GIỮ
CHAY - ĂN CHAY
1. Tháng 3-2007, tôi có viết một bài giải thích
hai thuật từ trai tịnh và chay tịnh, nay có người lại hỏi tôi có gì khác biệt
giữa thuật từ “giữ chay” và “ăn chay”. Hai thuật từ này dùng rất phổ biến trong
cuộc sống hằng ngày, mà chúng ta ít để ý đến ý nghĩa khác biệt của nó. Vậy
chúng ta tìm hiểu xem hai thuật từ này đồng nghĩa hay khác nghĩa.
2. Tìm hiểu việc ăn chay, giữ chay trong vài
tôn giáo
2.1. Phật giáo
Theo quan điểm bình dân, Phật tử ăn chay là vì muốn tránh
quả báo luân hồi. Theo thuyết luân hồi, con người sau khi chết bị đày xuống địa
ngục, sẽ bị đẩy làm ngã quỷ (ma đói), sau khi hối cải sẽ được làm súc sinh
(loài vật), cuối cùng đầu thai trở lại làm người theo bánh xe luân hồi. Do đó,
tu sĩ Phật giáo hay nhiều Phật tử có thói quen ăn chay trường, tức là không ăn
thịt và những thức ăn có máu, vì có thể sẽ ăn thịt người thân của mình trong kiếp
súc sinh. Những ngày 1, 14, 15 và 30 âm lịch được coi là ngày mở cửa âm phủ,
các linh hồn được tự do, những ngày đó Phật tử thường ăn chay [1].
Thực ra, trong Phật giáo có hai trường phái chủ trương ăn
chay khác nhau. Phật giáo Nam Tông, vì muốn giữ truyền thống khất thực của Đức
Phật, thời Phật giáo Nguyên thuỷ, cho nên phái này chủ trương ăn chay theo cách
‘tam tịnh nhục’, nghĩa là những loại thịt nào mà mình không thấy người
ta giết, không nghe tiếng kêu la của loài thú bị giết, hay không có
sự nghi ngờ nào người khác vì mình mà giết, những loại thịt đó thì tỳ kheo
được thọ dụng, không phạm giới. Thế nhưng, Phật giáo Bắc Tông (Đại Thừa ở Trung
Quốc) thì không chấp nhận cách ăn chay này, họ quan niệm rằng ăn chay là không
được ăn thịt cá, chỉ ăn các loại rau đậu…
Tuy nhiên, dù Nam Tông hay Bắc Tông, mục đích của việc ăn
chay là nhằm tăng trưởng lòng từ bi, giảm bớt lòng sân hận, bằng cách tu tập
không sát sinh, biết thương yêu người đồng loại và ngay cả các loài vật khác.
Khi đã có lòng từ bi, không nỡ giết loài cầm thú, thì người ấy khó có thể giết
người. Đó là lý do tại sao đức Phật đưa ra giới cấm: ‘không được sát sinh’.
Giới này cũng chính là nhân tố để hình thành quan điểm ăn chay trong đạo Phật.
2.2. Hồi giáo
Người Hồi giáo ăn chay vào khoảng tháng 9 (lịch Hồi giáo,
gọi là tháng Ramadan). Trong tháng này, khi còn ánh sáng mặt trời, họ không
được ăn và uống, đến đêm thì mới ăn. Cũng trong tháng này, con người phải tha
thứ và sám hối, vợ chồng không được gần nhau vào ban ngày nhưng ban đêm vẫn có
thể ân ái với nhau. Trẻ em và phụ nữ có mang không phải thực hiện Ramadan.
Đối với Hồi giáo: Ăn chay là “nhịn ăn, nhịn uống trước rạng
đông đến hoàng hôn và quyết tâm diệt trừ những ham muốn tầm thường, chế ngự
được sự đói khát, đè nén được dục vọng là làm chủ được thể xác, không
còn bị nó sai khiến. Khi kềm chế được dục vọng là tinh thần tự giải thoát, ý
chí được tự do, tâm hồn thanh thản, đây là điều kiện cần cho việc tịnh tâm, cầu
nguyện và giúp thăng tiến về mặt tâm linh... “Ăn chay” là chấp nhận quy
phục Allah, mọi giai tầng trong xã hội đều phải tuân thủ như nhau: vua, quan,
sĩ, nông, công, thương, binh, đều phải nhịn ăn đúng giờ, xả chay đúng giờ quy
định... Hành động này thể hiện sự bình đẳng của nhân loại trước Allah”.
