TRAI
TỊNH - CHAY TỊNH
1. Có người hỏi tôi tại sao có người
nói “trai tịnh”, có người lại nói là “chay tịnh”. Vậy từ nào đúng hơn? Trước
khi trả lời, chúng ta nên tìm hiểu ý nghĩa của hai từ này.
2. Trai tịnh: Trai tịnh chữ Hán viết là 齋淨
2.1. Trai: Chữ齋 (trai) gồm có chữ齊 (tề) và
chữ示(thị) [1]. Chữ tề (齊) xưa cũng đọc là trai, nay ở đây có
nghĩa là chuyên tâm. Chữ 示 (thị) được tạo thành bởi hai chữ 二 (là chữ thiên天 (cổ), đọc
là thiên, không phải chữ nhị 二) và小[2] (là ba gạch thẳng xuống tượng
trưng cho nhật, nguyệt và tinh tú, không phải chữ tiểu 小), nghĩa là
nhìn về trời để biết được những việc thay đổi của thời cuộc. Chữ示 (thị) chỉ
việc của thần, của trời. Cho nên tất cả các chữ Hán có liên quan đến thần đều
có bộ示 (thị).
Chữ trai (齋) có những nghĩa này: đt. (1) Tắm rửa sạch sẽ, không ăn thịt
cá, kiêng uống rượu, kiêng phòng sự, ăn thức ăn thực vật để phụng sự thần hay
Phật, còn gọi là trai giới. (2) Rước nhà sư tới nhà mở lễ giỗ: trai chủ. (3)
Dâng thức ăn cho nhà sư khất thực: thí trai; (4) Lập đàn cầu cúng: trai tiếu. dt.
(1) Nhà sư ăn cơm trước buổi trưa. (2) Phòng riêng của học trò độc thân hay của
nhà tu: thư trai. (3) Nhà riêng để ở trong lúc sắp tế lễ.
Trai theo chữ Nôm có nghĩa: dt. (1) Người đàn ông trẻ tuổi.
(2) Người thuộc nam giới: Bác trai. (3) Hạt châu: Ngọc trai. (4) không biết xấu
hổ: Trai lơ. (5) Sò mang vỏ có xà cừ: Trai lệch mồm (6) Âm hộ (tiếng bình dân):
Cái trai.
Có người phân biệt ý nghĩa trai (齋) và giới (戒) [3]: Giữ
tâm hồn trong sạch gọi là trai (齋), phòng ngừa tai hoạn gọi là giới (戒); ăn chay
ba ngày gọi là trai (齋), ăn chay bảy ngày gọi là giới (戒).
2.2. Tịnh có những chữ Hán này: 淨, 凈, 並, 穽, 靚 , 靜, 靖. Trong từ
trai tịnh, chữ tịnh là 淨. Chữ này nghĩa là: dt. (1) Đất của Phật: Tịnh độ (thổ土). đt.
(2) Làm sạch. (3) Thiến. tt. (4) Sạch sẽ. (5) Hư vô.
2.3. Trai tịnh nghĩa là giữ mình trong sạch cả
về tâm hồn lẫn thể xác để chuẩn bị tế tự, thờ thần kính Phật, để tỏ lòng khiêm
nhường với thái độ lệ thuộc và phó thác hoàn toàn trước thần Phật.
3. Chay tịnh
3.1. Chay: Theo giáo sư Lê Ngọc Trụ [4] trường
hợp tiếng Hán Việt chuyển ra tiếng Nôm khi âm khởi đầu đã đổi thì đa số vận ai đổi
ra ay, như: đại > thay; hài > giày; sái > rảy; trai > chay; trái
> vay... Như vậy chữ chay là do chữ trai chuyển sang nên chay (Nôm) đồng
nghĩa với trai (Hán Việt).
Vậy chữ trai đồng nghĩa chữ chay, chỉ có khác biệt ở chỗ người ta
chỉ nói ăn chay mà không nói ăn trai.
3.2. Chay tịnh: đồng nghĩa với trai tịnh,
nhưng từ chay tịnh liên kết một chữ Nôm và một chữ Hán, còn từ trai tịnh thì
hai chữ đều là chữ Hán.
Sách Phụng vụ các giờ kinh dùng thuật từ trai tịnh [5], còn Điển
ngữ Thần học Thánh Kinh thì dùng thuật từ chay tịnh [6]. Hai cách dùng đều được
mọi người chấp nhận.
