chính yếu của prôphetes không phải là
biết trước và báo trước tương lai, nhưng là thay mặt Thiên Chúa mà nói ra ý của
Chúa. Vì thế SLR 1992 đề nghị dùng từ “ngôn sứ”, nghĩa là người được sai đi để
thay mặt Chúa (sứ) nói lên lời (ngôn) của Chúa (CT tr. 42-43)”.
4. Tiên tri
4.1. Tìm hiểu ý nghĩa
theo tự điển
* Tiên:
Có rất nhiều chữ Hán (先,仙,僊, 僲, 氙, 氠, 鱻, 秈, 籼, 戔(戋), 箋(笺), 牋, 鞯, 涎,湔, 椾, 箯, 籛, 濺, 揃, 煎, 跹, 躚, 蹮, 綅, 鞭, 韉, 鬋, 鮮 [13]), nhưng liên quan đến từ “tiên tri” phải là chữ 先. Chữ này có bộ 人 (nhân: người) và chữ 之 (chi: đi): người ở
trên, nghĩa là người đi trước, “tiên” có những nghĩa này: (1) Sớm, trước: tiên
học lễ, hậu học văn. (2) Ở phía trước. (3) Người lớn tuổi: tiên sinh. (4) Thế
hệ trước: tiên nhân, tiên hiền. (5) Người đã chết: tiên phụ (cha tôi, người đã
mất). (6) Tiếng lịch sự: nữ sĩ môn, tiên sinh môn (thưa quý bà, quý ông). (7)
Điều chủ yếu. (8) Đứng đầu. (9) Khởi xướng. (10) Thứ nhất. (Đông từ) (11) Hướng
dẫn / khởi xướng / giới thiệu.
Chữ Nôm
có 1 nghĩa là: Câu chửi: tiên sư nó.
* Tri: Cũng có rất nhiều chữ
Hán (知, 夂, 滓, 菑, 葘, 緇(缁), 菑, 錙(锱), 蜘, 鼅) nhưng liên quan đến thuật từ “tiên” tri phải là知. Chữ “tri” có bộ 矢 (thỉ: nhanh) và chữ 口 (khẩu: miệng): khi
người ta biết được sự việc, thì miệng mới có thể nhanh
chóng nói ra. “Tri” có những ý nghĩa sau: (1) Biết, nhận ra: tri âm. (2) Thông
hiểu sự vật: tri thức. (3) Được biết nhiều: hải nội tri danh. (4) Báo: thông
tri. (5) Thân thiết: tri giao, tri kỷ. (6) Tiếp tân: tri khách (sự đón khách -
cổ văn). (7) Trông coi, cai trị một hạt: tri phủ. (8) Cảm thấy sự vật, những
quan niệm đến từ trực giác: lương tri. (9) Muốn. (10) Thưởng thức. (11) Phát
giác. (12) Ghi nhớ. (13) Sang ngang, đôi. (14) Họ Tri. (15) (cụm từ): tri canh
điểu (chim sẻ đỏ cổ - robin), tri liễu (con ve sầu).
Chữ Nôm
có 1 nghĩa là: Day cho nhẵn lì: Lấy chân tri con kiến...
2.2. Tìm hiểu ý nghĩa
theo từ điển
Trong các từ điển Tiếng
Việt và Hán Việt, “tiên tri” nghĩa là: đt. (1) Biết trước, dt.(2)
Người sáng suốt đoán trước được việc sẽ xảy ra: Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri
(Truyện Kiều).
