Phan Tấn Thành
Qua
việc phân tích những song đối eros-agape, caritas-veritas,
caritas-iustitita, bài này muốn trình bày thần học về caritas chi phối lãnh vực
tín lý cũng như luân lý, bởi vì liên quan đến niềm tin vào Thiên Chúa và Hội
thánh.
Tựa
đề có thể gợi lên nhiều ý tưởng.
Dưới
khẩu hiệu Veritas, các tu sĩ dòng Đa Minh, - những chiến sĩ bảo vệ đức tin
(pugiles fidei) -, lắm lần trở thành những “chó săn lùng bắt quân rối đạo”
(Domini canes), điển hình là các Tòa Tra (Inquisitio) [1], và không còn phản
chiếu khuôn mặt dịu hiền của Thiên Chúa Tình yêu nữa. Trong bối cảnh này, nét
mặt tươi vui của thánh Martinô ra như nhắc nhở họ rằng đối với Chúa, điều quan
trọng trên hết là Caritas, như đã được ca ngợi ở chương 13 của thư thứ nhất gửi
Corintô; và thánh Tông đồ cũng khuyên nhủ hãy “bảo vệ chân lý trong tình bác
ái” (Ep 4,15). Thực ra dung hòa veritas với caritas không phải là chuyện
đơn giản. Nếu đã có lúc người ta nhiệt thành chiến đấu cho veritas đến nỗi bỏ
quên caritas, thì cũng không thiếu lần người ta nhân danh caritas để bịt miệng
veritas.
Tuy
nhiên, chúng ta có thể đặt câu hỏi một cách khác: “sự thật” (veritas) về
caritas ra sao? đâu là những cuộc tranh luận thần học về caritas vào thời nay?
Đó là điều mà chúng tôi muốn tìm hiểu trong bài này.
Trước
khi vào vấn đề, nên ghi nhận một khó khăn trong việc chuyển dịch danh từ
Caritas sang Việt ngữ. Trong khung cảnh kỷ niệm thánh Martinô, caritas
tất nhiên gợi lên ý tưởng “bác ái”, và cụ thể hơn nữa là các cơ quan Caritas
được thiết lập tại mỗi giáo phận. Đây cũng là ý nghĩa tương đương với charité
(Pháp) hoặc charity (Anh). Thế nhưng khi bước sang lãnh vực các nhân đức đối
thần, thì caritas được dịch là “đức mến” (Tin - Cậy - Mến), mặc dầu đoạn văn
nổi tiếng của chương 13 thư thứ nhất gửi Corintô thường được đặt tên là “bài ca
đức ái”; đến khi dịch câu văn “Deus caritas est” thì phải viết là “Thiên Chúa
là tình yêu”. Như vậy, cùng một từ caritas nhưng phải tuỳ theo mạch văn mà
dịch: bác ái, đức mến, đức ái, tình yêu.
Nhận
xét vừa rồi cho thấy rằng caritas mang nhiều bộ mặt, và từ đó “thần học về
caritas” cũng gồm nhiều khía cạnh. Thông thường, caritas được bàn trong thần
học luân lý như là một nhân đức đối thần [2]; nhưng trong thông điệp Deus
caritas est, đức thánh cha Bênêđictô XVI đã cho thấy rằng tiên vàn caritas là
một chuyện “tín lý” bởi vì liên quan đến việc mạc khải bản tính Thiên Chúa; hậu
nhiên, nó cũng định nghĩa bản chất Kitô giáo hoặc Hội thánh và định hướng toàn
thể hoạt động của Hội thánh.
Chúng
tôi sẽ phân tích những khía cạnh khác nhau của caritas qua vài chủ đề đối lập:
eros - agape; caritas - veritas; caritas - iustitia, được gợi lên trong hai
thông điệp của đương kim Giáo hoàng [3]. Đây là những đề tài nằm ở trọng tâm
của đức tin Kitô giáo.
I.
Eros - Agape
Tiếng
Việt rất phong phú trong ngôn ngữ diễn tả tình cảm: yêu, thương, mến, chuộng,
thích, mê, ham, cùng với những từ ghép: yêu thương, yêu mến, yêu quý, yêu chuộng,
thương yêu, thương xót, thương hại, vv. Tất cả những từ vừa rồi đều có thể dịch
sang tiếng Anh là love. Tuy nhiên, trong tác phẩm The Four Loves (1960),
ông Clive Staples Lewis đã lưu ý rằng Kinh thánh xử dụng bốn từ ngữ khác
nhau để diễn tả tình yêu: storge, philia, eros, agape. Một cách chính xác hơn,
agape là một thuật ngữ do các tác giả Tân ước đã tạo ra nhằm diễn tả nét đặc
trưng của Kitô giáo, bởi vì những từ eros và philia không thích hợp với Thiên
Chúa [4]: agape được dùng 117 lần trong Tân ước, nhưng chỉ gặp thấy 1 lần trong
văn chương Hy-lạp (Oxyrhynchus Papyri, thế kỷ II sau Công nguyên).
Thế
rồi, từ nét độc đáo của tình yêu Kitô giáo, nhà thần học Anders Nygren
(1890-1974) đã đi đến kết luận là agape loại trừ tất cả mọi thứ tình yêu phàm
tục khác, kể cả các tôn giáo. Theo tác giả cuốn sách Eros và Agape [5],
các tôn giáo diễn tả nỗ lực của con người muốn vươn lên Thiên Chúa như là
Nguyên uỷ và Hạnh phúc (eros); Kitô giáo mạc khải cho biết Thiên Chúa đã xuống
thế làm người và ban ơn cứu chuộc nơi thập giá Đức Kitô. Sự cứu độ là một ân
huệ được trao ban cho con người (agape), và con người cần đón nhận bằng đức
tin, chứ không dựa vào công trạng của mình.
Có
lẽ tác giả không ngờ rằng tác phẩm đã gây ra một cuộc tranh luận sôi nổi không
chỉ trong nội bộ của Kitô giáo mà còn trong tương quan với các triết học và tôn
giáo ngoài Kitô giáo nữa. Trước hết, chúng ta sẽ nghiên cứu những ý kiến chủ
trương sự tương khắc giữa eros và agape; kế đến là những ý kiến chủ trương hai
ý niệm đó có thể dung hòa.
