LINH MỤC,
CHA ?
Năm 2009-2010 là năm linh mục, Hội Thánh không những cầu nguyện cho
các linh mục, còn có rất nhiều bài vở viết về linh mục. Hôm nay, tôi mạo muội
đề cập đến một trong những danh xưng linh mục đã có lúc gây ra nhiều tranh cãi
quyết liệt trên các trang mạng điện toán, đó là danh xưng cha dành cho linh
mục.
1. Những trở ngại
Nhiều tác giả đã lên tiếng nhận xét, phê bình, cũng có người đã chỉ
trích việc dùng danh xưng cha vì những lý do như sau:
1.1. Không có nền tảng Thánh Kinh: Thánh
Kinh không có chỗ nào ghi lại Chúa Giêsu đã xưng mình là cha. Ngược lại,
Phúc Âm ghi rõ lời dạy của Chúa Giêsu: “Anh em cũng đừng gọi ai ở dưới đất này
là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời” (Mt 23,9).
1.2. Không có nguồn gốc truyền thống: Trong lịch sử Giáo Hội, trong 10 thế kỷ đầu đã không có lối xưng
hô này [1]. Trong lịch sử Giáo Hội tại Việt
1.3. Không phù hợp phong tục, văn hoá Việt Nam
3.1) Người Việt chỉ quen gọi bố đẻ của mình là cha mà thôi, gọi
người không có liên hệ máu mủ bằng cha là một việc rất khó.
3.2) Linh mục xưng cha hô con với người cao tuổi hơn mình thì trái
tục lệ “xưng phải hạ, hô phải thăng” của người Việt.
1.4. Danh xưng này mang lại nhiều hệ quả xấu
4.1) Cho bản thân linh mục: Lối xưng hô kiểu này “phần nhiều
chỉ gây hại và (ít nhiều) sẽ tạo thêm khó khăn cho người tu sĩ có tâm hồn hướng
thượng một cách đúng đắn”, “trực tiếp góp phần vun bồi cái tôi mỗi ngày một
thêm phình to và kềnh càng hơn”, “góp phần tạo ra các ảo tưởng về sự
thánh thiện của bản thân”, “tính hoà đồng không đẳng cấp thuở ban đầu kia sẽ bị
thương tổn nghiêm trọng” [3].
4.2) Cho gia đình linh mục: Khó ăn nói khi giao tiếp với
người trong gia đình (huyết tộc, cao tuổi).
4.3) Cho sự hợp thông trong Giáo Hội: Trở thành tác nhân của
“hội chứng quyền lực” [4], khiến cho “không biết bao nhiêu người tự tôn, tự
tác lên mặt, la mắng, chỉ tay năm ngón... làm chia rẽ giáo xứ, giáo phận, giáo
hội” [5].
4.4) Cho việc phụng vụ của Giáo Hội: “Cùng một thánh lễ,
từ ‘Cha’ vừa để gọi Thiên Chúa Cha (đặc biệt trong phần Phụng vụ Thánh
Thể), vừa để gọi một thụ tạo của Ngài như linh mục chủ tế, thì chẳng những
không phù hợp, mà e rằng còn là một hành vi phạm thượng đối với Thiên Chúa Cha”
[6].
4.5) Cho bổn phận truyền giáo của Giáo Hội: Không thuận tiện.
1.5. Nhiều linh mục cũng không đồng ý với danh xưng này: limj mục. Cao Vĩnh Phan [7], Lm. Nguyễn Thanh
nhắc đến Lm. Nguyễn Thế Thuấn [8], tác giả Trần Hữu Hiệp nhắc đến ĐHY GB. Phạm
Minh Mẫn và Lm. Gérard Roland [9], còn tác giả Xuân Thái thì dẫn chứng ĐTC
Gioan Phaolô II [10]...
Do đó, một số tác giả cho rằng: “Lối xưng hô này chỉ là quy ước,
xuất phát từ một giai đoạn lịch sử đặc thù. Nay thời thế đã đổi, tâm lý con
người cũng khác, lối xưng hô này cũng nên được xét lại” (Võ Lý). “Ở đó, bấy giờ
thì rất phù hợp. Nhưng ở đây, bây giờ mà còn như thế, thì rất cần phải xem lại,
về nhiều mặt” (Xuân Thái).
