LỄ CÁC ĐẲNG
Một lần nọ, trước ngày lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời, cha sở
thông báo: “Ngày mai là lễ các đẳng, chúng ta nhớ cầu nguyện cho các đẳng”.
Thế rồi, công an xã mời cha đến xã làm việc cả một tuần lễ, với lý do là “Chúng
ta chỉ có một đảng, sao linh mục kêu gọi cầu nguyện cho các đảng?” [1]!
Lễ ngày 2-11 có nhiều cách gọi. Cuốn “Những Ngày Lễ Công Giáo”
chính thức của Giáo hội Việt
Nguồn gốc
Việc cầu nguyện cho những người đã qua đời có nguồn gốc từ Cựu Ước:
“Ông Giuđa quyên được khoảng hai ngàn quan tiền, và gửi về Giêrusalem để xin
dâng lễ đền tội; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quý này vì cho rằng người
chết sẽ sống lại. Thực thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã
xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho người chết quả là việc dư thừa và ngu
xuẩn. Nhưng vì ông nghĩ đến phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an
nghỉ trong tinh thần đạo đức. Đó là lý do khiến ông đến dâng lễ tế đền tạ cho
những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” (2 Mcb 12,43-46).
Giáo Hội từ những thế kỷ đầu cũng đã có cầu nguyện cho các tín hữu
đã qua đời. Thánh Augustinô, thế kỷ IV, đã nói: “Nếu chúng ta không lưu tâm
gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ”.
Các dòng tu đặc biệt quan tâm đến việc này. Thánh Ôđilô, Tu viện trưởng Dòng
Cluny, vào giữa thế kỷ XI (1048) đã có sáng kiến cho dòng của ngài cầu nguyện
cho những người đã qua đời vào ngày 2-11, ngay sau lễ Các Thánh. Sáng kiến này
được Giáo Hội đưa vào lịch Phụng vụ Rôma. Công đồng Triđentinô (1545-1563) nhấn
mạnh rằng lời cầu nguyện của người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện
của linh hồn người chết. Công đồng Vatican II cũng dạy: “Giáo Hội lữ hành
hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ
được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh...” (GH 50), về sự bầu
cử của các đẳng linh hồn, Công Ðồng dạy: “Khi được về quê trời và hiện diện
trước nhan Chúa... các Thánh lại không ngừng cầu bầu cho chúng ta bên Chúa Cha...”
(GH 49). Sự trao đi nhận lại đó vừa là một việc bác ái vừa là một bổn phận thảo
hiếu phải đáp đền, đã thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh
thiện. Ngày cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời liên quan đến niềm tin về
luyện ngục và các thánh thông công.
Thuật từ tiếng Latinh
Lễ này tiếng Latin là “Commemoratio omnium Fidelium Defunctorum”,
tiếng Anh gọi là “Commemoration of all the Faithful Departed”, có khi
cũng gọi là All Souls’ Day (Lễ các linh hồn) hay Defuncts’ Day (Lễ
các người đã qua đời). Uỷ ban Phụng tự dịch là “Lễ cầu cho các tín hữu đã qua
đời” là đúng, nhưng bình dân vẫn gọi là “Lễ các đẳng”. Vậy chúng ta tìm hiểu từ
vựng này.
Nghĩa của các, đẳng
Các: Có chín chữ Hán, ở đây là chữ各, nghĩa là (đại từ). (1) Mỗi một: Các bất tương
đồng (không ai giống ai). (tt). (2) Khác: Các biệt.
(3) Tất cả, hết thảy: Các vị (quý vị).
Đẳng: có hai chữ Hán, ở đây là chữ等, nghĩa là (dt.) (1) Thứ bậc: Thượng đẳng
(bậc trên nhất); Trung đẳng (bậc giữa); Hạ đẳng
(bậc dưới cùng, hạng bét). (2) Phức số: Ngã đẳng (Nhóm chúng
tôi). (3) Bậc thang: Thổ giai tam đẳng (Cầu thang đất có
ba bậc). (đt.) (4) Ðợi chờ: Đẳng đãi (Chờ đợi).