A.
Sự tương khắc giữa eros và agape
Nói
đúng ra, luận đề của Anders Nygren nằm trong hệ thống tư tưởng của
Lutêrô: ông này đề cao địa vị độc tôn của ơn thánh trong kế hoạch cứu độ của
Thiên Chúa, loại bỏ sự cộng tác của con người: solus Deus, sola gratia, sola
fides. Như đã biết, lối giải thích triệt để này đã từng gây ra những hiểu lầm
ngay từ thời các thánh tông đồ, buộc lòng thánh Giacôbê phải phản ứng: đức tin mà
không có hành động là đức tin chết (Gc 2,14-26).
Vào
thời nay, cuộc tranh luận xoay qua hướng khác, nhắm thẳng vào tình yêu [6].
1.
Ong Nygren cho rằng Tân ước đã tẩy chay eros [7] khi tạo ra một thuật ngữ mới
agape. Lòng yêu mến của Kitô giáo thanh tao, chứ không mang theo tình cảm xúc
động.
2.
Trong thực hành, không thiếu nhà tu đức cũng chấp nhận như vậy. Đức mến thì
“siêu nhiên” hoàn toàn vị tha, dựa trên nền tảng đức tin, khác biệt với những
tình cảm “tự nhiên”. Các vị thánh là những người “siêu thoát”, không còn bịn
rịn với tình cảm nữa. Do đó các nhà tu hành hãy cố gắng làm chủ cảm xúc, luôn
tỏ ra bộ mặt “lạnh như tiền”.
3.
Ở thái cực đối nghịch, nói đến “tình yêu”, người thời nay thường hiểu về eros,
nghĩa là “ái tình, yêu đương”, tìm cách khai thác cảm xúc đến cực độ: eros gắn
với erotic (tình dục), yêu say đắm, cuồng loạn, nhưng lại khó chấp nhận những
khước từ, hy sinh.
Như
vậy việc tách rời eros và agape có thể dẫn đến hệ luận là tách biệt “đời” ra
khỏi “đạo”: tình yêu vợ chồng chỉ là chuyện nhục dục chứ không thể nào là thánh
thiêng; đối lại tình yêu siêu nhiên không màng đến những chuyện thế sự.
B.
Sự tương hợp giữa agape và eros
Trong
tác phẩm vừa kể, Nygren cho rằng lịch sử Kitô giáo đã “lạc hướng”, nghĩa là
không nắm bắt được sự mới mẻ của Tân ước; vì vậy (đừng kể Lutêrô) đa số các học
giả đều tìm cách liên kết agape với eros. Kể từ các tác giả thần bí tựa như
Pseudo-Dionisius Areopagita [8] cho đến thánh Augustinô ở thời giáo phụ, rồi
thánh Bernađô cũng như thánh Tôma và Bonaventura thời Trung cổ: tất cả
những người này đã khẳng định rằng chúng ta có thể yêu mến Chúa đáp lại lòng
Chúa yêu thương ta.
Trong
thông điệp Deus caritas est (viết tắt DCE), đức Bênêđictô XVI lập luận một cách
khác: tuy Kinh thánh khẳng định Thiên Chúa là agape, nhưng không
ngần ngại áp dụng những nét cảm xúc khi diễn tả tình yêu của ngài. Thiên Chúa
là nguồn mạch yêu thương đã yêu thương con người với tình yêu nhân loại: tình
yêu cao thượng (từ trên xuống) được nối kết với tình yêu nhân loại (từ dưới
lên).
Sở
dĩ Tân ước (và các giáo phụ tiên khởi) không dùng từ eros bởi vì vào thời ấy,
danh từ này được hiểu theo nghĩa xấu (dâm dục), chứ Tân ước không loại bỏ tình
yêu tự nhiên. Có thể nói ngược lại như thế này: Tân ước áp dụng từ agape không
chỉ riêng cho tình yêu của Thiên Chúa cho con người, mà còn áp dụng cho cả tình
yêu của con người với Thiên Chúa cũng như tình yêu giữa con người với nhau (DCE
số 7-9). Nói khác đi, tình yêu tự nhiên (eros) đã được chữa lành nhờ agape .
Dù
sao, sự liên kết agape với eros không chỉ dừng lại ở lãnh vực “luân lý” [9]
nhưng còn đi xa hơn nữa, bởi vì liên quan đến bản tính của Thiên Chúa, như
thánh Gioan đã nhận thấy và thốt lên: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,16).
C.
Thiên Chúa là tình yêu
Ngôn
ngữ nào cũng có những kiểu nói hàm hồ. Lời khẳng định của Tân ước “Thiên Chúa
là tình yêu” có thể bị lật ngược lại thành “Tình yêu là Thiên Chúa”. Một cách
tương tự như vậy, “Tình yêu Thiên Chúa” vừa có thể hiểu là “Tình yêu của Thiên
Chúa dành cho con người”, hoặc “Tình yêu của con người đối với Thiên Chúa”.
Các
nhà tu đức (và giảng thuyết) thường nhắc nhớ bổn phận của con người phải yêu
mến Chúa, nhưng có lẽ ít khi nêu bật tình thương mà Thiên Chúa đã dành cho con
người, và lại càng không dám đụng đến tình yêu nơi chính Thiên Chúa. Tuy nhiên,
cần phải khởi đầu từ chỗ này. Tình yêu của Thiên Chúa dành cho thụ tạo (và nhân
loại) thì đến sau Tình yêu nội tại của Thiên Chúa: tình yêu tạo dựng trào ra từ
tình yêu sung mãn dạt dào giữa Ba ngôi Thiên Chúa. Dĩ nhiên tình yêu của Thiên
Chúa đối với chúng ta thì đi trước tình yêu của chúng ta đối với ngài (xc. 1Ga
4,10.19).
