NỮ
VƯƠNG, NỮ HOÀNG, NGUYÊN HẬU?
Giáo hội Công giáo rất kính trọng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Ngoại
trừ tháng 4, hầu như tháng nào cũng có ngày lễ kính Đức Mẹ, thậm chí một số
tháng có đến hai hay ba lễ về Đức Mẹ, như tháng hai, tháng tám, tháng chín. Hai
lễ trong tháng tám là: Lễ Đức Mẹ Phụng [1] Triệu (Đức Mẹ Lên Trời, 15/8) và lễ
Đức Maria Trinh Nữ Vương (22/8), Giáo hội tại Trung Quốc dịch là Đức Maria
Nguyên Hậu. Chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa của từ Nữ Vương và Nguyên Hậu.
1. Nguồn gốc và ý nghĩa
1.1. Nguồn gốc
Tước hiệu Nữ Vương được truyền thống Kitô giáo kính dâng Đức Mẹ
ngay từ đầu thế kỷ IV để tôn nhận địa vị ưu việt và quyền năng của Mẹ. Như
những tước hiệu tôn quý khác, tước hiệu Nữ Vương cũng dần dần được sử dụng phổ
biến trong Hội Thánh và sau đó được đưa vào Phụng Vụ Các Giờ Kinh (Kinh
Salve Regina, Ave Regina caelorum, Regina caeli...) vào các việc tôn kính
bình dân (Kinh cầu Đức Bà, Mầu nhiệm thứ V - Mùa Mừng trong chuỗi Môi Côi),
trong nghệ thuật Kitô Giáo với các hình ảnh Đức Maria Nữ Vương.
Công đồng Chung Nicêa II (năm 787) đã sử dụng tước hiệu này trong
một khoản định tín về vấn đề ảnh tượng [2]. Trong thông điệp Ad Reginam Coeli
(11/10/1954), Đức Giáo Tông Piô XII đã bàn đến vấn đề Đức Maria Nữ Vương dưới
mọi khía cạnh [3], và Công đồng Vatican II cũng hoàn toàn đồng ý với giáo lý
này khi quả quyết: “Sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Đức Nữ Trinh Vô
Nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, và được Thiên
Chúa tôn vinh làm Nữ Vương vũ trụ, để nên giống Con Ngài trọn vẹn hơn, là Chúa
các chúa (x. Kh 19,16), Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết” (GH
59).
Năm 1954, để kỷ niệm 100 năm công bố tín điều Đức Maria Vô Nhiễm
Nguyên Tội, Đức Piô XII đã đưa vào phụng vụ lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương và ấn
định cử hành lễ này vào ngày 31-5 để kết thúc tháng Hoa (Tông huấn Ad Reginam
coeli, số 47). Sau Công đồng Vatican II, theo tinh thần canh tân phụng vụ, một
số Lễ kính Đức Mẹ cũng được thay đổi, trong đó có lễ Trái Tim Mẹ và lễ Đức
Maria Trinh Nữ Vương. Lễ Trái Tim Mẹ được dời lên ngày Thứ Bảy ngay sau Thứ Sáu
lễ Thánh Tâm Chúa trong tuần lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa thay vì ngày 22-8 và
lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương được dời xuống ngày 22-8 thay vì 31-5: “Lễ trọng
Đức Mẹ lên trời cả hồn lẫn xác được tiếp nối bằng lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương,
lễ này được cử hành một tuần sau lễ trước. Trong lễ này, người ta ngắm nhìn
Đấng đang ngự bên cạnh Đức Vua muôn đời, Đức Maria sáng láng như Nữ Vương và
nắm giữ vai trò cầu bầu như người Mẹ” (Tông huấn Marialis cultus, số 6).