2. Những ý kiến bênh vực
Đã có nhiều bài viết gián tiếp hay trực tiếp giải thích về các vấn
nạn nêu ra trên đây, trong phạm vi bài này tôi xin được tóm lược các ý chính
như sau:
2.1. Nền tảng Thánh Kinh [11]: “Đừng gọi ai
dưới đất này là cha”: Mệnh lệnh này xem ra phản đối thói quen gán cho một vài
vị hướng dẫn cộng đoàn tước hiệu Abba (cha) cũng trong một ý nghĩa danh
dự và xã hội như tước hiệu Rabbi (thầy). Rõ ràng là nó không nhắm đến người
cha trong gia đình theo nghĩa đen (x. Mt 15,4-6;19,19 [12]). Mệnh lệnh này
lại càng không chống đối cái truyền thống kỳ cựu có nơi mọi dân tộc và trong
Thánh Kinh, theo đó giữa các thầy và trò phải thiết lập mối liên hệ tương
tự mối liên hệ giữa cha và con, khiến họ thường gọi nhau là “cha” và “con” (x.
2 V 2,12; Cn 4,1; 1 Cr 4,14-17, Gl 4,19; 2 Tm 1,2; Tt 1,4; 1 Pr 5,13; 1 Ga 2,1.12.14...).
Nên lưu ý là ở đây cũng vậy, các câu 8-12 không nhấn mạnh đến sự phủ nhận mọi
quyền bính Giáo Hội cho bằng là (nhấn mạnh) đến mối nguy tạo nên do những “đại
nhân vật” chiếm hết danh dự dành cho Thiên Chúa và Đức Kitô. Cha Nil Guillemet
giải thích: “Tin Mừng đôi lúc không mấy lưu tâm gọt dũa các góc cạnh gồ ghề của
một câu văn trình bày một quan điểm phiến diện. Trong những trường hợp ấy, lời
xác quyết quá tuyệt đối của nó cần được đối chiếu với những xác ngôn khác không
kém triệt để mà nó lại đưa ra theo chiều hướng trái ngược; chung chung, các câu
ấy, thay vì nói nghịch nhau, chỉ bổ túc nhau, và thế quân bình được tái lập.
Nói tóm lại, không nên coi đoạn này như một lời thực sự và đơn giản thành một
giáo thuyết của biệt phái, thì cũng chẳng nên nghĩ rằng việc bài bác một vài
giáo huấn của các tiến sĩ luật có nghĩa là việc phế bỏ quyền bính giảng dạy của
họ” [13]. Thầy (Rabbi): Kitô hữu chỉ có duy nhất một vị thầy. Theo nghĩa
là họ là môn đệ suốt đời của một mình Đức Kitô mà thôi. Những người thầy khác
có vai trò tạm thời (mà thôi).
2.2. Nguồn gốc truyền thống: Saul ben Batnith
(khoảng 80-120) là nhà hiền triết Do Thái đầu tiên được người ta gọi là Abba
(cha) [14]. Trong các tiến sĩ
- Bên Âu châu, từ Father (cha) nguyên là danh xưng của các
tu sĩ hành khất (Dòng Phanxicô). Trong các nước nói tiếng Anh và Bồ Đào Nha thì
từ này dùng để xưng hô hoặc nói về các linh mục triều, tại Anh thói quen gọi
các linh mục là cha có từ năm 1879, trước đó các linh mục triều được gọi là
“ông” (Mr.) và “ngài” (sir) như vẫn thấy còn sử dụng ở Ushaw (1950). Trong các
quốc gia Công giáo, linh mục triều được gọi là Monsieur l'abbé, monsieur le
curé, hoặc có nơi gọi là signor, don (như “thầy” Dom)... Các linh
mục trong Giáo hội Đông phương đều được gọi là “cha” (Father) [16]. Dần dần,
trong các thể chế Kitô giáo, người ta đã dùng khá nhiều tước vị cha dưới nhiều
hình thức: Thượng phụ, Tổ phụ (Patriarch), Tông phụ (Apostolic
Fathers), Giáo phụ (Father of Church), Viện phụ (Abbot,
Abbé), Đức Thánh Cha (Pope), Nghị phụ...) theo
nghĩa linh tông ấy. Điều này chẳng phải là đi ngược lại Tin Mừng, vì cái quan
trọng là tinh thần chứ không phải là chữ viết.