1/
Bản tính Thiên Chúa
Mỗi
lần nghe nói đến Ba ngôi Thiên Chúa, người ta liền nghĩ đến một “mầu nhiệm”
(theo nghĩa là: bí ẩn, không hiểu nổi): Thiên Chúa là ba ngôi vị trong một bản
tính duy nhất. Tuy nhiên, thánh Augustinô đã đề ra một lối tiếp cận khác, đó là
“tình yêu”. Thiên Chúa ba ngôi có nghĩa là Thiên Chúa yêu thương. Thiên Chúa
không phải là kẻ cô độc lẻ loi, nhưng là Kẻ Yêu thương. Thiên Chúa yêu thương
Lời của Người; Thánh Linh chính là Tình yêu giữa Cha và Lời. Vì thế không lạ gì
mà thánh Augustinô đã viết: “nếu bạn thấy tình yêu thì bạn thấy Tam vị” [10].
Thiên
Chúa là Tình yêu. Tình yêu là bản tính của Thiên Chúa. Tất cả những hoạt động
của Thiên Chúa biểu lộ bản tính của ngài là tình yêu, từ công cuộc tạo dựng (vũ
trụ, nhân loại cũng như mỗi người) cho đến công cuộc cứu chuộc (khi Con Thiên
Chúa đến cư ngụ giữa loài người, và hiến mạng cho loài người).
2/
Mạc khải tình yêu
Để
mạc khải tình yêu này, Thiên Chúa không ngần ngại xử dụng ngôn ngữ tình yêu của
loài người: tình cha (xc. Gr 21,30), tình mẹ (xc. Is 49,75; Hs 11,1-4), và đặc
biệt là tình vợ chồng. Nhiều ngôn sứ so sánh tình yêu của Thiên Chúa đối với
Israel như mối tình phu thê: ngài “ghen” thì thấy dân này chạy theo các “tình
nhân” khác (nghĩa là các thần linh khác: Xh 34,14; Hs 2,4tt); cách riêng sách
Diễm tình đã được đưa vào bộ Sách Thánh. Nói khác đi, những mối tình cao đẹp
của con người đã được áp dụng cho tình yêu của Thiên Chúa, cũng như áp dụng cho
tình yêu của con người đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn cho chúng ta yêu mến
ngài, nghĩa là có phần chủ động chứ không chỉ thụ động nhận lãnh (xc. DCE số
9-11).
3/
Tình yêu nhập thể
Tình
yêu của Thiên Chúa dành cho con người đạt đến cao điểm nơi mầu nhiệm Nhập Thể:
nơi Đức Kitô con người có thể cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa dành cho
nhân loại (Rm 8, 39): đức Kitô đã yêu thương với một trái tim con người. Tuy
nhiên, cũng có nói ngược lại, nơi đức Kitô, Thiên Chúa gặp được một đối tác cân
xứng với tình yêu vô biên của ngài. Như vậy, nơi đức Kitô, tình yêu của con
người đạt đến tầm mức vô biên: Thiên Chúa có thể yêu con người cách vô biên, và
con người có thể yêu Thiên Chúa cách vô biên. Thiên Chúa yêu con người cách vô
biên bởi vì Ngài yêu con người với tình yêu đối với Con của Ngài. Con người yêu
Thiên Chúa cách vô biên nhờ tình yêu mà Thần khí đức Kitô được đổ tràn vào tâm
hồn chúng ta (Rm 5,5; 1 Ga 4,13). Thần khí ở lại trong chúng ta và kết nạp
chúng ta vào tình yêu của Cha và Con (xc. Ga 14,23).
D.
Tin vào tình yêu
“Các
con hãy yêu thương nhau như Thầy đã thương yêu các con” (Ga 15,12; 1 Ga 4,11).
Thoạt tiên, xem ra đối với người Kitô hữu, yêu mến thuộc lãnh vực hành động
(luân lý); tuy nhiên, từ những điều vừa nói trên đây, tình yêu cần được xếp
vào lãnh vực “tín lý”, như thánh Gioan tông đồ đã viết: “chúng ta đã biết
tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và chúng ta đã tin vào tình yêu đó” (1 Ga
4,11). Lý do là bởi vì chân lý về tình yêu liên quan đến bản tính Thiên Chúa.
Đối với Kitô giáo, tin vào Thiên Chúa không chỉ có nghĩa là tin rằng ngài hiện
hữu mà còn tin rằng ngài là Tình yêu. Thiên Chúa là tình yêu có nghĩa là Thiên
Chúa không phải là kẻ cô độc, nhưng là kẻ yêu thương ngay từ trong nội tại (Ba
Ngôi) cũng như trong mọi hoạt động (tạo dựng và cứu chuộc). Tin vào Thiên Chúa
là tình yêu không phải là chuyện dễ khi phải đụng chạm với vô số những đau khổ,
bất công trên đời. Nhưng thánh Phaolô quả quyết: “Ai có thể tách chúng ta ra
khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm
nguy, bắt bớ, gươm giáo?... Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng
nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,35.37). Nên lưu ý là thánh Phaolô không
thách thức: “ai có thể làm cho tôi xa lìa Đức Kitô?”, nhưng xác tín ngược lại:
“tình yêu của Đức Kitô không bao giờ rời bỏ tôi kể cả vào lúc gặp gian nan thử
thách”. Ông viết như sau: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của
Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,39).
II.
Caritas - Veritas
Nếu
caritas nằm trong lãnh vực “tín lý” bởi vì liên quan đến bản tính của Thiên
Chúa, thì hẳn đây là một “chân lý” căn bản của Kitô giáo cần phải bảo vệ. Thực ra khi ghép hai từ
“caritas” với “veritas”, nhiều phương thức đã nảy ra: caritas veritatis;
caritas vera; caritas in veritate; veritas in caritate. Chúng ta hãy điểm qua
nội dung các phương thức đó.
A. Caritas veritatis
Phương thức này có thể
hiểu theo nhiều nghĩa.
