THỂ HIỆN, THỰC HIỆN
Sau Công đồng Vatican II, ở Việt Nam,
Kinh Lạy Cha được dịch lại, trong đó lời nguyện thứ ba: “Vâng ý Cha dưới đất
bằng trên trời vậy” được sửa lại là: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên
trời”. Có người thắc mắc: thuật từ thể hiện ở đây có nghĩa là gì? Nếu
câu này dịch là: “Ý Cha thực hiện dưới đất cũng như trên trời” có rõ và sát
nghĩa hơn hay không?
Chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa của hai từ
thể hiện, thực hiện và nội dung của lời nguyện thứ ba của Kinh Lạy Cha
như thế nào.
1. Nghĩa của những
chữ thể, hiện và hiện
1.1. Thể: có 2 chữ Hán: 醍và體 (những cách viết khác: 躰, 軆, 体). Trong thuật từ thể hiện, thể viết là體. Thể 體 có các nghĩa: dt.
(1) Thân mình hay một phần thân mình của người hay động vật: Thân thể, chi
thể. (2) Bản thân sự vật: Cá thể, nhất thể. (3) Toàn bộ sự vật: Chỉnh
thể, toàn thể. (4) Sự vật với các chiều kích (dài, rộng, cao) nhất định: Hình
thể, thể thị (stereo). (5) Sự việc với các quy mô, cách thức nhất định: Văn
thể, tự thể, quốc thể. (6) Cái nguyên lý hay bản chất bao hàm ở bên trong của
sự vật. (Đối lập với dụng 用, tức là dùng, đem thi hành ra sự
nghiệp): Bản thể, hữu thể. (7) Cùng một bực: Nhất khái, nhất thể
(suốt lượt thế cả). (8) Họ Thể. đt. (9) Ðặt mình vào: Thể sát
(đặt mình vào đấy mà xét), thể tuất (đặt mình vào đấy mà xót thương). tt.
(10) Thuộc về thân mình: Thể trọng (cân nặng của thân mình).
1.2. Hiện: có 6 chữ Hán: 現(现), 峴(岘), 蜆(蚬), 見(见), 莧(苋), 鋧. Trong thuật từ thể hiện, hiện viết là現. Chữ現 (hiện) có bộ 玉(ngọc) và chữ 見 (kiến nghĩa là thấy), thấy
được ánh sáng hiển lộ của ngọc là hiện. Nghĩa là: dt. (1) Tiền mặt có sẵn:
Đoái hiện (đổi thành tiền mặt). (2) Bày rõ ra: Hiển hiện (rõ
ràng). đt. (3) Lộ ra: Hiện xuất nguyên hình (lộ ra nguyên hình). tt.
(4) Ngay bây giờ: Hiện tại. (5) Đang có trước mắt: Hiện kim giao dịch
(mua bán bằng tiền đang có). trt. (6) Tức thời: Hiện mãi hiện mại
(mua bán tức thời).
1.3. Thực: có sáu chữ Hán: 食(飠, 饣), 實(实), 植, 埴, 殖, 蝕(蚀), đây là chữ實. Trong kim văn do bộ宀 (miên: nhà), chữ田(điền: ruộng) và 貝(bối: vỏ sò, tiền tệ thời xưa, chỉ tài sản) hợp thành, ý nghĩa là
“giàu có, no đủ” (người có nhà cửa, ruộng vườn và tiền bạc...). Từ Tiểu triện về
sau điền (田) và bối (貝) biến hóa thành quán (貫, hàng hoá). Trong nhà đầy hàng hoá, nên giàu có là cũng có thể hiểu
được. Hán thư viết: “Thực túc hóa thông, nhiên hậu quốc thực dân phú: Ăn
uống no đủ, hàng hoá lưu thông, sau đó nước thực (mạnh) dân giàu”. Vì vậy, thực
實có nghĩa là: tt. (1)
Giàu có: Thân gia ân thực (mình nhà giàu có). (2) Tràn đầy: Thương lẫm
thực, nhi tri lễ nghĩa (kho lúa tràn đầy, mà biết lễ nghĩa). (3) Chân thật,
cái gì thực có: Chân tài thực học (tài năng và học vấn đều có thực). Đối
lập với hư (虛, tức là trống rỗng, không có thực). dt. (4) Trái cây: Quả
thực. (5) Các phẩm vật: Đình thật (trong sân nhà bầy la liệt các đồ).
