TÍN NGHĨA
Khoa học kỹ thuật tiến bộ rất nhanh
trong thế kỷ này, nên đời sống vật chất cũng được cải thiện rất nhiều. Nhưng
xem ra đời sống vật chất càng tiến bộ, thì nền đạo đức và quan hệ giữa người
với người càng xấu đi. Nhất là làm cho mọi người mất niềm tin với nhau, trong
lãnh vực thương nghiệp, giáo dục và cả tôn giáo nữa. Nên chữ “tín” rất quan
trọng. Đặc biệt là tín nghĩa.
1. Tín và nghĩa
1.1. Tín: Có 3 chữ tín: 信, 囟, 顖. Trong từ tín nghĩa, tín viết là
信. Chữ này là chữ hội ý[1],
gồm bộ nhânイvà chữ ngôn言. Ý nguyên thủy là chân tâm thành ý, chuyên tâm không thay đổi.
Thuyết Văn Giải Tự của Hứa Thận nói: “Trực ngôn viết ngôn, luận nan viết ngữ”
(Trong lòng có gì, trực tiếp nói ra là ngôn, mà lời phải lý luận biện hộ vặn
hỏi thì gọi là ngữ). Nên Pháp Ngôn Nghĩa Sơ - Vấn Thần nói: “Ngôn, tâm
thanh dã” (Lời là tiếng nói của con tim). Tín có nghĩa là: dt.
(1) Tin, không sai lời hay là biết tin cậy lẫn nhau và giữ lòng tin cậy của kẻ
khác đối với mình. Một trong năm đức tốt (ngũ thường) của con người theo luân
lý phương Đông: (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín): chữ tín, thành tín, thất tín,
trung tín; nhân vô tín bất lập. (2) Bằng chứng: ấn tín. (3) Tin tức:
thư tín. (4) Người đưa thơ: tín sử. (5) Ngòi nổ: tín quản.
(6) Họ Tín. (7) Một hợp chất độc: thạch tín (Arsenic). đt. (8)
Lòng tin: tín ngưỡng. (9) Nghe theo: thâm tín bất nghi (hoàn
toàn nghe theo, không nghi ngờ). trt. (10) Thuận miệng: tín
khẩu khai hà (thuận miệng nói đại). (11) Quả thật: thủ ngữ tín
nhiên (lời này quả thật).
1.2. Nghĩa: Chỉ có một chữ義 (义), nghĩa là: dt. (1) Điều phải
hay là cách xử sự phải đường, hào hiệp. Một trong năm đức tốt (ngũ thường) của
con người theo luân lý phương Đông (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín): tiết nghĩa,
trung nghĩa, nghĩa cha con, nghĩa vua tôi, nghĩa thầy trò, nghĩa vợ chồng,
nghĩa bậu bạn. Duyên phải duyên kim cải, nghĩa phải nghĩa giao hoà. (2) Đạo
lý: nghĩa chính từ nghiêm (lý lẽ đúng, lời nói nghiêm túc). (3)
Tình thân ái: tình nghĩa. (4) Ý nghĩa: văn nghĩa (nghĩa văn).
(5) Hợp lý: nghĩa bất dung từ (việc hợp lý không thể chối từ).
(6) Họ Nghĩa. tt. (7) Làm việc không có ý riêng về mình: nghĩa sư (quân
đi vì nghĩa, không phải vì lợi mà sát phạt) (8) Cùng chung: nghĩa thương
(cái kho chung). (9) Cứu trợ: nghĩa học (trường dạy không phải
đóng học phí). (10) Làm việc vì người: nghĩa hiệp. (11) Nhận làm
thân thích: nghĩa tử (con nuôi). (12) Nhân tạo: nghĩa chi
(tay chân giả).
2. Tín nghĩa
Tín nghĩa là đức tính trung thành trước
sau như một đối với lẽ phải, đối với chính nghĩa. Đó là lòng chung thuỷ và
trung thành hay lòng thành thật và óc hiếu nghĩa.