1/ Cha Hyacinte Marie
Cormier O.P. (1832-1916) đã chọn khẩu hiệu caritas veritatis khi được bầu làm
bề trên tổng quyền. Phương châm được hiểu như thế này: rao giảng chân lý là một
hình thức bác ái cao quý nhất [11]. Con người có nhu cầu ăn uống, nhưng cũng có
nhu cầu tìm hiểu sự thật. Dòng Giảng thuyết đã chọn hình thức phục vụ tha nhân
bằng cách thông truyền Chân lý.
2/ Yêu nhau là nói cho
nhau biết sự thật. Có thể coi điều này như là hệ luận của phương châm trên đây,
và được đức Bênêđictô XVI khai triển trong Sứ điệp Mùa chay năm 2012: một hình
thức quan trọng của đức bác ái là “sửa lỗi huynh đệ”, dựa theo những lời Kinh
thánh Cựu ước và Tân ước (Mt 18, 15; Cn 9,8 tt; Gl 6,11). Đây không chỉ là một
lời khuyên răn, nhưng đôi khi còn là một nghĩa vụ.
3/ Một ý nghĩa thứ ba
được đức thánh cha Gioan Phaolô II trưng dẫn trong tông huấn Redemptoris custos
(về thánh Giuse) [12] dựa theo tư tưởng của thánh Augustinô, bàn về sự giằng co
giữa chiêm niệm và hoạt động. Thánh nhân đối chọi giữa caritas veritatis với
necessitas caritatis. “Caritas veritatis” được hiểu là yêu mến chân lý (ưa
thích học hỏi Chân Lý là Đức Kitô, dẫn đến việc tiếp xúc thân mật với Chúa).
“Necessitas caritatis” là những đòi hỏi của lòng yêu mến mục tử, do đức ái thúc
đẩy phục vụ tha nhân. Đó là hai chiều kích của đức ái, nhiều khi xem ra đối
nghịch nhưng có thể kết nối được: một đàng là tìm kiếm Chúa Kitô trong thinh
lặng và cầu nguyện, một đàng là phục vụ Chúa Kitô nơi tha nhân (xc. Summa
Theologica, II-II, q.182, a.1, ad 3, được trưng dẫn trong bản văn). Như vậy,
caritas veritatis đồng nghĩa với amor veritatis: lòng yêu mến chân lý.
B. Caritas vera (hoặc:
vera caritas)
Công thức này có thể
dịch sát nghĩa là “tình yêu chân thực”; nhưng trên thực tế, có thể được hiểu
theo nhiều nghĩa.
1/ Tình yêu “chân
thực”, đối lại với tình yêu “giả dối”.
Trong tương quan xã
hội, chúng ta đã nghe biết nhiều chuyện lường gạt nhau về tình hay về
tiền. Đó là một thí dụ về tình yêu giả dối; tuy nhiên Tân ước còn nói đến
tình yêu chân thực theo một nghĩa sâu xa hơn. Trong thư gửi Rôma, thánh Phaolô
viết: “Lòng bác ái không được giả hình, giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha
thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng
hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa”
(Rm 12, 9-11). Thánh Phaolô phát biểu lời khuyên dưới dạng tiêu cực: “tình yêu
không được giả hình, giả bộ” [13], nhưng các tác giả Kitô giáo đã sớm diễn tả
dưới dạng tích cực: “ubi caritas est vera, ibi Deus est” [14] (đâu mà tình yêu
chân thật thì Thiên Chúa ở đấy). Thế nào là tình yêu không giả hình, tình yêu
chân thật? Câu hỏi này đã gây ra khá nhiều cuộc tranh luận trong lịch sử thần
học liên quan đến những khía cạnh của đức ái, cách riêng là về trật tự trong
đức ái.
2/ Tình yêu chân thật:
yêu bằng hành động hay yêu trong lòng?
Một hoàn cảnh xảy ra
hằng ngày: khi gặp một người nghèo đói thì ta phải giảng cho họ về Thiên Chúa
là tình yêu, hay phải lo cho họ chén cơm manh áo? Câu trả lời quá rõ ràng: tình
yêu chân chính được diễn tả qua hành vi cụ thể chứ không phải chỉ dừng lại ở
đầu môi chót lưỡi (xc. 1Ga 3, 17-18; Gc 2,15-16).
Thế nhưng sự thật không
đơn giản như thế! Có bao nhiêu đại gia làm việc từ thiện để được quay phim chụp
hình; như vậy đâu có phải là tình yêu chân thật! Nói khác đi, đức ái chân thật
phải bắt đầu từ trong tim, rồi sau đó mới diễn tả ra hành động. Người ta lưu ý
rằng trong “bài ca đức ái”, thánh Phaolô liệt kê rất nhiều đức tính của “con
tim” chứ không đả động gì đến hành động: “đức ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không
ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm
tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác,
nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy
vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,4-7).
Nếu suy nghĩ kỹ, ta sẽ
thấy chẳng có gì mâu thuẫn cả. Trong đoạn văn này, thánh Phaolô đang nói đến
tình yêu agape chứ không phải bất cứ thứ tình yêu nào. Yêu chân thật là yêu với
trái tim của Thiên Chúa: yêu thương giống như Chúa yêu. Ở đâu có agape như vậy
thì ở đấy có Chúa hiện diện. Nếu thiếu agape thì dù có đem hết gia tài cơ
nghiệp mà bố thí thì cũng chẳng ích gì!
Dĩ nhiên tình yêu agape
(bắt nguồn từ con tim) phải phát sinh những hành vi cụ thể (xc. 2Cr 5,14: “Tình
yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi”), không những trên bình diện cá nhân mà thậm
chí trên bình diện cộng đoàn nữa, như sẽ nói sau.
3/ Tình yêu chân thật:
yêu tha nhân vì tha nhân, hay là yêu tha nhân vì Chúa?
Nhận xét vừa rồi đã cho
chúng ta câu trả lời: cần phải yêu tha nhân vì lòng mến Chúa. Thế nhưng vào
thời nay, một vấn nạn được nêu lên trong lãnh vực truyền giáo như thế này: ta
giúp người nghèo chỉ vì muốn giúp đỡ họ thực tình, hay còn vì muốn chiêu dụ họ
theo đạo? Phải chăng công việc từ thiện không còn nhằm đến phục vụ người nghèo,
mà chỉ là một dụng cụ tuyên truyền?