Theo từ
điển TỪ HẢI (Đài Loan) [14], “tiên tri” có 2 nghĩa (xin dịch nguyên văn) là:
Được lý giải trước hơn người bình thường. Sách Mạnh Tử - Vạn Chương Thượng:
"Để những người đó biết trước rồi giúp những kẻ khác biết sau, để họ giác
ngộ truớc giúp những người khác giác ngộ sau”. Chú giải: Tri: biết lý do của
sự việc. (Prophet) từ ngữ tôn giáo, còn gọi là kẻ tiên báo, những
người truyền đạt ý chỉ của thần để cảnh cáo người đời. Những vị tiên tri cổ
đại của
Theo từ điển TỪ HẢI
(TQ) [15], tiên tri có 3 nghĩa (xin dịch nguyên văn) là: Hiểu biết sự việc
sớm hơn người khác. Sách Mạnh Tử-Vạn Chương Thượng: “Trời sinh dân này, để họ
biết trước rồi giúp những kẻ biết sau, để họ giác ngộ trước rồi giúp những
người giác ngộ sau”. Những người được Thượng Đế tuyển chọn để thông truyền
ý chỉ của Thượng Đế hay tiên báo sự việc được Thánh Kinh Do Thái giáo, Kitô
giáo nhắc đến. Theo truyền thuyết của Do Thái giáo, những tiên tri thời kỳ
trước có quyền sách phong quốc vương, như tiên tri Samuel, Elia; những vị ở
thời kỳ sau như Isaia, Giêrêmia đều là những vị lãnh đạo tôn giáo có ảnh hưởng
về chính trị. Dịch từ tiếng Ảrập
“AL-Năbi”, cũng gọi là kẻ tiên báo, kẻ biết sự việc ẩn dấu. Hồi giáo tin rằng
nơi các dân tộc đều đã có xuất hiện một số người được Thánh Alah tuyển chọn hay
mặc khải để loan truyền sứ mạng của Thánh Alah, dẫn người khác đến với chính
lộ. Họ được gọi là "tiên tri", cũng gọi là sứ giả của Thánh Alah.
Những học giả Hồi giáo Trung Quốc thời giao tiếp giữa triều Minh và triều Thanh
đã dịch là "Thánh Nhân", Kinh Koran nhắc đến tên và sự tích của 26
tiên tri, gọi Mahomet là vị tiên tri cuối cùng, là vị chí thánh (xem H. 3).
H. 3 - Nguyên văn giải nghĩa chữ tiên tri trong Từ Hải
xuất bản tháng 01/2002, tạia Thượng Hải, của Trung Quốc
3.3. Tìm hiểu về nguồn
gốc
Trong quá trình phát
triển chữ quốc ngữ, từ “propheta” lúc đầu chưa được dịch nghĩa, chỉ mới được
phiên âm là “phôrôphêta” như có thể thấy trong Sách Dạy Tập Đi Đàng Nhân Đức
Lọn Lành [16] (xb. 1897): “Nhân vì sự ấy, Đức Chúa Trời đã dùng miệng ông thánh
Phôrôphêta Giêrêmia mà phán rằng: Kẻ khôn ngoan chớ cậy tài trí khôn ngoan…”
(Q.I, Đoạn I, tr. 27), “Cho nên ông Phôrôphêta Igiaia đã trách rằng: sao bay
chẳng dùng tiền bạc bay mà mua bánh mua quà? Sao chẳng lấy công lênh bay khó
nhọc mà nuôi mình, bay chịu khó nhọc làm nhiều việc lành, bay dùng công ấy mà
làm ích cho mình bay, chẳng hơn là bỏ nó mất đi hết ru?” (Q.III, Đoạn I, tr.
29).
Từ “tiên tri” được dùng
để dịch từ “propheta” trong bản Thánh Kinh tiếng Việt đầu tiên [17] (xb. 1913),
đây là có lẽ là lần đầu tiên thuật từ “tiên tri” được sử dụng trong Giáo Hội
Việt Nam, sau đó được Hội Đồng Kinh (Huế, 28/07/1924) cho sử dụng [18] trong
các Kinh Cầu Các Thánh, Kinh Cầu Đức Bà và Kinh Cầu Dõi Linh Hồn… về sau được
sử dụng phổ biến trong các kinh sách và phụng vụ mặc dù vẫn còn một vài kinh
chưa được cập nhật như Kinh Cầu Đức Bà Diễn Ca [19] (xb. 1940) có câu:
“Nữ Vương trên các Tổ
Tiên,
Gồm trên các Thánh
Sấm Truyền Phôrô
Nữ vương trên thánh
Tông Đồ
Cùng trên các thánh
Chúa cho phúc lành…”.
hoặc Kinh
hát Lễ Sinh Nhật ông thánh Gioan Baotixita, trong Mục Lục (xb. 1974) tr.501:
“Các nam nhi sinh bởi
phụ nhân,
không ai lớn hơn Gioan
đặng;
Đấng hiền trí gọi là tiền thánh…”.