1.2. Ý nghĩa
Lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương (tiếng Latinh là Beata Vergine Maria
Regina, tiếng Anh là The Blessed Virgin Mary, Queen). Chữ Regina hay Queen đều
có hai nghĩa: (1) Nữ vương, nữ hoàng, ví dụ: the Queen of
2. Ý nghĩa của chữ nữ, hoàng, vương, nguyên, hậu
2.1. Nữ: Có hai chữ Hán: 女, 釹(钕). Ở đây là chữ này女, có nghĩa đối lại với nam, thời xưa gọi những người chưa gả chồng
là nữ, những người đã lấy chồng là phụ, nay gọi chung là phụ nữ. Nghĩa là: dt.
(1) Phái nữ: nam nữ bình đẳng; (2) Con gái: nữ tử; (3) Phái đàn
bà con gái; (4) Đứa con thuộc giống cái.
2.2. Hoàng: Có những chữ Hán này : 皇, 黃, 簧, 潢, 磺, 蟥, 癀,鱑, 凰, 偟, 徨, 篁, 喤, 蝗, 煌, 惶, 隍, 遑, 鰉, 鍠, Trong trường hợp này là皇. Chữ này thay đổi rất nhiều theo thời gian, chứ không đơn thuần
như người ta lầm tưởng là cấu tạo bởi bộ 白(bạch) và chữ 王 (vương). Theo cuốn “Tìm Về Cội Nguồn Chữ Hán” của Lý Lạc Nghị
(Hình):
Hoàng là chữ gốc của煌 (hoàng, như huy hoàng). Phần dưới chữ vốn là chân đèn; 3 nét sổ
phía trên là ánh sáng của đèn. Đến Tiểu triện thì phần trên viết nhầm thành chữ
自(tự), đến Lệ thư lại biến
thành chữ 白 (bạch). Còn theo cuốn “Quốc Ngữ Hoạt Dụng Từ Điển” thì chữ
hoàng kết cấu theo cách “hội ý” có chữ日 (nhật), tượng trưng cho ánh sáng chói
lọi, mặt trời mọc khỏi mặt đất thì phát sáng là hoàng. Hoàng có các
nghĩa sau: dt. (1) Họ Hoàng (2) Vua: hoàng đế [4]; (2)
Trời: hoàng thiên; (3) Đạo giáo (của Lão Tử) tôn vị thần chính yếu của
họ là hoàng (4) Thời kỳ quân chủ gọi cha của hoàng đế là hoàng: thái thượng
hoàng [5]; (5) Người con tôn kính người cha đã qua đời cũng gọi là hoàng: hoàng
khảo; đt. (6) Cứu giúp vua; (7) Mở rộng; tt.
(8) To lớn, vĩ đại; (9) Trang nghiêm; (10) Rực rỡ; (11) Tốt đẹp; (12) Quang
minh.
2.3. Vương: Cũng chỉ có hai chữ: 王, 迋. Trong trường hợp này là王. Chữ này thuộc loại “chỉ sự”, có bộ三 và một nét│ xuyên qua. Ba gạch ngang tượng trưng
cho thiên, địa, nhân, nét│xuyên qua. Cho nên
người thu gom tất cả lại là vương. Nghĩa là: dt. (1) Vua (địa vị
thua “đế”): quốc vương; (2) Nghĩa rộng: Tước cao hơn hết vào thời xưa do
vua phong hoặc tự ý xưng để chống lại triều đình: vương hầu; (3) Họ
Vương. đt. (4)
2.4. Nguyên: Có những chữ này: 元, 原, 源, 厵, 嫄, 沅, 芫, 螈, 羱, 騵, 黿, 鼋. Trong trường hợp này là chữ元, nghĩa là dt.
(1) Đầu, thứ nhất: nguyên thủ; (2) Căn bản: nguyên âm; (3) Đầu
người; (4) Nhà Nguyên Mông Cổ (1271-1368); (5) Đơn vị tiền tệ; (6) Năm thứ nhất
của một triều đại: nguyên niên; (7) Nhân dân: lê nguyên; (8) Họ
Nguyên; tt. (9) Băt đầu: nguyên đán; (10) Lơn; (11) Đẹp.