Nếu suy nghĩ kỹ về bản
chất của agape thì vấn nạn không khó trả lời. Chúng ta yêu người nghèo với
agape của Chúa: Chúa muốn điều tốt “toàn diện” cho con người (người nghèo), cả
linh hồn lẫn thể xác. Nếu ta dùng việc từ thiện để chiêu dụ người nghèo vào đạo
thì tình yêu của ta trở thành lệch lạc rồi, bởi vì ta muốn điều khiển người
nghèo theo ý muốn của ta, chứ không theo ý muốn (tình yêu) của Thiên Chúa (DCE
số 31).
C. Veritas in caritate
Cụm từ này, trích từ
thư gửi Ephêsô (4,15): “veritatem facientes in caritate”, đã được trưng dẫn hơn
một lần để Giáo hội tự vấn về vài biện pháp cứng rắn khi bảo vệ chân lý: có thể
cưỡng bách người khác phải chấp nhận chân lý không? Công đồng Vaticanô II trả
lời rằng: không được! Chân lý chỉ có thể ràng buộc bằng chính sức mạnh của
mình, chứ không bằng vũ lực bên ngoài [15].
1. Phải thú nhận rằng
đôi khi thực tế đặt ra những trường hợp nan giải. Trên đây, chúng ta đã chẳng
nói rằng yêu nhau là nói sự thật cho nhau, cho dù “nói thật mất lòng” đấy ư?
Hay là vì yêu thương mà ta không được dùng biện pháp cứng rắn? Giả như một
người cha có đứa con bỏ nhà đi hoang, thì thử hỏi: thế nào là yêu thương nó [16]?
Yêu thương là đi tìm kiếm nó (kể cả nhờ đến lực lượng công an), dẫn nó về
nhà, và nếu nó còn muốn trốn đi thì hãy xích nó lại? Hay là thương yêu đứa con
có nghĩa tôn trọng tự do của nó, chỉ biết ra cửa sổ ngồi khóc chờ ngày nó hối
hận trở về?
2. Tuy nhiên chúng ta
cũng có thể áp dụng cụm từ “veritas in caritate” vào một bối cảnh khác, đó là:
hãy trình bày chân lý trong sự kính trọng tha nhân, trong thái độ hoà nhã (1Pr
3,15-16). Chúng ta chia sẻ niềm tin của mình cho tha nhân vì yêu thương họ, chứ
không phải với tư cách trịch thượng của kẻ đã nắm chắc chân lý trong tay, muốn
lên mặt dạy đời!
D. Caritas in veritate
Đây là tựa đề của thông
điệp thứ ba của đức thánh cha Bênêđictô XVI Caritas in Veritate (viết tắt CV),
mang tính cách học thuyết xã hội, nhân dịp kỷ niệm thông điệp Populorum
progressio của đức Phaolô VI (về sự phát triển các dân tộc).
Tân ước chỉ có cụm từ
veritas in caritate (Ep 4,15) vừa trưng dẫn trên đây, chứ không nói đến caritas
in veritate. Đức Thánh Cha đảo ngược lại thứ tự để rồi đưa về tư tưởng nguyên
thuỷ.
Nội dung của thông điệp
CV bàn về những vấn đề xã hội, và cụ thể hơn nữa, vấn đề phát triển con người.
Điều này đòi hỏi một sự dấn thân để phục vụ tha nhân, cách riêng những người
nghèo cũng như những dân tộc nghèo. Tuy nhiên, hoạt động xã hội (bao gồm lãnh
vực kinh tế, chính trị) cần được hướng dẫn bởi chân lý về con người. Lý luận
xem ra mơ hồ, nhưng chúng ta có thể đưa ra một ví dụ như sau: nếu tôi gặp một người
đói thì tôi phải cho anh ăn cơm, bởi vì nó đáp ứng với sự cần thiết của anh lúc
này; giả như tôi biếu anh một cái máy vi tính thì không thể nói là tôi yêu anh
thực tình. Một cách tương tự như vậy, nhìn một cách tổng quát, hoạt động bác ái
cho một cá nhân hay một dân tộc cần phải đáp ứng với chân lý về sự phát triển
toàn diện con người. Con người có những nhu cầu thể xác nhưng cũng có những nhu
cầu tinh thần, cách riêng nhu cầu tôn giáo. Sự phát triển kinh tế cần tuân theo
những giá trị khách thể của trật tự mà Thiên Chúa đã thiết lập. Thông điệp CV
trình bày giáo huấn của Giáo hội về con người, về xã hội, về
nhân loại. Chúng ta sẽ lướt qua chiều kích xã hội của Tin mừng trong đoạn dưới
đây khi phân tích tương quan giữa công bằng và bác ái. Ở đây chúng tôi chỉ muốn
dừng lại ở những nét đối chiếu giữa caritas với veritas, được nói ở phần
nhập đề của thông điệp (số 1-9).
Nơi Thiên Chúa, caritas
và veritas đồng nhất với nhau (số 1). Dĩ nhiên ở đây, không thể dịch caritas là
“bác ái”, nhưng là “Tình yêu”. Thiên Chúa là Tình yêu vĩnh cửu và Chân lý tuyệt
đối. Nơi Thiên Chúa, tất cả mọi sự đều là tương quan và ban phát Tình yêu trong
Chân lý, trước hết là nơi Đức Giêsu Kitô, kế đến là nơi mỗi nhân sinh, và sau
cùng là nơi toàn thể vũ trụ (xem thêm các số 52 và 54). Vì thế không thể nào
tách rời tình yêu với chân lý. Chân lý cần được tìm kiếm và diễn tả trong bầu
khí của tình yêu; đối lại, tình yêu cần được hiểu biết và thực hành dưới ánh
sáng của chân lý. Khi trình bày chân lý là chúng ta phục vụ tình yêu, và việc
thực hành yêu thương tăng cường sức khả tín của chân lý. Nếu không có chân lý,
thì tình yêu chỉ là tình cảm rỗng tuếch và dễ bị lệch lạc do đủ thứ ý kiến xu
thời. Nhờ chân lý, chúng ta có khả năng vượt lên những ý kiến, ấn tượng, giới
hạn văn hóa, để thiết lập những giá trị nền tảng chung. Trong tương quan xã
hội, tình yêu đi đôi với chân lý dẫn đến việc tôn trọng công bằng và công ích.