Như vậy, mục đích việc ăn chay trong Hồi giáo là để chế ngự
những ham muốn tầm thường, làm chủ bản thân, thăng tiến tinh thần.
2.3. Công giáo
Đối với người Công giáo, chay tịnh là một trong ba hành vi
được khuyên làm nhiều nhất trong đạo (cùng với việc cầu nguyện và bố thí), tín
hữu giữ chay để biểu lộ lòng sám hối, ăn năn, tưởng nhớ đến cuộc khổ nạn của
Chúa Kitô. Việc chay tịnh bao gồm nhịn ăn (jejunium [2]) và kiêng ăn
(abstinentia [3]) mà chúng ta quen gọi là “ăn chay” và “kiêng thịt”.
- Việc nhịn ăn (ăn chay): Trong ngày chay chỉ được
ăn một bữa no (chọn bữa nào cũng được), còn những bữa khác chỉ được ăn chút ít
để bụng còn đói. Trong ngày chay không được ăn vặt như kẹo, bánh,...
- Việc kiêng ăn (kiêng thịt): Cấm ăn thịt loài máu
nóng (heo, bò, gà, vịt…) bao gồm thịt và tất cả những thứ khác như tim, gan,
lòng... Nhưng được dùng các nước thịt và các đồ ăn có pha chất thịt, như cháo
nước thịt. Được ăn cá và loài máu lạnh (như ếch, rùa, sò, cua, tôm). Ngày kiêng
thịt cũng được phép dùng trứng và các sản phẩm từ sữa như bơ và phó mát [4]...
Qua việc chay tịnh, con người nhìn nhận mình lệ thuộc Thiên
Chúa, vì lúc không sử dụng lương thực Thiên Chúa ban, con người cảm nghiệm được
tính cách bấp bênh của sức lực mình: chay tịnh để tự hạ trước Thiên Chúa (x. Tv
34,13; 68,11; Đnl 8,3) [5].
Ngoài việc nhịn ăn và kiêng ăn nói trên, người thực hành
việc chay tịnh còn phải tránh xa tội lỗi và dục vọng, như gương của Chúa Giêsu
“giữ chay ròng rã bốn mươi đêm ngày” (Mt 4,2) và Thánh Luca nói rõ hơn, “trong
những ngày ấy, Người không ăn gì cả” (Lc 4,2).
Ý nghĩa đầu tiên và cụ thể nhất của giữ chay là chế ngự:
không ăn hoặc ăn ít hơn bình thường. Giữ chay không chỉ là một sự chế ngự có
tính cách bên ngoài, nhưng còn phải xuất phát tự trong lòng. Nó phải được kèm
theo một sự thay đổi lớn lao trong đời sống.
3. Nghĩa chữ ăn, giữ và chay
3.1. Ăn (chữ Nôm: 咹): đt. (1) Đưa thực phẩm vào bao tử: Ăn cháo đá bát (không
nhớ ơn), ăn chay (tránh dùng thịt cá và ngũ huân); (2) Đi kiếm thức ăn hoặc lợi
nhuận: Ăn mày, ăn xin, ăn bám, ăn hại, ăn lương; (3) Thắng cuộc: Ăn con xe, ăn
giải nhất, ăn non (vội rút lui khỏi cuộc đỏ đen sau khi chiếm được thắng lợi,
vì sợ sắp tới vận xui); (4) Thích hợp tiếp nhận: Ăn cánh, ăn khách, ăn ảnh; (5)
Thoả thuận: Ăn chịu, ăn gánh (ưng thuận gia nhập hội đoàn và đóng góp cho hội
đoàn), ăn giá (số tiền được thoả thuận giữa kẻ mua người bán); (6) Vui hưởng,
ăn uống nhân một dịp gì: Ăn chơi, ăn diện, ăn Tết; (7) Nam nữ sống chung: Ăn
nằm, ăn ngủ, ăn ở; (8) Thấm vào, dính vào, lan rộng ra: Giấy ăn mực, keo dán
không ăn, ăn nên làm ra (công việc làm ăn có phần hanh thông), nước ăn chân
(chân ngâm nước lâu bị hư da); (9) Lối cư xử và sinh sống: Ăn cháo đá bát (vô
ơn bạc nghĩa), ăn cơm nhà vác ngà voi (làm công vụ mà không được lợi lộc gì);
(10) Ngang với, giá trị tương đương: một đô la Mỹ ăn mười bảy nghìn đồng.