Trước 1975, trong nhà
nguyện Đại Chủng viện Vĩnh Long có ghi câu đối của Cha Phaolồ Nguyễn Văn
Thích:
“Kê cổ tiên hiền
truyền chủ dụ,
Nhi kim
Thánh Tử đối dân đàm” (Dt 1,1).
3.4. Nhận xét về việc
dùng từ tiên tri để dịch từ propheta
3.4.a. Hai quyển từ điển Từ
Hải nói trên đã có những giải thích đúng và khá đầy đủ về “prophet” mà Trung
Quốc đã dịch là “tiên tri” [20]. Và như vậy, người Trung Quốc có thể hiểu từ
“tiên tri” với nội dung số giống như từ propheta của Kitô giáo.
3.4.b. Nhưng điểm cần lưu ý
là ở nội dung số của từ này: Câu trích dẫn từ Vạn Chương Thượng của sách Mạnh
Tử là một minh hoạ cho thấy “tiên tri” (được liên tưởng đến thành ngữ
"tiên tri tiên giác") để chỉ hàng trí thức, và trí thức (tiên tri)
thì 'đương nhiên' có bổn phận đem sự hiểu biết của mình để thức tỉnh người
khác, bổn phận đó quyết liệt như mệnh trời sai khiến vậy: “Thiên chi sinh tư
dân dã, sử tiên tri giác hậu tri, sử tiên giác giác hậu giác dã; dư thiên dân
chi tiên giác giả dã; dư tương dĩ tư đạo giác tư dân dã; phi dư giác chi nhi
thuỳ dã! (nghĩa là: Trời sanh ra dân này, khiến người hiểu biết trước đánh
thức kẻ hiểu biết sau, người thức tỉnh trước đánh thức kẻ thức tỉnh sau; ta là
kẻ thức tỉnh trước của dân trời sinh ra đây, ta sẽ đem đạo ấy mà đánh thức dân
này; nếu không phải ta đánh thức họ thì còn ai nữa!)” (Mạnh tử, Vạn
Chương Thượng [21]). Chu Hy chú giải: “Tri là biết việc phải nên thế, giác là
biết lẽ tất nhiên thế, đánh thức kẻ hiểu biết sau, kẻ thức tỉnh sau, như là gọi
kẻ ngủ cho tỉnh dậy. Nói là trời sai khiến, là vì lẽ trời đương nhiên
như thế, như là trời sai khiến vậy”. Theo Hồ Thu Nguyên viết trong tập
Trung Quốc Cổ Đại Trí Thức thì: phần tử trí thức là những người hiểu trước biết
trước (tiên tri tiên giác) rồi đem sự hiểu biết học hỏi của mình cống hiến cho
tiến bộ nhân loại, xã hội, dân tộc. Nếu “propheta là người cưu mang mặc khải”,
theo kiểu nói của cha K. Rahner [22], hay là người được Thiên Chúa sai đi để nói
ý Chúa ra cho dân, thì bậc tiên tri tiên giác cũng là người cưu mang minh triết
(sự hiểu biết) và là người được thúc bách bởi mệnh trời phải làm nhiệm vụ giáo
hoá dân.
3.4.c. Thực ra từ
“prophetes” dùng trong bản LXX không phải là biên dịch mà chỉ là phỏng dịch của
từ “nabi” (người nói một cách tự do từ một trái tim bị thúc đẩy bởi sự linh ứng
từ thần linh) trong tiếng Hipri [23], do đó có thể nói từ “tiên tri” là biên
dịch của từ “nabi”, hay nói cách khác: “tiên tri” dịch sát nghĩa với nabi
hơn so với từ “ngôn sứ” [24].