III. Caritas - Iustitia
Thoạt tiên xem ra đây
là một đề mục khá quen thuộc: công bằng và bác ái; cần phải tìm cách phối hợp
cả hai. Tuy nhiên, khi đi sâu vào vấn đề, người ta thấy rằng nó đụng đến lãnh
vực “tín lý” chứ không dừng lại ở phạm vi thực hành mà thôi: từ khuôn mặt của
Thiên Chúa cho đến khuôn mặt của Hội thánh, cũng như từ căn cước của Hội thánh
đến sứ mạng của Hội thánh trong thế giới.
A. Cựu ước và Tân ước
Hồi thế kỷ II,
ông Markiôn đã có lần đối lập Thiên Chúa của Cựu ước với Thiên Chúa của
Tân ước: một bên là Thiên Chúa của công bằng, một bên là Thiên Chúa của tình
thương. Điều này nổi bật khi so sánh các mệnh lệnh luân lý: Cựu ước dạy
rằng “mắt đền mắt, răng đền răng”, còn Tân ước thì dạy hãy yêu thương kẻ thù
(Mt 5, 38-48).
Thiết nghĩ không cần
trả lời vấn nạn này.
B. Sứ điệp Tin mừng
Trong những thế kỷ gần
đây, nhiều phong trào cách mạng đã muốn đọc lại ý nghĩa của thân thế và sự
nghiệp của Chúa Giêsu: Người muốn thực hiện một cuộc cải tổ xã hội, hay là muốn
thiết lập một tôn giáo? Câu hỏi này là đầu đề tranh luận giữa hai chủ nghĩa xã
hội và tự do hồi thế kỷ XIX [17].
1/ Đức Giêsu đã đến để
loan báo một cuộc cải tổ xã hội, giải phóng dân nghèo khỏi cảnh lầm than.
Chương trình của Người nhằm đến cỗ võ sự bình đẳng giữa hết mọi người, sự cung
ứng những nhu cầu vật chất. Khía cạnh tôn giáo chỉ là “thượng tầng kiến trúc”
được đắp thêm. Các Kitô hữu tiên khởi đã bắt đầu thực hiện chế độ cộng sản, tuy
mới chỉ ở mức tiêu thụ chứ chưa tiến sang lãnh vực sản xuất. (Các nhà tư tưởng
Mác-xít tiên khởi: Engels, Karl Kautsky).
2/ Trái với chủ nghĩa
xã hội, phe bảo thủ chủ trương rằng Đức Giêsu không quan tâm đến các vấn đề xã
hội. Người đến để rao giảng hạnh phúc đích thực trên trời, chứ không can thiệp
vào trật tự phàm tục.
Nói cách khác, chúng ta
có thể hình dung hai chân tướng của Đức Giêsu: một bên là nhà cách mạng xã hội,
bên kia là nhà huyền bí. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này dưới đây khi bàn về
bản chất hoạt động của Hội thánh.
C. Căn cước của Hội
thánh
Sự đối chọi giữa công
bằng và bác ái trở thành sôi nổi hơn nữa khi bước sang bản chất của Giáo hội,
xét về hoạt động nội bộ cũng như xét về hoạt động trong xã hội
1/ Ecclesia caritatis -
Ecclesia iuris
Vào thời Trung cổ, viện
phụ Gioakim de Fiore đã phát biểu học thuyết về ba kỷ nguyên của lịch sử cứu
độ: kỷ nguyên của Chúa Cha (Cựu ước); kỷ nguyên của Chúa Con (Hội thánh do Chúa
Giêsu lập nên); kỷ nguyên của Thánh Linh (từ thế kỷ XII). Trong kỷ nguyên thứ
ba, luật pháp hay cơ chế không còn cần thiết nữa, Hội thánh được Thánh Linh
điều khiển nhờ những linh ân và đặc sủng.
Dựa theo sự đối chọi
giữa “Lề Luật” và “An sủng” (lex - gratia) nơi vài bản văn của thánh Phaolô (Gl
2,21; 5,4) và thánh Gioan (1,17), ông Lutêrô cho rằng Luật pháp thuộc về chế độ
Cựu ước hay trong xã hội tự nhiên, còn Hội thánh thì sống dưới chế độ của An
sủng, Tình yêu, Đặc sủng Thánh Linh. Theo hướng ấy, vào đầu thế kỷ XX, Rudolph
Sohm muốn dùng các tài liệu lịch sử để chứng minh rằng vào hồi nguyên thuỷ,
Giáo hội sống dưới chế độ của tình thương (caritas) ; dần dần, Giáo hội đã bị
tục hoá và đã du nhập các cơ chế pháp luật (ius).
Trong tông hiến Sacrae
disciplinae leges ban hành bộ giáo luật (ngày 25/1/1983), đức thánh cha Gioan
Phaolô II cho thấy rằng luật pháp không loại trừ ân sủng, bác ái khỏi đời sống
Kitô hữu, nhưng trái lại, nhằm giúp phát triển đức ái và ân sủng hơn. Một đặc
trưng của Tân ước nằm ở chỗ là Yêu thương trở thành cốt lõi của mọi lề luật [18].
Đó là nói trên nguyên
tắc. Khi áp dụng vào vài hoàn cảnh cụ thể, việc giữ quân bình giữa công lý và
tình thương không đơn giản gì, như tông huấn Sacramentum caritatis (số 29) đã
nhìn nhận đối với tình trạng những đôi hôn nhân ly dị và tái hôn.