(5) Bằng nhau, đều: Đại tiểu bất đẳng (Lớn nhỏ không đều). (6)
Cân lường. (tt.) (7) Hạng: Nhĩ thị hà đẳng nhân (Anh là
hạng người nào). (pht.) (8) Vân vân: Đẳng đẳng.
Nghĩa của từ “các đẳng”
Các đẳng là tất cả thứ bậc. Thuật từ “Các
đẳng linh hồn” để chỉ tất cả các linh hồn người quá cố trong luyện ngục [2]
(thuộc thành phần Hội Thánh đau khổ), phân biệt với “Các thánh nam nữ” là các
phúc nhân trên thiên đàng (Hội Thánh vinh quang). [3] Có người cho rằng quan
niệm về “linh hồn mồ côi” và “các đẳng linh hồn”… chịu ảnh hưởng tư tưởng “cô
hồn các đẳng” của ngoại giáo. Như Phật giáo chia địa ngục ít nhất có 18 tầng và
quỷ cũng có nhiều cấp bậc. Trong “Phật thuyết quỷ vấn Mục Liên kinh” [4] có rất
nhiều thứ quỷ: quỷ đau đầu, quỷ mặc áo rách, quỷ ngủ bờ ngủ bụi, quỷ đói,
quỷ nam căn [5] bị thối rữa… Hay trong xã hội loài người cũng chia làm nhiều
giai cấp, tức là thứ bậc khác nhau trong xã hội: sĩ, nông, công, thương, binh...
Trong tác phẩm “Thập Giới Cô Hồn Quốc Ngữ Văn” [6] đề cập đến 10 hạng “cô hồn”:
Thiền tăng, nho sĩ, đạo sĩ, thiên văn địa lý, lương y, quan liêu, tướng
quân, hoa nương, thương cổ và đãng tử. Trong “Văn Tế Thập Loại Chúng
Sinh” [7] cũng nói đến 10 loại: Vua chúa, tể thần, đại tướng, kẻ ham giàu,
kẻ ham danh, thương nhân, binh lính, quý nữ, kỹ nữ, bần nhân gặp nạn chết
oan... Con số 10 chỉ là số phiếm chỉ cho tất cả các loại cô hồn tồn tại trong
“lục đạo” [8] mà thôi. Phải chăng, chính những hoàn cảnh này đã ảnh hưởng
đến cách suy nghĩ của chúng ta?
Thực ra, trong xã hội trần gian bao giờ cũng có nhiều thứ bậc, đẳng
cấp, giai tầng... Khi lìa trần, người ta không thể mang theo mình bất cứ của
cải vật chất nào. Mọi thứ bậc, đẳng cấp, địa vị của con người ở trên đời không
có ý nghĩa gì trước Toà Phán Xét. Thiên Chúa xét xử con người theo “công trạng”
[9] nó đã làm ra. Chúa không hỏi chúng ta là ai, thuộc giai cấp nào trên thế
gian, nhưng Chúa sẽ hỏi chúng ta về “nén bạc” (ân sủng và tình yêu) mà Chúa
giao phó đã được sinh lợi thế nào. Như Thánh Gioan Kim Khẩu đã nói: “Nên nhớ
Người sẽ không khiển trách họ về hạnh kiểm, tội lỗi hay lời báng bổ; mà chỉ vì
không ích lợi gì cho ai. Như kẻ đã chôn nén của bạc mình, đời sống y không có
gì khiển trách, nhưng y không làm ích gì cho ai khác”. [10]
Vì vậy, khi nói “các đẳng linh hồn”, chúng ta nghĩ tới tất cả
các linh hồn của mọi hạng người trên đời này đã quá cố và đang còn phải thanh
luyện trong luyện ngục. Họ có thể là ông bà, tổ tiên, thân nhân, bạn hữu
của chúng ta hay là những người xa lạ. Khi còn ở đời này, có thể họ là người
giàu sang quyền quý hay nghèo khó mọn hèn. Họ có thể là những Kitô hữu hữu danh
hoặc “Kitô hữu vô danh”. [11] Tất cả họ đều là chi thể của Chúa Kitô, giờ đây
đang thuộc về Giáo Hội đau khổ và cần đến lời cầu nguyện của chúng ta.