- Bên Trung Quốc, Nhật cũng như Hàn Quốc có một danh xưng là: thần
phụ (神父) nghĩa là cha tinh thần, cha
thiêng liêng. Khi xưng như vậy, không những phân biệt được cách gọi bố đẻ của
mình, mà còn nói lên tính cách và nhiệm vụ của vị linh mục, đồng thời không gây
thắc mắc cho người ngoài Công giáo khi phải đối thoại với một vị linh mục.
- Tại Việt
2.3. Phong tục, văn hoá Việt Nam
- Đối với những người ngoài Công giáo: Đại Từ Điển Tiếng
Việt giải thích chữ cha có 2 nghĩa: (1) Người đàn ông có con, trong quan hệ
với con; (2) Linh mục, trong quan hệ với người theo đạo Thiên Chúa [19].
Như vậy, xã hội Việt Nam hiểu rằng từ “cha” dùng để xưng hô với linh mục trong
quan hệ “nội bộ” của người Công giáo. Do đó, không thể đặt vấn đề cha-con với
người ngoài Công giáo. Nghĩa là, trong giao tiếp với người ngoại Đạo, linh mục sẽ
xưng hô theo phong tục tập quán của xã hội dân sự bình thường.
- Đối với những người trong gia đình: “Linh mục, giám mục
hay bất cứ chức sắc nào đi nữa, thì cũng đến từ một gia đình. Trong gia đình ấy
có đủ cha mẹ, anh em họ hàng như những người khác và cũng tôn ti trật tự, lễ
giáo giống như những gia đình khác. Do đó, trong gia đình, một linh mục vẫn là
một người con với những người thân sinh ra mình và là anh em với anh em mình.
Một linh mục thường “giảng” cho người khác giữ gìn lễ giáo gia phong, thì chính
linh mục ấy là người làm chứng cho lời mình giảng bằng chính đời sống mình. Tóm
lại, trong gia đình, cha mẹ không gọi người con làm linh mục là cha và không
xưng là con”. “Một người có con làm linh mục, có nghĩa là người con linh mục ấy
là con của mình. Mọi người gọi con mình là cha rồi xưng con, không có nghĩa là
mọi người đều là cháu mình. Tương tự như thế, nếu người bố mẹ của ông cha ấy có
đủ khiêm nhường để sống và xưng hô như những người khác với các linh mục khác
là điều đáng quý, còn nếu không cũng chẳng sao, chỉ tỏ ra việc bố mẹ của ông
cha ấy thiếu khiêm nhường chút, thế thôi. Một người có con làm linh mục, không
có nghĩa là tất cả các linh mục khác đều là con của mình”.
- “Đối với các linh mục trạc tuổi nhau, trước khi chịu chức
linh mục, các linh mục đã học chung, sống chung với nhau nhiều năm nơi ghế nhà
trường. Lúc ấy là thiếu niên, thanh niên nên thường xưng hô với nhau như các
thanh thiếu niên khác... Sau khi trở thành linh mục, tình thân ngày trước vẫn
còn, nên trong lúc riêng tư, vẫn tự nhiên và thân thiện như ngày xưa thân ái.
Tuy nhiên, khi hiện diện trước đám đông hay các buổi lễ lạc, các linh mục vẫn
thường xưng hô theo mọi người, có nghĩa là gọi nhau là cha và xưng là con” [20].
2.4. Danh xưng này mang lại nhiều hệ quả xấu?
Đặt vấn đề có nên gọi linh mục là cha, theo tôi, chính là đặt vấn
đề căn tính linh mục. Bài viết của Cha John Cihak có tựa đề là “Linh mục trong
tư cách là người nam, người chồng và người cha” [21] đăng trên trang mạng
Ignatius Insight ngày 26/3/2007 thực đáng cho chúng ta suy nghĩ:
- Linh mục như là người chồng nhờ tham dự vào
tương quan phu phụ của Đức Kitô với Hiền Thê của Người là Giáo Hội[22].