Dù sao, nên ghi nhận
một sự kiện là Hội thánh được vài giáo phụ định nghĩa là agape. Vào những
thế kỷ đầu, agape là tên đặt cho bữa tiệc huynh đệ diễn ra liền với bí tích
Thánh Thể, nhưng agape cũng là tên đặt cho Hội thánh, chẳng hạn như thánh
Ignatiô Antiôkia chào thăm Hội thánh Rôma như là “vị chủ toạ agapê” [19]
(nghĩa là đứng đầu Hội thánh), hoặc gửi lời chào thăm các agape ở Smyrna và
Ephêsô (Ad Trallianos 13,1).
Điều này không khó
hiểu. Ngay từ buổi đầu, Hội thánh ý thức rằng chính nhờ agape mà sứ mệnh và căn
cước của mình được biểu lộ (“Cứ dấu này mà thiên hạ nhận ra các con là môn đệ
của Thầy, đó là các con yêu thương nhau”: Ga 13,35). Niềm xác tín này vẫn tiếp
tục trải qua mọi thời đại, như thông điệp DCE đã phác hoạ trong các số 20-25.
2/ Sứ mạng của Giáo
hội: xây dựng “văn minh tình thương” hay “thế giới công bình”?
Thông điệp DCE đã dành
ra bốn đoạn (số 26-29) để bàn về tương quan giữa bác ái và công bằng, đặc biệt
là học thuyết xã hội của Giáo hội, thường được coi như mở đầu với thông điệp
“Rerum novarum” của đức giáo hoàng Lêô XIII (ngày 15/5/1891), nhằm đưa một câu
trả lời mới (res novae) về công bằng xã hội vào thời ấy. Tuy nhiên thông điệp
DCE xét lại tương quan giữa bác ái và công bằng trong một bối cảnh mới mẻ hơn.
Như vậy có ít là hai cách thức để bàn về tương quan giữa công bằng và bác ái: nhìn
như hai nhân đức, hay như hai thể chế.
a) Các sách luân lý cổ
truyền [20] đã bàn về tương quan giữa công bằng và bác ái dựa theo bản chất của
hai nhân đức.
* Công bằng và bác ái
là hai nhân đức khác biệt:
- Công bằng liên quan
đến một nghĩa vụ có thể đòi hỏi theo pháp luật. Caritas (yêu thương) cũng
là một nghĩa vụ nhưng dựa trên trật tự luân lý (chỉ trả lời trước mặt Chúa).
- Công bằng là một nhân
đức tự nhiên. Caritas là một nhân đức siêu nhiên.
* Nhưng hai nhân đức bổ
túc cho nhau:
- Công bằng đặt cơ sở
nền tảng cho mối tương quan với tha nhân; Caritas tìm cách đưa mối tương quan
đến mức hoàn thiện. Công bình coi tha nhân như người khác với mình
(virtus ad alterum); Caritas hướng đến sự hợp nhất với tha nhân, coi họ như
chính mình.
- Yêu thương mà
không tôn trọng công bằng thì đưa đến rối loạn trật tự; Công bình mà
thiếu yêu thương sẽ đưa đến tàn nhẫn (summum ius summa iniuria).
b) Thời nay, mối tương
quan công bằng và bác ái đã bị xét lại do ảnh hưởng của Karl Marx. Ong
đòi dẹp bỏ bác ái đi và chỉ giữ lại công bằng. Những người nghèo không cần đến
bác ái, mà chỉ đòi hỏi công bằng. Theo ông, các việc bác ái (chẳng hạn như bố
thí) là một chiêu bài để cho người giàu tránh né việc thiết lập công bằng, ngõ
hầu trấn an lương tâm và tiếp tục bóc lột người nghèo. Đã đến lúc phải trả lại
quyền lợi cho người nghèo (công bằng), chứ không phải là ban ân huệ cho họ (bác
ái từ thiện).
Trong bối cảnh đó, các
Kitô hữu cũng đã duyệt lại học thuyết cổ truyền về mối tương quan giữa công
bằng và bác ái. Trên phương diện học lý, ngoài hai dạng cổ điển của đức công
bằng (giao hoán và phân phối), người ta còn thêm một dạng mới là công bình xã
hội, hoặc “liên đới”[21]. Trên phương diện điều hành, Tòa Thánh đã thiết lập
Hội đồng “Công lý và Hòa bình” (Iustitia et pax) để nghiên cứu những đề tài
liên quan đến công bằng xã hội, bên cạnh Hội đồng “Đồng tâm” (Cor unum) phụ
trách các công tác bác ái.
Tuy nhiên, thông điệp
DCE đặt lại tương quan giữa công bằng và bác ái trong một bối cảnh khác, đó là
tương quan giữa Hội thánh với các cộng đồng chính trị. Mục tiêu của Nhà Nước và
các cộng đồng chính trị là thực hiện công lý, trật tự công bằng. Hội thánh tôn
trọng vai trò của Nhà Nước, và góp phần vào việc xây dựng công lý bằng cách soi
sáng những mục tiêu của hoạt động chính trị. Dù sao sứ mạng chuyên biệt của Hội
thánh là thực hiện caritas. Sứ mạng này luôn luôn cần thiết, ngay cả trong một
xã hội công bằng. Hội thánh không chỉ cổ võ một trật tự Công bằng, nhưng còn
tiến đến việc xây dựng một nền văn minh của Tình yêu. Con người luôn luôn cần
đến tình yêu, là linh hồn của công bằng. Duy có tình yêu mới có thể biến đổi
con người[22].
3/ Hoạt động “bác ái”
của Hội thánh và những “tổ chức từ thiện” của xã hội
Ngày nay, ngoài những
cơ cấu an sinh xã hội của Nhà Nước, còn xuất hiện nhiều cơ quan từ thiện của tư
nhân, các tổ chức phi-chính-phủ (Non Governmental Organizations). Có gì khác
biệt giữa cơ quan bác ái của Hội thánh và các tổ chức từ thiện ấy không?