3.4.d. Đoàn sủng tiên tri là
một đoàn sủng cho mặc khải (Am 3,7; Gr 23,18; 2V 6,12) giúp cho con người biết
được điều mà sức riêng họ không thể khám phá ra được. Đối tượng của đoàn sủng
đó vừa đa tạp vừa đồng nhất: Đó là ý định cứu rỗi sẽ hoàn thành và thống nhất
nơi Đức Giêsu Kitô (x Dt 1,1t). Thiên Chúa phán rằng: “Cũng như mưa với tuyết
sa xuống từ trời, không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất,… thì Lời Ta cũng
vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả,
chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó” (Is 55,11-12).
Như vậy - theo nghĩa này thì - lời loan báo [25] của propheta hoàn
toàn là lời tiên tri nghĩa là ‘nói trước điều sẽ đến trong tương lai’, một
nội dung mà từ “ngôn sứ” không diễn tả được!
3.4.e. Như vậy, từ “tiên
tri” quả thật là "cũ kỹ" nhưng không hẳn chỉ là “thầy bói”, nghèo nàn
nội dung hay thiếu đúng đắn... trái lại, với tư cách một bậc tiên tri tiên
giác, người được thôi thúc phải nói ra lời Thiên Chúa đã soi sáng cho mình
trước đó, như một nhà thuyết giáo để nói thay cho Thiên Chúa, đồng thời danh
hiệu tiên tri cũng khẳng định rằng lời của Chúa - mà ông loan báo - sẽ được
thực hiện.
Tóm lại,
có thể nói: Tiên tri là ‘người được thôi thúc phải nói ra điều đã
được biết trước đó nhờ hiểu biết nói chung và nhờ Thiên Chúa linh ứng
nói riêng trong Kinh Thánh, như một nhà thuyết giáo với niềm tin rằng lời mà
ông loan báo sẽ được thực hiện’ xem ra diễn tả nội dung của từ “propheta”
muốn diễn tả, tức là từ “nabi”, hơn khi so sánh với từ “ngôn sứ” là 'người được
sai đi nói thay cho ai đó'.
5. Lời kết
Từ “Ngôn sứ” nói lên
rằng propheta là người được sai đi để thay mặt Chúa (sứ) nói lên lời (ngôn) của
Chúa. Danh xưng ngôn sứ diễn tả nhiệm vụ của propheta, ngôn sứ là danh
từ chỉ chức vụ. Từ “Tiên tri” nói lên rằng propheta là người nói ra điều đã
được biết trước đó nhờ Thiên Chúa linh ứng với niềm tin rằng lời mà ông loan
báo sẽ được thực hiện. Danh xưng tiên tri diễn tả tính chất của propheta,
tiên tri là danh từ chỉ bản chất.
UBPT HĐGMVN (2005) sau
khi đã cân nhắc và bỏ phiếu đã quyết định sử dụng trở lại từ “tiên tri” trong
các bản văn phụng vụ Thánh Lễ thì rất đúng với nghĩa propheta, nhưng không có
nghĩa là từ “ngôn sứ” không được sử dụng trong các tài liệu khác. Chẳng qua vì
lựa chọn nào cũng bao hàm sự từ bỏ và đây là một quyết định khó khăn không thể
tránh được.
--------------------------------
[1] Mantis (Lat.) cũng
có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là mantis nghĩa đen là con bọ ngựa, nghĩa bóng là
prophetes (do tư thế đôi chân trước của con vật này tạo liên tưởng đến hình ảnh
người giơ hai tay lên cao để cầu nguyện).
[2] Số nhiều của tiếng
Latinh.
[3] Giống cái của từ
propheta.