3.2. Giữ (chữ Nôm: 佇, 拧, 貯) : đt. (1) Cầm chắc trong tay, không để mất mát: Nắm giữ
đầu dây; (2) Để cạnh mình, trong mình và quan tâm đến cho khỏi mất, khỏi chuyển
sang người khác, khỏi thay đổi: Giữ chìa khoá; giữ hành lý, giữ độc quyền; (3)
Làm cho dừng, ngừng lại, ở lại: Đắp bờ giữ nước; (4) Cản trở sự thay đổi: Giữ
giá, giữ trật tự; (5) Hành động cách thận trọng, đề phòng thiệt thòi tai hại:
Giữ kẽ (cư xử e dè trước người lạ), giữ ý (không dám nói cho hết tư tưởng thầm
kín), giữ vệ sinh; (6) Đảm nhiệm một công việc hay chức vụ: Giữ chức giám đốc;
(7) Tuân thủ theo yêu cầu của một công việc, trung thành với một niềm tin: Giữ
đạo, giữ vững lập trường.
3.3. Chay (chữ Nôm 齋, 斎): Trong bài “Trai tịnh hay chay tịnh” năm 2007 tôi đã phân tích chữ
chay, chữ này là do chữ trai (齋, Hán Việt) chuyển sang, nên chay đồng nghĩa với trai. Chay nghĩa
là: (1) Kiêng ăn vì lý do tôn giáo: Ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối; (2)
Kiêng thịt cá và ngũ huân (5 món: nồng hành, tỏi, hẹ, kiệu, ngò) vì lý do tôn giáo:
Ăn chay trường; (3) Mời nhà sư tới cầu kinh cho người chết: Lập đàn chay; (4)
Cây cho trái ngọt và mềm lại cho vỏ dùng để ăn trầu: Trái chay, vỏ chay; (5)
Dầu thảo mộc dùng làm keo khi khô rất cứng: Trát dầu chay (hay đọc ra chai).
4. Nghĩa từ ăn chay, giữ chay
4.1. Ăn chay vốn là một từ bên Phật giáo và đã được
Cha Alexandre de Rhodes giảng trong Từ điển
Ăn chay, theo nghĩa hẹp, là ăn uống có kiêng cử
(Ví dụ: kiêng ăn thịt cá... đối với Phật tử, kiêng ăn ngoài bữa và giảm lượng
thức ăn... đối với người Công giáo, kiêng ăn uống ban ngày đối với người Hồi
giáo).
Ăn chay, theo nghĩa rộng, là thực hành việc khổ chế
bằng cách kiêng cử không chỉ về món ăn thức uống mà còn cả những phương
tiện hưởng thụ và thoả mãn khác [6]. Theo nghĩa này thì “ăn chay” không chỉ là
việc ăn uống mà còn là một thái độ (tinh thần thống hối), một lối
sống (khiêm cung, từ bỏ những thú vui chính đáng) nhằm biểu lộ lòng thống hối,
tưởng nhớ đến cuộc khổ nạn của Chúa Kitô (theo Công giáo) - mà ta quen gọi là
“giữ chay”.
4.2. Giữ chay là tuân thủ những yêu cầu về việc chay
tịnh, giữ chay bao hàm ý nghĩa rộng hơn là ăn chay (theo nghĩa hẹp). Tương tự
như khi chúng ta nói bổn phận “giữ ngày Chúa Nhật” thì rộng nghĩa hơn là bổn phận
“dự (xem) lễ ngày Chúa Nhật” [7].