“Các đẳng linh hồn” không có nghĩa là trong luyện ngục các linh
hồn vẫn có sự phân chia đẳng cấp, điạ vị như khi còn ở thế gian hay
trong Luyện Ngục có bao nhiêu đẳng cấp, thứ hạng linh hồn. Trong Luyện Ngục,
tình trạng thanh luyện của họ có thể khác nhau, nhưng được “phân cấp” như thế
nào thì chúng ta không biết.
Khi nói “linh hồn mồ côi”, chúng ta nghĩ tới linh hồn của hạng
người phải đơn độc trong cuộc lữ hành đức tin khi còn ở trên đời. “Đơn
độc”, “cô quả”, “mồ côi”... hiểu theo nghĩa đời thường là không có người thân
thích, bạn bè, không có ai đồng hành để được quan tâm, nâng đỡ đời sống đức tin.
Họ có thể là những tín hữu cô nhi, quả phụ hay kẻ cơ bần sống đời đơn chiếc. Họ
cũng có thể là những tín hữu giàu sang, con đàn cháu đống, bạn hữu tứ phương mà
thực ra những người quen biết xung quanh họ không ai có niềm tin Công giáo như
họ để xin lễ hay cầu nguyện cho họ. Và nay, những linh hồn đó đang ở trong
Luyện Ngục, đang cần đến lời cầu nguyện từ Giáo Hội chiến đấu [12].
“Linh hồn mồ côi” không phải là linh hồn không được Chúa đoái
trông chăm sóc, ít được Chúa yêu thương hay bị Ngài lãng quên. Điều đó hoàn
toàn sai lầm. Mọi linh hồn đều được Thiên Chúa tạo dựng. Mọi người đều được
Chúa yêu thương bằng một tình yêu riêng biệt, không ai giống ai, Ngài vẫn không
ngừng gọi chúng ta bằng chính tên riêng của từng người: “Người ta sẽ gọi
ngươi bằng tên mới, chính là tên miệng Đức Chúa đặt cho” (Is 62,2) và tình
yêu đó luôn luôn đầy tràn: “Ơn của Ta đủ cho ngươi” (2 Cr 12,9).
Bản văn Công giáo đầu tiên sử dụng từ “các đẳng” mà chúng tôi được
biết là “Văn Tế Các Đẳng Linh Hồn” của Cha Gioakim Đặng Đức Tuấn (1806-1874): “Nhớ
các đẳng xưa: Tay Chúa dựng hình, tính thiêng gởi xác. Di luân tài mạng chịu
thiên tư, lý dục thị phi đầy địa bộ...”. Cụm từ “các đẳng”, “các đẳng linh
hồn” đã được sử dụng từ lâu trong Giáo Hội tại Việt Nam để chỉ các tín hữu đã
qua đời đang còn thanh luyện chờ ngày hưởng phúc thanh nhàn bất diệt. Lịch
Phụng vụ của Roma xưa nay ghi lễ ngày 2-11 là “Commemoratio omnium Fidelium
Defunctorum”. Lịch Phụng vụ ở Việt
Trường hợp những ngày lễ Feria V in Cena Domini, Feria VI in
Passione Domini, chúng ta dịch là Lễ Tiệc Ly (Thứ Năm Tuần Thánh), Lễ Tưởng
Niệm Cuộc Thương Khó của Chúa (Thứ Sáu Tuần Thánh), nhưng người bình dân vẫn
quen gọi là “Lễ Rửa Chân”, “Lễ Hôn Chân”... vừa đơn giản, tượng hình lại dễ
nhớ. Tất nhiên không đủ nghĩa, không nên sử dụng nữa.