(6) Nội dung: Hữu danh vô thực (có tên nhưng bên trong không có gì). (7)
Cụ thể: Thực xuất ư hư (cụ thể do hư cấu). (8) Họ Thực. đt. (9)
Tương đương: Duyệt thực kỳ tội (xem tương đương tội của hắn).
2. Nghĩa của hai chữ
thể hiện và thực hiện
2.1. Thể hiện: Trong thuật từ này, Giáo sư Nguyễn Lân cho thể là cách
thức [1], Bữu Kế thì cho là thân mình [2], nhưng theo tôi, chữ thể
trong thuật từ này phải hiểu là cái “bản thể”, “bản chất”, “nguyên lý”, “nguyên
chất”... bao hàm bên trong, trái với “dụng 用” (tức là lấy nghĩa thứ 6 ở trên) [3]. Chữ “thể” ở đây cũng là thể
trong hữu thể, bản thể, tuỳ thể, hiện thể, tiềm thể... Và thể hiện có
nghĩa là: (1) Biểu lộ, trình bày hoặc miêu tả ra cho mọi người có thể hiểu, cảm
nhận hoặc thấy rõ được, bằng một hình thức nào đó (to manifest, to express, to
represent, to interpretation, to display, to give expression to): Bài hát được
thể hiện bằng giọng ca của một nghệ sĩ trẻ, Bài thơ thể hiện lòng yêu nước.
(2) Hiện thực hoá (to realize): Làm cho có trong thực tế, làm cho có thực: Thể
hiện những hoài bão con người [4]. (3) (triết học) Hiển thể hoá (to
actualize, to become, to fulfil): Tỏ rõ một tiềm năng ẩn tàng, là đi từ tiềm thể
sang hiển thể, cũng gọi là tiến hoá (evolution), biến hoá (transformation) hoặc
chuyển động (movement), vận động (changement), chuyển thành (devenir) [5].
2.2. Thực hiện: (1) Hiện thực hoá: Làm cho thành ra sự thực
(to realize, to actualize): Thực hiện chủ trương của cấp trên. (2) Làm
theo trình tự, thao tác nhất định (to do, to execute, to perform, to implement,
to carry out): Thực hiện phép tính, thực hiện ca phẫu thuật phức tạp.
- Lưu ý: Thể hiện và thực hiện có ý nghĩa khác nhau, nhưng hai từ này cũng
có chung một nội dung là hiện thực hoá (làm thành hiện thực, bày ra thực tại).
Với ý nghĩa hiện thực hoá, thể hiện và thực hiện có thể thay đổi lẫn nhau, ví
dụ: Mọi người tích cực đi bầu để thể hiện / thực hiện quyền công dân;
nếp sống văn minh đã được thể hiện / thực hiện tại khu phố này; giữ lời
hứa là thể hiện / thực hiện đức trung tín.
3. Lời nguyện thứ 3
của Kinh Lạy Cha
“Ý Cha thể hiện dưới
đất cũng như trên trời” - lời nguyện này trích từ câu Phúc Âm Mt 6,10. Nguyên
bản Hy Lạp: “genêthêtô to thelêma sou, hôs en ouranô, kae
epi tês gês” và bản Nova Vulgata là: “fiat voluntas tua, sicut in caelo, et in
terra”.
Nguyên thể của động
từ Hy Lạp genêthêtô [6] là ginomai có nghĩa là: Hình thành, ra đời, được sinh
ra, trở nên, trở thành, xảy ra, xảy đến... Nghĩa gốc là: Lộ ra, hiện ra, trở
nên, trở thành, chuyển từ một điểm (lĩnh vực, tình trạng) này sang điểm khác.
Tóm lại, nghĩa căn bản của động từ ginomai là: Trở nên (trở thành) [7].