- Linh mục như là người cha:
Tình yêu phu phụ của linh mục nhất thiết là phải sản sinh. Vì thế,
linh mục của Đức Giêsu, không phải là một công chức, một tay làm thuê, một giám
đốc điều hành, hay một kẻ hám danh, nhưng là một người cha.
Chúng ta quen gọi các linh mục là “cha”. Tuy nhiên đó không phải là
danh xưng mang tính ẩn dụ hay màu sắc thi ca. Tư cách cha của linh mục là
thật vì nó là sự tham dự vào tư cách Cha thần linh (1 Cr 4,15; Ep 3,15). Vì
thế, tư cách cha của linh mục được thiết lập bởi tư cách làm Cha của Chúa Cha
trên trời mang tính tổng thể, hoàn tất việc tự hiến.
Và nếu tư cách cha của linh mục là thật, thì tôi nghĩ có thể thực
hành như lời Thánh Phaolô đã dạy Titô:
“Phần anh, hãy dạy những gì phù hợp với giáo lý lành mạnh. Hãy
khuyên các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng, chừng mực, vững mạnh trong đức tin,
đức mến và đức nhẫn nại. Các cụ bà cũng vậy, phải ăn ở sao cho xứng là người
thánh, không nói xấu, không rượu chè say sưa, nhưng biết dạy bảo điều lành. Đó
là những điều anh phải nói, phải khuyên, phải sửa dạy với tất cả uy quyền. Chớ
gì đừng có ai coi thường anh” (Tt 2,1-3.15).
Hay nói như Đức Giáo Tông Gioan Phaolô II khi trả lời ký giả
Vittorio: “Những từ ngữ này được xây dựng trên một truyền thống lâu đời và đã
đi vào trong ngôn ngữ thường dùng, và ngay cả những từ ngữ này ta cũng đừng
sợ” [23].
Một cha giáo kể chuyện rằng Đức Giáo Tông Piô XII có thói quen xưng
tội mỗi ngày. Tối đến, khi cha giải tội bước vào phòng của Đức Giáo Tông thì
ngài liền quỳ xuống hôn nhẫn của Đức Giáo Tông, rồi đến phiên Đức Giáo Tông làm
dấu thánh giá và quỳ xuống để xưng tội.
Người ta nói: “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Nhiều linh mục
thường xuyên mặc ‘soutane’, nhưng cũng có linh mục khác cả năm chưa mặc
‘soutane’ một lần, tuỳ ý nghĩa biểu tượng được gán cho chiếc ‘soutane’. Khi nói
chuyện với một người lớn tuổi hơn mình mà xưng hô cha con, chúng tôi (các linh mục)
cũng ngại lắm. Nhưng cũng là một dịp cho chúng tôi suy nghĩ về những ân huệ
Chúa ban cách riêng cho mình (sự kính trọng của mọi người?) để từ đó, khiêm
nhường hơn và tích cực hơn trong việc tông đồ và mục vụ.
2.5. Việc một số linh mục không muốn dùng danh xưng cha
“Quý linh mục nào không thích được gọi bằng “cha” thì cứ tự do bảo
người ta gọi mình cách nào tuỳ thích, nhưng xin đừng nói là không có giáo lý và
truyền thống của Giáo Hội về việc này, nhất là đừng trưng câu Phúc Âm Mt 23,8-9
ra để biện minh cho việc đả phá danh xưng này”[24].
------------------------
[1] Võ Lý, HỘI CHỨNG QUYỀN LỰC TRONG GIÁO HỘI đăng trên Nguyệt San
Dấn Thân, số 7, tháng 12-2004, tr. 42.
[2] Trần Thị Liên Minh, GÓP Ý VỀ DANH XƯNG CHA / CON (http://www.tiengnoigiaodan.net/diendan/dd_gyvdx.html)
[3] Xuân Thái, NHỮNG DANH XƯNG VÀ CÁCH XƯNG HÔ GÂY HẠI
(http://www.tamlinhvaodoi.net/giaohoi/linhmuc/lm17.htm).