Kết luận
Giáo dân Việt Nam chúng ta có thói quen xin lễ cho các linh hồn tổ
tiên nội hay ngoại, linh hồn thân nhân, linh hồn mồ côi, linh hồn ngoại đạo,
thai nhi, linh hồn người chết vì tai nạn… và trong Thánh lễ hằng ngày, Hội
Thánh luôn cầu nguyện cho mọi người đã qua đời. Đó là những thực hành rất tốt
để tưởng nhớ người đã qua đời, thực thi bổn phận “hợp thông cùng các thánh”.
Ngày “Commemoratio omnium Fidelium Defunctorum”, chính xác là ngày
“Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời”. Còn “Lễ Các Đẳng” là cách nói vắn
tắt, hiểu theo Giáo lý Công giáo như đã trình bày, thì không đúng cho lắm,
những nếu đặt trong bối cảnh văn hoá Việt Nam thì việc tiếp tục sử dụng nó cũng
không có gì ngăn trở.
------------------------
[1] Trong văn nói, một số người Nam bộ phát âm “các đẳng” thành
“các đảng”, cũng như “cô hồn” thành “cu hồn”, nên “cúng cô hồn các đẳng” thì
nói là: “cúng cu hồn các đảng”.
[2] Lưu ý là luyện ngục không phải là một hoả ngục ngắn hạn, luyện
ngục hoàn toàn khác xa hoả ngục và sự thanh luyện được hiểu về trạng thái hơn
là một ‘nơi chốn’, lại càng không thể nói ‘thời gian’ bao lâu (x. GLCG số
1030-1032).
[3] Thời xưa chưa có mục từ “tất cả”. Các danh từ chỉ tổng lượng
thời xưa là: cả, cả và, cả thảy, hết cả, hết thảy.
[4] Phật thuyết quỷ vấn Mục Liên kinh, gồm 17 chuyện, theo truyền
thuyết thì do An Thế Cao dịch, nhưng được ghi nhận là thất dịch, thuộc đời
lưỡng Tấn.
[5] Tức bộ phận sinh dục.
[6] Còn gọi là “Phật kinh thập giới”, không rõ tác giả, viết dưới
thời vua Lê Thánh Tôn (1442-1497), là áng văn viết bằng chữ Nôm cổ theo thể
biền ngẫu.
[7] Tác phẩm của Nguyễn Du (1765-1820), được làm theo thể song thất
lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm. Theo Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần
báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp
làm hàng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các
chùa, người ta đều lập đàn cầu siêu để giải thoát cho hàng triệu linh hồn.
[8] Theo giáo lý Phật giáo, con người chúng ta do lực của nghiệp và
phiền não của chính bản thân mà cứ mãi luân hồi chuyển sinh trong 6 chủng loại
thế giới sinh tồn đầy những khổ đau, gọi là lục đạo đó là: thiên, a-tu-la,
nhân, súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục.
[9] x. BGCN, số 07/2010, tr. 106.
[10] Thánh Gioan Kim Khẩu, Bài giảng XX sách Công vụ Tông đồ (Jean
Comby, Để Đọc Lịch Sử Giáo Hội, q.I, tr.115).
[11] Có những người vì lý do nào đó mà không lãnh nhận Bí tích Rửa
Tội được, nên không trở thành Kitô hữu. Nhưng nếu họ sống theo những giá trị
của Phúc Âm thì, nói theo từ ngữ của nhà thần học Karl Rahner, họ cũng là những
“Kitô hữu vô danh” (Chrétien anonyme).
[12] Công đồng
[13] Niên Giám 1964, tr. 11.
[14] Địa phận Hà Nội, Sách Lễ, NXB Hiện Tại, 1967.
[15] Sách Lễ Giáo Dân, 1971, tr. xxix và tr. 1572. Cách dịch này
rất dễ hiểu lầm là: Lễ cầu cho mọi tín hữu chết hết (!)
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
nguồn: truyenthongconggiao.org