Trong Thánh Kinh, ginomai được sử dụng rất rộng rãi, đến 487 lần và
thường được sử dụng để chỉ hành động của Thiên Chúa khi làm cho cái gì đó từ
đời đời được biểu lộ, xuất hiện trong thời gian (không gian vật lý). Trong Mt
6,10, ginomai có nội dung “hiện thực hoá” (đi từ trừu tượng sang cụ thể) và
“hiển thể hóa” (đi từ tiềm thể sang hiển thể). Nếu dùng từ “thể hiện” thì rất
thích hợp để diễn tả cả hai nội dung này hơn là “thực hiện”. Nhưng vì nó ở thì
bất định (aorist) nên nó ám chỉ một việc “đã hoặc phải được thực hiện một cách
toàn diện và đúng mức” [8]. Do đó, Uỷ ban Phiên dịch Sách Lễ Rôma 1992 đã đề
nghị dùng chữ “thành tựu” để dịch từ này: “Chúng ta xin cho thánh ý Thiên
Chúa chẳng những được thể hiện (đi từ nội dung trừu tượng sang hình thức cụ
thể), mà còn phải được “thành tựu” (= thành công một cách tốt đẹp) nữa”[9].
Tuy nhiên, đặt câu này trong văn mạch Mt
6,9-13, thì ý muốn của Thiên Chúa trên con người chính là họ phải vâng phục,
tuân giữ và thi hành các giới răn, và ý muốn của Thiên Chúa trên Đức Kitô chính
là Chúa phải dẫn đưa con người đến sự sống đời đời. Cũng như trong lời nguyện
thứ nhất (6, 9), ở đây động từ ginomai được đặt ở thể thụ động (passive) và
không có túc từ tác nhân đi theo, do đó cách viết này đòi chúng ta phải hiểu
lời cầu xin này theo một ý nghĩa hết sức rộng rãi: Nguyện cho ý Cha được thành
tựu khắp nơi và luôn mãi, nhờ tất cả mọi thụ tạo[10].
Nguyên thể của động từ Latin fiat [11]
là facere có nghĩa là: Làm (thi hành, thực hiện), làm trọn (làm cho xong, hoàn
tất, hoàn thành), làm cho thấy (chứng tỏ, tỏ ra), làm
ra (dựng nên, sinh ra) (ago, conficio, praestio, creo...). Ở lối thụ động, fiat
có nghĩa là: Xin cho được xảy ra, xin được thực hiện; phải, chịu; thừa nhận,
chấp nhận... [12], tiếng Việt nói đơn giản là “vâng” (xin vâng). Thuật từ genêthêtô được chuyển dịch qua La ngữ là fiat. Cả hai đều diễn tả nội dung là “hãy trở thành hiện thực”. Nhưng
genêthêtô trong thể “imperative”, có tính chất
ao ước khẩn thiết như một mệnh lệnh, chớ không thoái nhượng, cầu khẩn,
“subjunctive” như fiat. Genêthêtô không diễn tả
sự đồng ý bất khả kháng hay cam chịu đơn thuần một việc gì xảy đến, dường như
nói: “Nếu không thể làm được bằng cách nào khác thì con bằng lòng - fiat
voluntas tua - vâng ý Cha!”. Ngược lại, tiếng đó (genêthêtô)
diễn tả lòng ao ước, sự thiếu kiên nhẫn, niềm vui khi có một sự gì xảy đến.
Đó là lý do tại sao gọi là thể “imperative”[13].
Theo Mt 26,42, chính Chúa Giêsu trong
vườn Ghếtsêmani đã cho chúng ta thấy ý nghĩa đích thực của công thức mà Chúa đã
dạy trong Kinh Lạy Cha: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao
tránh khỏi, thì xin ý Cha được thực hiện (genêthêtô to thelêma sou)”.
Lời cầu “xin hiện thực hoá thánh ý Chúa
Cha” của Chúa Giêsu không hề diễn tả một sự nhẫn nhục, đành lòng chấp nhận số
phận đã được an bày, nhưng đó là một sự suy phục ý chí nhân loại của Chúa trong
tình con thảo với ý muốn của Thiên Chúa, bởi vì trước đó ba câu, Chúa đã nói: “Lạy
Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng
theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Lời ấy cho thấy mặc dù ghê sợ
trước những đau đớn khủng khiếp của cuộc khổ nạn sẽ phải chịu, Chúa Giêsu vẫn
cương quyết muốn những gì Cha Người muốn và Người ra sức thực thi ý muốn đó.
Thể mệnh lệnh (imperative) của động từ ginomai cho thấy một ý chí nhân
loại cầu xin cho ý chí thần linh của Thiên Chúa được thành hiện thực (thể hiện,
thực hiện, thành sự, thành tựu, hoàn thành, viên thành, viên mãn, nên trọn...)
dù phải trả giá thế nào đi nữa.