[4] Võ Lý, HỘI CHỨNG QUYỀN LỰC TRONG GIÁO HỘI đăng trên Nguyệt San
Dấn Thân, số 7, tháng 12-2004.
(http://www.danthan.org/DIENDAN/ARTICLES/hoi_chung.htm).
[5] Lm. Cao Vĩnh Phan, NĂM 2000 ĐỌC VÀ HỌC KINH THÁNH, tư liệu
nghiên cứu, tr. 205.
[6] Nguyễn Chính Kết, TRONG PHỤNG VỤ, CÓ NÊN DÙNG TỪ “CHA” ĐỂ GỌI
LINH MỤC CHỦ TẾ KHÔNG?
(http://svconggiao.net/showthread.php?t=2105)
[7] xem chú thích 5.
[8] Lm. Nguyễn Thanh, MỘT CHA TRÊN TRỜI (www.tiengnoigiaodan.net)
viết: “Chính cố Linh mục Nguyễn Thế Thuấn đã nói với anh em khoá Tập viện chúng
tôi tại Nha Trang, năm 1974 rằng: ‘Đừng gọi linh mục là cha’”.
[9] Trần Hữu Hiệp, CẢM TƯỞNG KHI ĐỌC BÀI CỦA LM. NGÔ TÔN HUẤN (www.tiengnoigiaodan.net/c1_ddan.html)
viết: “Sau 1975, khi đương kim Hồng Y tại Sài Gòn còn là giám đốc chủng viện
Cần Thơ, đã khuyên các chủng sinh gọi ngài và các linh mục giáo sư khác là ‘anh
Hai’, ‘anh Ba’” ... “Linh mục Gérard Roland, giáo sư Kinh Thánh người Thuỵ Sĩ,
trong một lớp học Kinh Thánh tại Việt Nam, ngài yêu cầu học viên đừng gọi ngài
bằng “cha”, mà hãy gọi ngài bằng ‘Gérard’”
[10] Tác giả Xuân Thái trong bài đã nói trên (ct. 3) viết: “Về
các danh xưng CHA, ĐỨC CHA … liên quan đến câu Mt 23,9, ký giả Victorio đã hỏi
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II về vấn đề này và được ngài giải thích như sau:
“Đó là lối xưng hô đã bắt rễ từ lâu đời, nghĩa là dùng riết rồi quen, dù là
nghịch ý của Đấng tối cao” (Đối thoại với Giáo hoàng, trang 250). Đây là
lời giải thích không ai có thể thẩm quyền hơn, vì ngài là người tín hữu
số 1, là vị tối cao thủ lãnh của Giáo Hội. Rất rõ ràng, dù suy nghĩ với góc độ
nào đi nữa, cũng không thể hiểu lầm lời ngài giải thích. Quả thật, theo giải
thích của Đức Giáo Tông Gioan Phaolô II, những danh xưng như Cha, Đức Cha, Đức
Thánh Cha… đúng là nghịch ý của Đấng Tối Cao”. Thực ra, không biết vô tình
hay cố ý, Xuân Thái đã không trích dẫn cho đúng lời của ĐTC trong CROSSING THE
THRESHOLD OF HOPE: “These expressions, nevertheless, have evolved out of a
long tradition, becoming part of common usage. One must not be afraid of these
words either” (tr. 6). Tác giả lại trích từ một quyển sách ĐỐI THOẠI VỚI
GIÁO HOÀNG GIOAN-PHAOLÔ II của Nhóm Giao Điểm xuất bản, bài của Hoàng Nguyên
Nhuận, tr. 250 viết là: “Khi được Vittorio Messori tham vấn về điều nghịch lý
đó, Giáo Hoàng giải thích rằng đó là lời xưng hô bắt rễ từ truyền
thống lâu đời (Sđd, tr. 8). Nghĩa là dùng riết rồi quen dù là nghịch ý
đấng Tối Cao”. Câu cuối này là của Nguyên Nhuận lại được Xuân Thái cho
vào ngoặc kép để gán cho Đức Giáo Tông Gioan Phaolô II!