4. Việc ăn chay phổ biến từ rất lâu đời
trong các tôn giáo. Mỗi tôn giáo có quan niệm riêng về việc ăn chay và do đó có
cách thức giữ chay khác nhau. Với Kitô giáo [7], qua việc chay tịnh, con người
nhìn nhận mình lệ thuộc Thiên Chúa, vì lúc không sử dụng lương thực Thiên Chúa
ban, con người cảm nghiệm được tính cách bấp bênh của sức lực mình: chay tịnh
để tự hạ trước Thiên Chúa (x. Tv 34,13; 68,11; Đnl 8,3). Ăn chay là muốn bày tỏ
cùng Thiên Chúa rằng: nếu không có Chúa, chúng ta không thể làm được gì; trong
giây phút ta muốn cầu khẩn Chúa một việc quan trọng (x. Tl 20,26; 2 Sm
12,16-22; Edr 8,21; Et 4,16), nhất là để nhìn nhận mình là tội nhân và qua việc
nhìn nhận thực lòng tính cách hư vô của mình, con người khẩn cầu Chúa thứ tha
(1 V 21,27; Đn 9,3). Chay tịnh thân xác chỉ có ý nghĩa khi đi đôi với một sự
kiêng giữ hay xa tránh tội (x. Is 58,1-12), nói khác đi, chay tịnh chỉ là hình
thức bên ngoài (x. Mt 5,16-18).
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã từng chay tịnh để chuẩn bị gặp gỡ
Thiên Chúa hoặc chuẩn bị thực hiện công trình cao cả với Thiên Chúa. Như ông
Môsê và ông Êlia, Chúa Giêsu đã chay tịnh 40 đêm ngày trong sa mạc (Mc 4,1; x.
Xh 24,18; 34,28; 1 V 19,8), trước khi công bố Luật mới trong bài giảng trên
núi. Tuy nhiên Chúa Giêsu cho thấy rằng chay tịnh tự nó chỉ có giá trị tương
đối với các môn đệ, những người được mời tham dự bữa tiệc của Đấng Thiên Sai,
thì chay tịnh nói lên thái độ sốt sắng đợi chờ Tân lang, tức là Đức Kitô (Mt
9,14-15).
Chay tịnh của Hội Thánh vào ngày thứ Tư lễ Tro và ngày thứ Sáu Tuần
Thánh nói lên ý muốn đền tội và từ bỏ tội lỗi, đó cũng là một sự chuẩn bị đón mừng
lễ Phục Sinh. Chay tịnh Thánh Thể được giới hạn một giờ trước khi rước lễ - 15
phút đối với các bệnh nhân - chủ yếu đây là một cử chỉ tôn kính, là sự chuẩn bị
đón nhận chính Chúa Kitô trong bí tích, làm hiện thực công trình yêu thương
tuyệt diệu của Chúa.
Nguồn truyenthongconggiao.org
---------------------------------------
Ghi chú
[1] Trung Chánh hình âm nghĩa tổng hợp đại tự điển, trang 45.
[2] Sđd, tr. 1142.
[3] Sđd, tr. 45.
[4] Lê Ngọc Trụ, VIỆT NGỮ CHÁNH TẢ TỰ VỊ, tái bản lần 1, Khai trí,
Sài Gòn, 1972, tr. XIX.
[5] CGKPV xuất bản năm 1995, tr. 377.
[6] Do Giáo Hoàng học viện Piô X, đà Lạt xuất bản năm 1973, qu. 1,
tr. 210.
[7] Dom Robert Le Gall, DICTIONAIRE DE LITURGIE, 1982.
--------------------------------------
Tài liệu tham khảo:
1. Hình Âm Nghĩa Tổng Hợp Đại Tự Điển, Đài Loan, 1970.
2. Đào Duy Anh, Hán Việt Từ Điển, NXB Trường Thi, Sài Gòn, 1957.
3. Viện Ngôn Ngữ Học, Từ Điển Hán Việt, NXB TP.HCM, TP.HCM, 2002.
4. Lê Ngọc Trụ, Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị, tái bản lần 1, Khai trí,
Sài Gòn, 1972.
5. Lê Văn Đức, Từ Điển Việt
6. Viện Ngôn Ngữ học, Từ Điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2004.
7. Lm. Antôn Trần văn Kiệm, Giúp đọc Nôm và Hán Việt, 2004.
8. Quốc Ngữ Hoạt Dụng Từ Điển, Đài Loan, 2004.
9. Từ điển Hán Việt, Trung Quốc, 1994.
10. Đoàn Trung Còn, Phật học Từ điển, tập 3, 1967.
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