Thời xưa chưa có
giấy, tất cả mọi việc, như truyền đạt kinh nghiệm, kỷ năng, giáo dục, hay giao
tiếp, đều phải dựa vào lời nói, nên chữ tín tạo thành
bởi bộ nhânイvà và chữ ngôn言: Lời nói của con người là tín, là điều đáng tin cậy. Theo Đạo
giáo, đức tín của con người, như: đạo, đức, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, có quan
hệ trên dưới. “Lão Tử”[2]
chương 38 nói: “Cố thất đạo nhi hậu đức, thất đức nhi hậu nhân, thất nhân
nhi hậu nghĩa, thất nghĩa nhi hậu lễ. phù lễ giả, trung tín chi bạc, nhi loạn
chi thủ”. Nghĩa là: Nếu mất đạo mới có đức, mất đức mới có nhân, mất nhân
mới có nghĩa, mất nghĩa mới có lễ. Cái gọi là lễ, là do thiếu trung tín, đây
chính là nguyên nhân của bạo loạn. Nên căn bản là tín, tín là nền tảng của
“Đạo”. Lễ Vận, Đại Đồng Thiên[3]
nói: “Đại đạo chi hành dã, thiên hạ vi công, tuyển hiền dữ năng, giảng tín
tu mục”, nghĩa là: Gọi là Đạo, là lý tưởng cuộc sống của con người: ngoài
việc đức hạnh tài năng hơn người, chính trị gia còn phải có đặc tính nhân phẩm
thành thật (tín) và hoà thuận với mọi người. Hữu Tử, học trò của Khổng Tử, nói:
“Tín cận ư nghĩa, ngôn khả phức dã” (Việc hứa với người ta, phải gần với
nghĩa, mới có thể thực hiện lời nói đó). Ngược lại, nếu lời hứa không hợp với
lễ nghĩa, dù đã hứa cũng chẳng thực hiện được.
Chúa Giêsu đã nói: “Hễ
‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì
là do ác quỷ” (Mt 5,37). Lời nói hay chữ tín là một vấn đề lớn, Chúa Giêsu
đưa ra một nguyên tắc rất đơn giản: Luôn phải giữ lấy chữ tín.
Nghĩa chính là việc
chính đáng, thông thường gọi là đạo nghĩa. Tương đương vói chữ Hy Lạp “deon”,
nghĩa là thích đáng, trách nhiệm. Hành vi của con người phải tuân theo tính
chính đáng, không chú trọng hậu quả của hành vi, mà chú trọng quy tắc, tiêu chuẩn,
trọng tâm là nghĩa vụ và trách nhiệm. Nghĩa là một hành vi đúng hay sai,
không quyết định bởi hậu quả của hành vi, mà bởi động cơ và quy tắc, chú trọng
đến động cơ của hành vi “thiện” hay không, và hành vi đó có thể hiện tiêu chuẩn
đạo nghĩa đã dự định không.
Giữ lấy chữ tín,
nhưng cũng cần giữ lấy việc đạo đức. Tử Cống hỏi Khổng Tử thế nào mới là “sĩ”[4],
Khổng Tử nhắc đến ba hạng người, mà hạng cuối cùng là: “Ngôn tất tín, hành
tất quả. Khanh khanh nhiên tiểu nhân tai”[5]
(Lời nói trung thực, làm việc có kết quả, cũng chỉ là tiểu nhân thôi). Tại sao
Khổng Tử nói như thế, vấn đề tại chữ “nghĩa”. Mạnh Tử nói: “Đại nhân dã,
ngôn bất tất tín, hành bất tất quả, duy nghĩa sở tại”[6]
(Người đức hạnh hoàn bị (đại nhân) không nhất thiết thực hành lời đã nói, làm
việc không nhất thiết phải có kết quả, tất cả phải dựa vào đạo nghĩa). “Nghĩa”
đồng nghĩa với thích hợp. Sự việc thích hợp với hoàn cảnh hôm nay, không nhất
thiết thích hợp ngày mai. Một việc thích hợp trong hoàn cảnh A, không nhất
thiết thích hợp trong hoàn cảnh B. Sách Trang Tử cũng nhắc đến một người tên là
Vĩ Sinh, rất chú trọng chữ tín. Ông hẹn gặp một cô gái dưới gầm cầu, nhưng
không may, gặp nước lụt, ông ôm cột cầu không chịu đi, vì đã hẹn gặp tại gầm
cầu, kết quả là ông bị chết đuối. Trí tuệ của Nho giáo là linh động, nghĩ đến
các tình huống thay đổi. Chữ “dịch” trong “Kinh Dịch” chính là thay đổi. Trong
khả năng biến chuyển, người ta phải tìm ra quy tắc bất biến và phối hợp với
hoàn cảnh cụ thể, mới đưa ra lưa chọn. Nghĩa là ta phải chân thành, giao thiệp
với người khác bằng trái tim chân thành, nhưng cũng cần xem xét hoàn cảnh cụ
thể. Đó là tín nghĩa của nhà Nho.