[11] Xem thêm: Lm. Ngô Tôn Huấn, TRẢ LỜI MỘT BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ
VÕ LÝ
(http://www.tiengnoigiaodan.net/diendan/dd_nth01.html) và bài
CHỈ CÓ MỘT CHA TRÊN TRỜI - CHÚNG TA ĐỌC VÀ HIỂU THẾ NÀO VỀ LỜI CHÚA
TRONG MATTHÊU 23:8-9?
[13] Nil Guillemet, CHÚ GIẢI PHÚC ÂM CHÚA NHẬT NĂM A MÙA THƯỜNG
NIÊN, ĐCV Huế, tr. 239.
[14] Benedict T. Viviano, OP: THE GOSPEL ACCORDING TO MATTHEW trong
THE NEW JEROME BIBLICAL COMMENTARY,
[15] Carrol Stuhlmueller, THE COLLEGEVILLE PASTORAL DICTIONARY OF
BIBLICAL THEOLOGY, Theological Publication in
[16] Donald Attwater, THE CATHOLIC ENCYCLOP‚DIC DICTIONARY, 2nd
Edition, Cassell And Company Ltd, Printed in the
[17] Lm. Đỗ Quang Chính: NHÌN LẠI GIÁO HỘI HỊA MÌNH TRONG XÃ HỘI
VIỆT
[18] Ví dụ trong các thư chung của Đức cha Lucien Mossard: "Anh
em không lo sợ kiêng dè, tiếng bạn hữu khuyên lơn anh em chẳng kể, lại cầm là
những người nhút nhát đa nghi; tiếng cha giải tội cũng không thấm vào
linh hồn; chúc ấy tiếng bỏ vạ cáo gian, nghĩa là sự gian nan cất tiếng lên như
sét đánh vang tai, bảo anh em phải giữ mình kẻo sa phạm tội". (Thư
chung: Dạy về những sự gian nan đời này phải chịu thể nào, 1904). “Khi thầy
cả chịu lễ, thì tôi làm qua việc khác, là tôi lấy hết lòng hết trí mà lo
việc cầu xin... Vậy tôi cầu nguyện cho Đức Giáo Tông cùng Đức Giám Mục, cho cha
sở cùng các cha giảng đạo" (Thư chung, Dạy về sự xem lễ
ngày Chúa Nhựt, 1906).
[19] Bộ Giáo dục Đào tạo, Nguyễn Như Ý (chủ biên), ĐẠI TỪ ĐIỂN
TIẾNG VIỆT, NXB. Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, 1999.
[20] Lm. Bùi Đức Tiến: CÁCH XƯNG HÔ VỚI CÁC LINH MỤC (http://Buiductien.com/index_html/books/tmagdgl/plonearticle.2007-01-04.6851336494).
[21] Fr. John Cihak, S.T.D.: THE PRIEST AS MAN, HUSBAND, AND FATHER
(http://www.ignatiusinsight.com/features2007/jcihak_priesthood2_mar07.asp). Antôn
Vũ Hữu Lệ (dịch, http://ofmvn.org).
[22] Linh mục như người chồng đối với Giáo Hội có một định
hướng thần học vững chắc nơi các Giáo phụ. Hướng vững chắc khác trong các Giáo
phụ là linh mục như người bạn của Chàng Rể. Tác giả nhấn mạnh đến chiều
hướng đầu trong khi vẫn công nhận tầm quan trọng của hướng thứ hai. Hai khuynh
hướng này có liên hệ với nhau. Khuynh hướng đầu cho thấy linh mục thực sự tham
dự vào tương quan phu phụ của Đức Kitô với Hiền Thê của Chúa. Khuynh hướng thứ
hai nhắc nhớ linh mục rằng ngài không phải là Đức Kitô, và như thế việc chia sẻ
của ngài trong mối tương quan phu phụ của Đức Kitô là dự phần vào chứ không
phải là đồng nhất căn tính (xem Endnotes [11] của bài đã dẫn trong ct. 21)
[23] Đức Giáo Tông Gioan Phaolô II, BƯỚC QUA NGƯỠNG CỬA HY VỌNG,
1994, tr. 6.
[24] xem chú thích số 11.
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
nguồn: truyenthongconggiao.org