Tóm lại, trong lời cầu nguyện thứ ba này
có hai ý (túc từ tác nhân): Một là xin “vâng ý Cha”, nghĩa là “xin cho mọi
người thế gian được lòng sốt mến mà vâng lời Đức Chúa Trời cho trọn cũng như
các thánh trên trời vâng ý Cha Cả mọi đàng”[14]. Hai là xin “ý Cha thể
hiện”, nghĩa là “xin Cha tích cực làm cho ý Cha về chương trình thiết lập
Nước của Người được thể hiện toàn diện” [15]? Và, phải chăng vì hai ý này
mà Kinh Lạy Cha của ông cha ta từ đầu cho đến năm 1905 đều viết là “Vâng
ý Cha làm” (Bum í cia lam)?
4. Kết luận
Trong quá khứ, các dịch giả Thánh Kinh
cũng như Kinh Lạy Cha ở Việt
Khác với các lời kinh trong Cựu Ước, lời
nguyện “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” nói riêng, và các lời
nguyện khác trong Kinh Lạy Cha nói chung đều có đặc tính cánh chung, nghĩa là
diễn tả “mầu nhiệm cứu độ đã được thực hiện, một lần cho mãi mãi,
trong Đức Kitô chịu đóng đinh và đã phục sinh” (GLCG 2771). Và nội dung của lời
nguyện thứ ba này là: “Chúng ta nài xin Cha chúng ta, xin Ngài cho ý muốn của
chúng ta được kết hợp với ý muốn của Con Ngài, để kế hoạch cứu độ được hoàn
thành trong cuộc sống trần gian” (GLCG 2860).
-----------------------------
PHỤ LỤC
CÁC BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT CỦA MATTHÊÔ 6,10
Nguồn |
Matthêô 6,10 |
Bản Hy Lạp |
- elthetô hê basileia sou; genêthêtô to thelêma sou, hôs en
ouranô, kae epi tês gês. |
Nova Vulgata |
adveniat regnum tuum, fiat
voluntas tua, sicut in caelo, et in terra. |
Các bản Kinh Lạy Cha [17] - Năm 1632 |
Nước Cha trị đến. Bum í cia lam cium ðét bàm cium
blòei bẽi. |
- Năm 1651 |
Nước Cha trị đến. βâng í Cha làm chưng đất [đết] bằng chưng blời
βậy. |
- Năm 1700-1750 |
Cuốc Cha trị đến. Vâng
ý Cha [làm] dưới đất bằng trên blời vậy [18]. |
- Năm 1905 |
Nước Cha trị đến. Vưng ý Cha
làm dưới đất bằng trên trời vậy. |
Kinh Lạy Cha giữa thế kỷ 17 [19] |
Nước Cha trị đến kẻ ở trên trời vâng
ý Cha là thể nào, thì chúng tôi xin thiên hạ cùng vâng như làm vậy. |
KT, Cố Chính Linh 1916 |
Nước Cha trị đến; vâng ý Cha
dưới đất bằng trên lời. |
Kinh Lạy Cha 1869; 1926 [20] TƯ, Gérard Gagnon 1962 |
Nước Cha trị đến, Vâng ý Cha
dưới đất bằng trên trời vậy. |
KT, Phan Khôi 1934; KT, Bản nhuận chánh 1975 |
Nước Cha được đến; Ý Cha được nên,
ở đất như trời! |
KT, Trần Đức Huân 1970 |
Nước Cha trị đến; vâng ý Cha
dưới đất bằng trên trời. |
Nghi thức Thánh Lễ 1971; TƯ, Trịnh Văn Căn 1989 |
Nước Cha trị đến; ý Cha thể hiện
dưới đất cũng như trên trời. |
Kinh Lạy Cha đại kết 1972 [21] |
Triều đại Cha mau đến, tôn ý Cha thể
hiện dưới đất cũng như trên trời. |
KT, Nguyễn Thế Thuấn 1976 |
Nước Cha trị đến; ý Cha thành sự,
dưới đất cũng như trên trời. |
TƯ, An Sơn Vị 1983 |
Xin Cha liệu cho Triều-đại-nước Cha
mau đến! Xin Cha làm trọn Thánh ý của Cha! Ở dưới đất giống như trên