2.5. Hậu (后): (1) Vợ chính của vua: hoàng
hậu; (2) Mẹ vua: thái hậu. Thực ra, hậu có nhiều chữ Hán後, 厚, 后, 候, 郈, 堠, 鄇. Hậu đây là chữ后. Chữ này thuộc
loại “hội ý”. Có bộ 人 (nhân) và chữ口 (khẩu), người dùng miệng
phát lệnh là hậu, nghĩa là: dt. (1) Quân chủ thời thượng cổ: Hạ
hậu thị (vua Hạ); (2) Vợ chính của Thiên tử triều đại Châu: Thiên
tử hữu hậu (vua có vợ); (3) Chư hầu; (4) Quan lớn thời thượng cổ
cũng gọi là hậu; (5) Vị thần quản lý đất đai: Hoàng thiên hậu thổ; (6)
Họ Hậu; (7) Vợ chính của vua: hoàng hậu; (8) Mẹ vua: thái
hậu.
3. Các danh hiệu của vua
“Tuỳ từng thời kỳ và hoàn cảnh, vua mang các tước vị khác nhau.
Danh hiệu của vua cũng phản ánh vị thế cao thấp của vị vua đó. Ở các nước Đông
Á, tước vị cao nhất của vua là đế, thấp hơn là vương. Đối với các
nước chư hầu (lãnh chúa), tước vị của vua còn phân theo những thứ bậc: công
, hầu , bá , tử , nam. Theo biến đổi của lịch sử,
danh vị của các vị vua tối cao và vua chư hầu cũng có thay đổi. Như trường hợp
thời nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc, vua tối cao (thiên tử) cũng chỉ mang
tước vương, các vua chư hầu, tuỳ theo cấp bậc, được vua
Như vậy: Hoàng và vương đều có nghĩa là vua (dt.)
và vĩ đại (tt.), nhưng thường thì danh hiệu đế, hoàng hay
hoàng đế thì cao hơn danh hiệu vương, tương tự bên phương Tây, có sự phân
biệt giữa các tước hiệu Emperor, Empress (Latinh: Augustus, Imperator,
Imperatrix; P: Empereur, Imperatrice; HV: hoàng đế, nữ hoàng/hoàng hậu) với
Rex, Regina (A: King, Queen; P: Roi, Reine; HV: quốc vương, nữ vương/vương
hậu). Theo thói quen người ta nói hoàng thiên mà không nói vương
thiên, và dùng chữ quốc vương chứ không dùng chữ quốc hoàng.
4. Nữ hoàng > nữ vương?
Hoàng đế hay quốc vương được gọi chung là quân [7] (Hán) hay
vua [8] (Nôm). Nữ hoàng (đế) hay nữ (quốc) vương được gọi chung là hậu
(Hán) hay vua bà [9] (Nôm).
Trong lịch sử Việt
Trong Giáo Hội thường dùng chữ
Thánh Albertô Cả nhận xét: danh từ nữ vương (
5. Nhận xét
Nếu chúng ta chỉ căn cứ vào chữ nghĩa,
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cho Buổi Triều kiến Chung Thứ Tư
23-7-1997 đã nói:
“Thế nhưng, trong một đoạn bài giảng được cho rằng của Giáo phụ
Origen, cũng đã chất chứa lời dẫn giải này về những lời bà Elizabeth thốt lên
trong biến cố Thăm Viếng: “Đáng lẽ chị phải đến thăm em, vì em có phúc hơn mọi
người nữ, em là Người Mẹ của Chúa chị, em là Vị Tôn Nữ của chị” (Fragment,
PG 13, 1902 D).
Bản văn chuyển một cách tự nhiên từ lời diễn tả Người Mẹ của
Chúa chị sang tước hiệu Vị Tôn Nữ”.