Thời Đông Hán, Trương Thiệu ở quận Như
Nam và Phạm Thức ở quận Sơn Dương cùng học ở kinh thành Lạc Dương. Khi kết thúc
thời gian học tập, họ chia tay nhau. Trương Thiệu đứng ở đầu đường nhìn chim
nhạn bay trên bầu trời nói: “Hôm nay chia tay, không biết đến bao giờ gặp
lại” vừa nói vừa khóc. Phạm Thức kéo tay Trương Thiệu, khuyên rằng: “Người anh
em, chớ có đau lòng. Mùa thu hai năm sau, tôi nhất định sẽ đến nhà anh thăm hỏi
cha mẹ anh, cùng anh hội ngộ”.
Hai năm sau, mùa thu đã đến, lá rơi xào
xạc, hoa cúc nở rộ. Trương Thiệu tự nhiên nghe thấy tiếng chim nhạn kêu trên
trời, tâm tư thay đổi, bất giác tự nhủ: “Anh ấy sắp đến rồi”. Nói xong liền
quay về nhà, nói với mẹ: “Mẹ ơi, vừa lúc nãy con nghe thấy tiếng chim nhạn
kêu. Phạm Thức sắp đến rồi, chúng ta chuẩn bị thôi”. Mẹ anh không tin, lắc
đầu than vãn: “Ngốc ạ, Sơn Dương cách đây hàng nghìn dặm, Phạm Thức làm sao
mà đến được”. Trương Thiệu nói: “Phạm Thức là người chân thành, thật
thà, giữ chữ tín, anh ấy không thể không đến”. Mẹ già đành phải nói: “Được
rồi, nó sẽ đến. Mẹ đi chuẩn bị rượu thịt đây”. Thực ra, mẹ Trương Thiệu
không tin, chỉ sợ con trai đau lòng, nên an ủi mà thôi.
Ngày hẹn đã đến, Phạm Thức quả nhiên
đến. Bạn cũ trùng phùng, nồng ấm khác thường. Mẹ Trương Thiệu cảm động lau nước
mắt và nói: “Thiên hạ thực sự có người bạn giữ lời hứa đến thế sao?”
Câu chuyện về Phạm Thức giữ lời hứa luôn
được hậu thế truyền tụng noi gương. (Hậu Hán Thư).