trời. |
TƯ, CGKPV 1985 (?) |
Triều đại Cha mau đến, tôn ý Cha thành
sự dưới đất cũng như trên trời. |
Uỷ ban phiên dịch SLR 1992 [22] |
vương quyền Cha mau đến, ý Cha thành
tựu dưới đất cũng như trên trời. |
TƯ, CGKPV 1994; KT, CGKPV 1998 |
Triều đại Cha mau đến, ý Cha thể
hiện dưới đất cũng như trên trời. |
Kinh Lạy Cha 2000 [23] |
Xin cho Nước Cha lan rộng, Xin cho
trên trời dưới đất vâng theo ý Cha |
TƯ, CGKPV 2008 |
Nước Cha mau đến, ý Cha thể hiện
dưới đất cũng như trên trời. |
Hai nhận xét chung về các bản dịch Mt
6,9-10 trong Kinh Lạy Cha
1) Năm 1566, Bộ Giáo
Lý của Cộng đồng Trentô đã dạy các vị chủ chăn phải “lưu ý các tín hữu rằng
những lời ‘dưới đất cũng như trên trời’ có thể được liên kết với cả 3 lời
cầu xin đi trước và phải hiểu như thế này: ‘xin làm cho danh Cha cả sáng
dưới đất cũng như trên trời, nước Cha trị đến dưới đất cũng như trên
trời, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời’... ”[24]. Nhưng tất cả
các bản dịch của Công giáo Việt
- “Quyết định này có
hiệu lực đối với các học sinh trên 10 tuổi, các sinh viên tốt nghiệp trước năm
2000, các giáo viên đã về hưu ở Hà Nội và Sài Gòn”.
Nếu thêm một dấu phẩy ngay sau chữ “về
hưu”, số đối tượng của quyết định này chắc sẽ giảm xuống (!):
- “Quyết định này
có hiệu lực đối với các học sinh trên 10 tuổi, các sinh viên tốt nghiệp trước
năm 2000, các giáo viên đã về hưu, ở Hà Nội và Sài Gòn”.
2) Đoạn đầu của
Kinh Lạy Cha, cũng như đoạn thứ hai, rõ ràng gồm 5 câu thơ. Và phần giữa đoạn
này được hợp thành bởi 3 lời cầu song song nhau, mỗi lời 4 chữ (HL) hay 3 chữ
(LT) rất cân đối:
- agiasthí̱to̱ tó ónomá sou / elthéto̱ i̱ vasileía sou / geni̱thí̱to̱ tó théli̱má sou.
- “sanctificetur nomen tuum / adveniat
regnum tuum / fiat voluntas tua”.
Các bản dịch trước năm 1905 đã giữ được
sự cân đối (4/4/4) này, ví dụ:
- “danh Cha
cả sáng / nước Cha trị đến / vâng ý Cha làm”
Bản dịch của Nghi thức Thánh Lễ 1971;
TƯ, Trịnh Văn Căn 1989 và Nguyễn Thế Thuấn 1976 cũng cân đối (4/4/4):
- “danh Cha cả sáng / nước Cha trị đến
/ ý Cha thể hiện”
- “danh Cha hiển thánh / Nước Cha trị
đến / Ý Cha thành sự”
Nhưng nhiều bản dịch khác đã không có
được sự cân đối đó, ví dụ:
- “danh Cha hiển thánh / vương quyền
Cha mau đến / ý Cha thành tựu” (UBPDSLR 1992)
- “danh thánh Cha vinh hiển / triều đại
Cha mau đến / ý Cha thể hiện” (CGKPV 1994/1998)
- “danh thánh Cha vinh hiển / nước Cha
mau đến / ý Cha thể hiện” (CGKPV 2008).
-------------------------------
Ghi chú:
[1] Nguyễn Lân, TỪ ĐIỂN TỪ VÀ NGỮ, tái bản lần 1, NXB.
Tổng Hợp TP. HCM, 2006.
[2] Bửu Kế, TỪ ĐIỂN HÁN VIỆT TỪ NGUYÊN, tái bản lần 1,
NXB. Thuận Hoá 2009.
[3] Xem mục chữ THỂ 體 của: Thiều Chửu, Sđd; Đào Duy Anh, HÁN VIỆT TỪ ĐIỂN, in lần
thứ ba, Trường Thi, Sài Gòn, 1957, tr.790 và ĐẠI TỪ ĐIỂN HÁN VIỆT
(http://rongmotamhon.net).