[4] Donald Attwater,
THE CATHOLIC ENCYCLOPAEDIC DICTIONARY, Cassell & Co., Ltd., 2nd Edition
Revised,
[5] Từ ghép phụ
nghĩa là kiểu từ ghép nghĩa có một thành tố trực tiếp đứng làm nòng cốt rồi
bên cạnh ghép thêm một thành tố khác, đứng làm thành tố phụ, hai thành tố quan
hệ không bình đẳng với nhau, ví dụ: thiên thần, phẩm phục, thí nghiệm,… phân
biệt với những từ ghép láy nghĩa gồm các thành tố có vai trò bình đẳng
với nhau và có ý nghĩa láy nhau như: phụng thờ, yêu mến, hư vô, tranh đấu, thị
phi, thành bại…
[6] Quan hệ hạn định:
thành tố phụ giới hạn ý nghĩa thành tố chính, ví dụ: học trò, hải quân, bệnh
viện…; phân biệt với quan hệ động bổ (động từ + bổ từ): vệ sinh, phòng
bệnh, cứu thương,… và quan hệ động trạng (động từ + trạng từ): cải tiến,
lạc hậu…
[7] Theo cú pháp tiếng
Hán trong kết cấu chính phụ, thành tố phụ bao giờ cũng đặt trước thành tố
chính, theo dạng: định tố + danh từ hoặc bổ tố + động từ.
[8] Latinh: propheta,
Hylạp: prophetes, Anh: prophet, Pháp: prophète, Việt: (còn dịch là) tiên tri.
[9] Latinh: prophetia,
Hylạp: prophetia, Anh: prophecy, Pháp: prophètie, Việt: (còn dịch là) lời tiên
tri, sấm ngôn, ơn nói tiên tri.
[10] Công trình dịch
thuật bộ VOCABULAIRE DE THÉOLOGIE BIBLIQUE (Cerf, Paris, 2èr Edition, 1971) từ
tiếng Pháp sang tiếng Việt do 50 chủng sinh làm việc dưới sự hướng dẫn của linh
mục viện trưởng và linh mục khoa trưởng phân khoa thần học Giáo Hoàng Học Viện
Thánh Piô X, Đà Lạt từ 1973-1976 - trong đó có thầy Phanxicô Xaviê Trịnh Văn
Phát (nay là linh mục đang làm mục vụ tại Úc Châu) là người đã sử dụng thuật từ
“sứ ngôn” lần đầu để dịch từ prophète, từ “sứ đồ” để thay cho tông đồ, từ “Sứ
Vụ” để dịch từ Actes des Apostres.
[11] Cú pháp tiếng Việt
ngược lại với cú pháp tiếng Hán nói trên (ct. 7).
[12] x. Lê Văn Lý, SƠ
THẢO NGỮ PHÁP VIỆT NAM, TrungTâm Học Liệu Bộ Giáo Dục xuất bản, Sài Gòn, 1972,
tr. 1-3.
[13] Chúng tôi không
giải nghĩa những chữ này, vì sợ làm rối người đọc.
[14] Từ điển TỪ HẢI
(ĐL), nxb Trung Hoa, Đài Loan, tháng 12/1972.
[15] Từ điển TỪ HẢI
(TQ) do Hạ Chinh Dân (chủ biên) và 554 học giả Trung Quốc cải biên, xuất bản
tại Thượng Hải, tháng 01/2001 là quyển từ điển có giá trị và chính xác hàng đầu
ở Trung Quốc.
[16] Bản nguyên tác
bằng tiếng Pháp LA PRATIQUE DE LA PERFECTION CHRÉTIENNE do cha Alphonse
Rodriguez viết năm 1616. Bản phóng tác bằng chữ Nôm cổ do Philipphê cố chính
Trung (Philippe Sérard, MEP) viết năm 1799 và in tại Ninh Bình năm 1865, dày
4800 trang. Bản dịch quốc ngữ có tựa đề SÁCH DẠY TẬP ĐI ĐÀNG NHÂN ĐỨC LỌN LÀNH,
in lần I tại Kẻ Sở năm 1897, dày 2000 trang; in lần II tại
[17] Cố chính Linh
(Albertus Schlicklin, Địa phận Tây Đàng Ngoài), THÁNH KINH - Cứ bản Vulgata,
Societé des Missions Etrangères,
[18] In lần I trong “BẢN
KINH MỚI ĐỌC SÁNG TỐI NGÀY THƯỜNG VÀ NGÀY CHỦ NHẬT”, Kẻ Sở, 1925, do Đức cha
Anrê Bắc truyền tử (imprimatur).