3. Tín nghĩa trong Thánh Kinh
Có một câu Thánh
vịnh thường đọc và nghe cũng êm tai: “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ,
hoà bình công lý đã giao duyên” (Tv 85,11). Tín nghĩa ở đây, tiếng Latinh
là veritas. Còn nhiều chỗ nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ hay dịch veritas là
tín nghĩa. Xin xem bản đối chiếu:
|
Vulgata |
Cố Chính Linh |
Ng. Thế Thuấn |
CGKPV |
Tv 61,8 |
sedebit semper ante faciem Dei misericordia
et veritas servabunt eum |
Vua được bền đỗ trước mặt Chúa đời
đời, ai thấu suốt nhân từ, chân thật Chúa? |
Ngự trị mãi mãi trước mặt Thiên Chúa, ân
nghĩa cùng sự thật hãy hộ vệ ngài |
Hiển trị muôn đời trước Nhan Thánh,
được ân tình tín nghĩa chở che |
Tv 85,11 |
misericordia et veritas occurrerunt iustitia et pax deosculatae sunt |
Nhân từ và chân thật gặp lẫn nhau; công chính và hoà thuận hôn mặt nhau. |
Ân nghĩa, tín thành cùng nhau hội ngộ, công chính bình an áp má hôn nhau. |
Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên. |
Tv 85,12 |
veritas de terra orta est et iustitia de caelo prospexit |
Chân thật bởi đất mọc lên Công chính bởi lời soi xuống |
Từ đất tín thành nẩy mầm, từ trời công chính đoái lại |
Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao. |
Tv 89,15 |
iustitia et iudicium firmamentum
throni tui misericordia et veritas praecedent faciem tuam |
Công chính và lý đoán là nền tòa Chúa; nhân từ và chân thật đi trước mặt Người |
Chính trực, công minh là bệ ngai
Người, ân nghĩa sự thật đi trước nhan Người. |
Bệ ngai vàng: này công minh chính
trực, quân tiền phong: đây tín nghĩa ân tình |
Tv 98,3 |
recordatus est misericordiae suae
et veritatis suae domui Iacob |
Chúa nhớ lại nhân từ Người; và chân thật Người vuối nhà |
Ơn nghĩa và lòng trung tín của Người, Người đã nhớ lại cho nhà |
Người đã nhớ lại ân tình và tín
nghĩa dành cho nhà Ít-ra-en. |
Cn 3,3 |
misericordia et veritas non te deserant circumda eas gutturi tuo et describe in tabulis
cordis tui |
Nhân từ chân thật chớ lìa khỏi con; hãy đeo nó vào cổ con, ghi nó trong
bia lòng con |
Chớ gì trung tín và tín nghĩa không
rời bổ con! Con hãy đeo chúng nơi cổ, viết chúng trên phiến lòng con. |
Ước chi ân tình và tín nghĩa
chẳng hề lìa xa con, nhưng nên như vòng con đeo vào cổ, và
được con ghi khắc tận đáy lòng |
Thật ra tín nghĩa
không diễn tả được ý nghĩa của chữ veritas. Veritas thường được dịch là chân
lý, sự thật, là luật tự nhiên tối cao, tồn tại cách khách quan, giúp con người
có niềm tìn vào quy luật tuyệt đối của tự nhiên, là quy luật tối cao của hành
vi con người. Tuy định nghĩa về veritas còn nhiều tranh cải, nhưng người Công
giao xem Thiên Chúa là Veritas tuyệt đối.
4. Kết luận
Nho giáo rất chú trọng tín nghĩa,
giải thích cũng nhiều, nhưng hoàn toàn khôn ngoan theo kiểu nhân loại, thực
dụng, nên họ cho rằng người giữ chữ tín một cách cứng cỏi chỉ là hạng sĩ
thứ ba. Hay nói cách khác, họ theo kiểu luân lý hoàn cảnh. Người Công giáo
trước tiên giữ chữ tín với Thiên Chúa, từ đó cũng luôn giữ tín
với người khác. Đó chính là lòng trung thành phải có, nhưng không phải là môt
chân lý (veritas), nên veritas không thể dịch là tín nghĩa được.
[1] Gọi là hội ý tức chọn
hai chữ (đồng âm) có liên quan sự lý cấu thành một chữ phối hợp ý nghĩa để dẫn
ra được nghĩa của chữ mới, ví dụ: vũ 武, tín 信 là loại chữ hội ý.
[2] Còn gọi là Đạo Đức
Kinh (772 – 476 TCN).
[3] Khổng Tử (551-479
TCN), Lễ Ký quyển 7, Lễ Vận 9.
[4] Thành phần trí thức
trong xã hội thời xưa.
[5] Luận Ngữ, Tử Lộ.
[6] Mạnh Tử, Ly Lâu Hạ.
(truyenthongconggiao.org Cập
nhật: 26/08/2011 - 11:15:57)