“Mẹ Maria là Nữ Vương không phải chỉ vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, mà
còn vì Mẹ đã cộng tác vào công cuộc cứu chuộc loài người, với tư cách là tân
Evà cùng với tân Adong”.
Rõ ràng, Mẹ là vị Nguyên Hậu, nghĩa là vị Mẫu Hậu đứng đầu, trên
hết mọi loài, chứ không phải là Vua, Hoàng hay Vương. Mẹ được vinh dự cao cả
này là vì Mẹ là Mẹ Chúa Cứu Thế và là Mẹ chúng ta, đã là Mẹ đương nhiên là Mẫu
Hậu rồi.
6. Kết luận
Tuy xét về mặt ngôn ngữ học thì thuật từ Nguyên Hậu đúng hơn Nữ
Vương, hay Nữ Hoàng, nhưng Giáo Hội tại Việt Nam đã dùng thuật từ Nữ
Vương từ lâu, rất phổ biến và được mọi người chấp nhận, nên thuật từ Nữ Vương
(trừ một vài trường hợp dùng thuật từ Nữ Hoàng) là một thuật từ không thể thay
thế được và chúng ta vẫn phải sử dụng thuật từ này.
----------------------
[1] x. Bài “Mông Triệu-Phụng Triệu”, Bài Giảng Chúa Nhật số
08-2006, tr. 95.
[2] Công đồng dạy: “Như chúng ta trọng kính hình ảnh thánh giá
thì chúng ta cũng có thể trưng bày và trọng kính các ảnh thánh khác, chẳng hạn
ảnh Chúa Cứu Thế, ảnh Đức Nữ Vương, Mẹ Thiên Chúa, ảnh các thiên thần và các
thánh” (Session IV).
[3] Ngài nói: “Dân Chúa hằng tin tưởng một cách hữu lý trong mọi
thế hệ rằng Đức Mẹ là đấng sinh ra Con Đấng Tối Cao, Đấng sẽ hiển trị trong nhà
Giacóp (Lc 1,32) cho tới đời đời, Ngài chính là Vua hòa bình (Is 9,6), Vua muôn
vua, Chúa các chúa (Apoc. 19,16), và Ngài được mọi ơn hơn tất cả bất cứ vật thụ
tạo nào. Và xét theo mối liên lạc mật thiết giữa Đức Mẹ và Chúa Giêsu thì ta
phải kết luận một cách chắc chắn và dễ dàng rằng Đức Mẹ cũng phải được hưởng
một vương quyền trên mọi thụ tạo. Và đây cũng là lý do khiến các đấng giáo phụ
hiểu lời thiên thần chào Đức Mẹ, và báo trước về nước Con Ngài sẽ tồn tại đến
muôn đời, và lời bà Elisabeth khi nghiêng mình kính chào Đức Mẹ là ‘Mẹ Chúa
tôi’ ám chỉ một vương quyền Đức Mẹ được thông công với Chúa Con” (Ad
Reginam coeli, p. 521).
[4] Đế (帝): (1) Vị tối cao: Thượng Đế; (2) Vua: hoàng đế.
[5] Thái thượng có nghĩa là rất tôn kính, vì không can dự quốc sự
nên không xưng là đế.
[6]http://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%91c_v%C6%B0%C6%A1ng
[7] Quân (君): (1) Vua: anh quân; (2) Người đàn ông: chư quân (tiếng
Việt thường gọi là quý vị).
[8] Vua (Nôm): (1) Quân, người có chức vị đế, hoàng, vương,
cầm quyền trị vì một nước (thường cha truyền con nối): Vua Hùng Vương,
vua Lý
[9] Vua bà (Nôm) dùng gọi nữ vương hay nữ hoàng (không nên
lẫn với hoàng hậu là vợ cả của vua).
[10] Chẳng hạn Adam de Saint-Victor (tk.XII) trong
Mont-Saint-Michel and
[11] Chẳng hạn Nhóm CGKPV dịch: Salve
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
nguồn : truyenthongconggiao.org