[19] Còn gọi là Kinh
Nghinh Hoa Tụng Kỳ Chương, kinh này hát khi đi rước hoa vào nhà thờ dâng kính
Đức Mẹ, xem Toàn Niên Kinh Nguyện, xuất bản năm 1940.
[20] Không riêng Trung
Quốc, cả Nhật Bản cũng dịch từ propheta là nhà tiên tri (預言者,予言者).
[21] Mạnh Tử, Chu Hy
tập chú, MẠNH TỬ, Tập hạ, Nguyễn Thượng Khôi dịch, Trung Tâm Học Liệu xuất bản,
in lần II, Sài Gòn, 1972, tr.111.
[22] Karl Rahner, SACRAMENTUM
MUNDI - AN ENCYCLOPEDIA OF THEOLOGY, VOL. 3, Burn & Oates, London, 1970,
tr. 111.
[23] Xem bài của Bruce
Vawter, CM: INTRODUCTION TO PROPHETIC LITERATURE trong THE NEW JEROME BIBLICAL
COMMENTARY, Prentice Hall Inc., New Jersey, 1990. tr. 186-200.
[24] Trong tiếng
Indonêsia, mặc dù vay mượn rất nhiều từ tiếng Anh và Hà Lan, từ propheta được
dịch là nabi (!).
[25] Không chỉ là lời
nói, mà có thể là hành động hay đời sống kèm theo dấu chỉ…
-------------------------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. THE
2. J. Dheilly, EN
CE TEMPS-LÀ, LE JOURNAL DE LA BIBLE, Lã Thanh Lịch OP. dịch: ĐỂ LÀM GIÀU KIẾN
THỨC KINH THÁNH, UBĐKCG TP.HCM, in ronéo, 1992, tập IV, tr. 1325.
3. THE RANDOM
HOUSE UNABRIDGED DICTIONARY, Random House Inc., 2006.
4. Lm. Hồng Phúc,
CSsR, ĐIỂN NGỮ ĐỨC TIN CÔNG GIÁO, 1996.
5. Olivier de La
Brosse & Ntg, DICTIONNAIRE DE LA FOI CHRÉTIENNE, Cerf, Paris, 1968.
6. Nguyễn Tài
Cẩn, NGỮ PHÁP TIẾNG VIỆT, Nxb. Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội, in
lần II, 1981.
7. Lê Văn Lý, SƠ
THẢO NGỮ PHÁP VIỆT NAM, Trung tâm Học liệu Bộ Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1972.
8. CHÚ THÍCH BẢN
DỊCH NGHI THỨC THÁNH LỄ của Uỷ ban Phụng tự HĐGMVN, (1992).
9. Mạnh Tử, Chu
Hy tập chú, MẠNH TỬ, Tập hạ, Nguyễn Thượng Khôi dịch, Trung tâm Học liệu xuất
bản, in lần II, Sài Gòn, 1972.
10. Karl Rahner,
SACRAMENTUM MUNDI - AN ENCYCLOPEDIA OF THEOLOGY, Burn & Oates, London,
1970, Vol.3, tr. 111.
11. Bruce Vawter, CM:
INTRODUCTION TO PROPHETIC LITERATURE trong THE NEW JEROME BIBLICAL COMMENTARY,
Prentice Hall Inc., New Jersey, 1990. tr. 186-200.
12. Nguyễn Như Ý (chủ
biên), ĐẠI TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1999.
13. Nguyễn Lân, TỪ
ĐIỂN TỪ VÀ NGỮ VIỆT
(www.truyenthongconggiao.org
Cập nhật: 03/03/2011)