[4] x. Trần Văn Hiến Minh, TỪ ĐIỂN VÀ DANH TỪ TRIẾT HỌC,
Ra Khơi, Sài Gòn, 1966.
[5] x. Trần Văn Hiến Minh, GIÁO TRÌNH 5: CON NGƯỜI SUY TƯ
VỀ HỮU THỂ HAY LÀ HỮU THỂ HỌC (ONTOLOGIE), Ronéo, tr. 40-41.
[6] Ngôi thứ ba số ít, thể mệnh lệnh trung gian thụ động thời
bất định (aorist passive deponent imperative).
[7] http://strongsnumbers.com/greek/1096.htm:
Ginomai: to come into being, to be born, to become, to come about, to
happen. Properly: to emerge, become, transitioning from one point (realm,
condition) to another. Fundamentally means: "become" (becoming,
became).
[8] F. M. Abel, GRAMMAIRE DU GREC BIBLIQUE, J. Gabalda,
[9] UB Phiên dịch SLR 1992, CHÚ THÍCH BẢN DỊCH NGHI THỨC
THÁNH LỄ, số 96/9, tr.29 (Bản dịch Kinh Lạy Cha này không được HĐGM chấp
nhận và SLR 1992 vẫn theo SLR 1971).
[10] Jean Carmignac, A L’ÉCOUTE DU NOTRE PÈRE, Paris,
1971. Bản dịch của Thái Văn Thắng, LỜI KINH CHÚA DẠY, Ronéo,
TP.HCM, 1977, tr. 25.
[11] Ngôi thứ ba số ít lối thụ động (passive singular), thì
hiện tại giả định (present subjunctive).
[12] Facere trong tiếng Anh là: to make, to do. Ở third
person singular, present subjunctive nó có nghĩa là: let it be done, to become,
to be done (http://www.thefreedictionary.com/fiat).
[13] cf. Bài giảng của Lm. Cantalamessa trước sự hiện diện
của Đức Giáo Tông và Giáo triều Rôma, 12/12/2009.
[14] Pigneau de Béhaine, THÁNH YẾU GIÁO LÝ: THIÊN CHÚA
KINH GIẢI ĐỆ THẬP NHỊ THIÊN, tr. 267-268. Nội dung viết bằng chữ Nôm, bài
tựa viết bằng chữ Hán, xuất bản lần đầu tại Trung Quốc, năm 1774. Bản dịch của
Cha Nguyễn Hưng, THÁNH GIÁO YẾU LÝ, Lưu hành nội bộ, TP.HCM, 1977, tr.
207-208.
[15] Cước chú trang 71 KT. TÂN ƯỚC của Nhóm CGKPV
2008.
[16] Tertullianô, De Oratione, 1,6: CCL 1,2588 - PL 1,1255.
[17] Roland Jacques, CÁC NHÀ TRUYỀN GIÁO BỒ ĐÀO NHA VÀ
THỜI KỲ ĐẦU CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM (sách song ngữ), Quyển I, Định
Hướng Tùng Thư, Reichstett, France, 2004, tr. 375-377.
[18] x. Roland Jacques, Sđd., tr.
377: Bản chép tay dường như vô tình bỏ sót chữ “làm”.
[19] Cao Vĩnh Phan, NĂM 2000 ĐỌC VÀ HỌC KINH THÁNH
- QUA CÁC BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT, Ronéo, TP.HCM, 2000, tr. 190-191: Bản Kinh
Lạy Cha viết tay bằng chữ Hán Nôm.
[20] Cao Vĩnh Phan, sđd., tr. 192-195: Hai bản Kinh Lạy Cha
in bằng chữ Hán Nôm năm 1869 và 1926.
[21] Cao Vĩnh Phan, sđd., tr. 234: Bản Kinh Lạy Cha của một
số linh mục, tu sĩ Công giáo và Tin lành.
[22] Trần Phúc Nhân, MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CUỐN NGHI THỨC
THÁNH LỄ 2005, số 124, tr. 98.
[23] Cao Vĩnh Phan, sđd., tr. 235.
[24] Jean Carmignac, sđd., tr. 27-28.
Lm. Stêphanô
Huỳnh Trụ
(truyenthongconggiao.org Cập nhật:
29/07/2011 - 16:15:13)