5. Kết luận
Thuật từ giữ chay là thuật từ riêng biệt của người Công
giáo, ngoài từ điển Công giáo, các từ điển ngoài đời hầu như không có thuật từ
này và nó cũng đúng với ý nghĩa của việc chay tịnh của người Công giáo.
Mặc dù ăn chay có nghĩa rộng như đã nói trên, nhưng trong
một số trường hợp, chúng tôi thấy nên dùng chữ giữ chay thay cho ăn chay thì
thích hợp hơn, thí dụ:
- “Hôm ấy họ ăn chay cho đến chiều. Rồi họ dâng lễ
toàn thiêu và lễ kỳ an lên trước nhan Đức Chúa” (Tl 20,26).
- “Họ cử hành tang lễ, khóc lóc và ăn chay cho đến
chiều để tỏ lòng thương tiếc vua Saun” (2 Sm 1,12).
- “Khi nghe những lời ấy, vua Akháp xé áo mình ra, khoác áo
vải bố bám sát vào thịt, ăn chay, nằm ngủ với bao bì và bước đi thiểu
não” (1 V 21,27).
- “Xin cha cứ đi tập hợp tất cả những người Dothái ở Susan
lại. Xin bà con ăn chay cầu nguyện cho con. Suốt ba ngày đêm, đừng ăn
uống gì cả. Con và các cung nữ cũng sẽ làm như thế” (Et 4,16).
- “Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó,
Người thấy đói” (Mt 4,2).
* “Chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, và việc đi biển từ
nay thật nguy hiểm, vì ngày ăn chay đã qua rồi” (Cv 27,9).
Cũng theo nghĩa này mà chúng ta thấy trong bản tiếng Việt
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (1997) dùng chữ “giữ chay” thay vì “ăn chay”
[8].
-----------------------------------------
Ghi chú:
[1] http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%82n_chay.
[2] Jejunium: (1) Chay = jẻne; (2). Đói = faim;
(3). Tính chất đất khô chồi = stérilité.
[3] Abstinere : (1) Kiêng, giữ; (2) Giữ xa, giữ
khỏi.
[4] Lưu ý: Tuổi giữ chay: Từ 18 tuổi
trọn đến hết 59 tuổi ; Tuổi kiêng thịt: Từ 14 tuổi trở lên ; Ngày
buộc giữ chay và kiêng thịt : Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh.
[5] Xem Bài Giảng Chúa Nhật số 3-2007.
[6] "Fasting means self-mastery; it means
being demanding with regard to ourselves; being ready to renounce things—and
not just food—but also enjoyment and the various pleasures" (Sứ điệp Mùa
Chay 1979 của ĐTC Gioan Phaolô II, số 2).
[7] "Điều răn thứ nhất: Vào các Chúa nhật
và các ngày lễ buộc, các tin hữu buộc phải tham dự thánh lễ và tránh tất cả
những công việc tự bản chất ngăn trở việc thánh hoá những ngày ấy” (Sách Giáo
Lý HTCG số 2042).
[8] Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, bản dịch
của Ban Giáo Lý TGP. TPHCM, 1997: số 575, 1387, 1430, 1434, 2043, 2742.
---------------------------------------
Tham khảo:
1. Bộ Giáo dục Đào tạo, Nguyễn Như Ý (chủ
biên), ĐẠI TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT, NXB. Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, 1999.
2. Hoàng Phê (chủ biên, TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT,
Viện Ngôn Ngữ học, NXB. Đà Nẵng, Hà Nội-Đà Nẵng, 2005.
3. Thiều Chửu, HÁN VIỆT TỰ ĐIỂN trên mạng:
http://pagesperso-orange.fr/dang.tk/langues/hanviet.htm.
4. Lê Văn Đức, TỰ ĐIỂN VIỆT
5. Alexandre de Rhodes, TỪ ĐIỂN
ANNAM-LUSITAN-LATINH (thường gọi Từ điển Việt-Bồ-La), NXB. Khoa học Xã hội, TP.
HCM, 1991.
(Cập nhật: 10/03/2011)