Ở số 31, thông điệp DCE
diễn tả đặc trưng của công tác bác ái Kitô giáo ở những điểm sau đây:
a) Trước hết, bác ái
Kitô giáo là lời đáp trả cho một nhu cầu trong một hoàn cảnh nhất định, theo
gương được nêu lên trong dụ ngôn người
b) Hoạt động bác ái
Kitô giáo thì độc lập với các đảng phái chính trị và ý thức hệ, bởi vì động lực
thúc đẩy là đức mến.
c) Lòng bác ái mang
tính cách vị tha, bất vụ lợi: không được thi hành bác ái để đạt những mục tiêu
nào khác (chẳng hạn để chiêu dụ tín đồ). Điều này không có nghĩa là gạt Thiên
Chúa ra một bên, nhưng nói cho cùng, lòng bác ái nhắm đến hạnh phúc của con
người, hạnh phúc toàn diện. Dĩ nhiên, đối với người Kitô hữu, hoạt động bác ái
cần được thực hiện trong linh đạo khiêm tốn phục vụ, và được nuôi dưỡng nhờ sự
cầu nguyện, đặc biệt nhờ Thánh Thể là bí tích tình yêu.
Ngoài ra, thiết tưởng
có thể thêm một đặc trưng nữa, đó là hoạt động bác ái cần được tổ chức và phối
hợp trong Hội thánh (xem DCE số 20 và 32).
Kết luận
Đã đến lúc phải kết
thúc bài nghiên cứu, mặc dù chưa khai thác tất cả các khía cạnh của đề tài được
nêu lên. Chúng tôi chỉ mới gợi lên những vấn đề thần học hiện đại chung quanh
đề tài caritas, để tìm hiểu “sự thật về caritas”. Nói cho cùng, như đức thánh
cha Bênêđictô XVI đã viết trong thông điệp Caritas in veritate, nơi Thiên Chúa,
Caritas và Veritas trùng hợp với nhau (số 1). Ta cũng có thể quả quyết cách
tương tự về sứ mạng của Hội thánh: Hội thánh cần loan báo Splendor veritatis kể
cả trong lãnh vực luân lý, nhưng chỉ có thể chứng minh cho chân lý nhờ Splendor
caritatis của đời sống [23].
1 Phạm vi bài này không
cho phép đi sâu vào vai trò của Dòng Đaminh trong tổ chức Inquisitio. Xc. Phan
Tấn Thành, Linh đạo Dòng Đaminh qua các thánh, Rôma 2002, trang 309-328.
2 Xc. Phan Tấn Thành,
Thần học về đời sống tâm linh Kitô giáo (Đời sống tâm linh, tập III), Rôma
2003, trang 227-245.
3 Thông điệp Deus
caritas est (25/12/2005) và Caritas in veritate (29/6/2009). Cũng không nên bỏ
qua tông huấn Sacramentum caritatis (22/2/2007).
4 Đại khái, êros bao
hàm khía cạnh dục vọng, say mê, chiếm hữu; philia thì thanh tao cao thượng hơn,
nhưng vẫn còn mong đền đáp; agape thì hoàn toàn vô vị lợi.Agape được dịch sang
tiếng Latinh là caritas (do tính từ carus: quý giá, thân thiết), hay dilectio
(ưa chuộng), benevolentia (muốn điều tốt), và amor.
5Tác phẩm gồm hai tập
viết bằng tiếng Thuỵ điển, xuất bản ở
6 R. Cantalamessa, Bài
giảng mùa chay cho giáo triều Rôma, ngày 25/3/2011.
7 Stergo chỉ xuất hiện
1 lần trong từ kép philostorgos (Rm 12,10); eros và eráo hoàn toàn vắng bóng.
8 Điônisiô định nghĩa
“Thiên Chúa là eros” (De divinis nominibus IV,12: PG 3, 709ss) tương tự như
“Thiên Chúa là agape” (1Ga 4,10).
9 Agape chữa lành eros.
Niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất cũng kèm theo giới luật hôn nhân một vợ
một chồng. Xc. DCE số 11.
10 “Vides Trinitatem si
caritatem vides”, De Trinitate VIII, 8,12, được DCE trưng dẫn ở số 19.
11 Xc. Bài giảng của
đức Gioan Phaolô II trong thánh lễ phong chân phước cho cha Hyacinthe Marie
Cormier, ngày 20/11/1994.
12 ĐGH Gioan Phaolô II,
Tông huấn Redemptoris Custos, về dung mạo và sứ mạng của thánh Giuse trong cuộc
đời của Chúa Giêsu và của Hội thánh (15/8/1989), số 27.
13 Nguyên bản Hy-lạp là
an-hypokritos (không giả hình), được dịch sang tiếng Latinh là “dilectio sine
simulatione”. Tính từ này còn được dùng ở 2Cr 6,6 (in caritate non ficta) và 1
Pr 1,22 (amorem non fictum).
14 Bài ca rất phổ
thông trong nghi thức rửa chân vào Thứ Năm Tuần thánh (người sáng tác
được gán cho đức cha Paulinus Aquilêia k.726-804) “ubi caritas et amor ibi Deus
est”; nhưng những thủ bản cổ điển viết là “ubi caritas est vera, ibi Deus
est”, và Sách lễ Rôma từ ấn bản 1973 đã sửa lại, vì xem ra hợp lý hơn: caritas
et amor đồng nghĩa với nhau. (Tiếng Việt dịch không sát: “đâu có tình yêu
thương, ở đấy có Đức Chúa Trời”.
15 Công đồng Vaticanô
II, Tuyên ngôn về tự do tín ngưỡng, số 1: “Profitetur Sancta Synodus ... nec
aliter veritatem sese imponere nisi vi ipsius veritatis, quae suaviter simul et
fortiter mentibus illabitur”. Trong lời nguyện xin Chúa tha thứ về những lỗi
phạm của các tín hữu (chúa nhật 12/3/2000), đức thánh cha Gioan Phaolô II đã
thưa: “Lạy Chúa là Chủ tể của tất cả mọi người, trong vài giai đoạn của lịch
sử, các Kitô hữu đôi khi đã nại đến những phương pháp bất bao dung và đã không
tuân thủ giới răn yêu thương, làm méo mó dung nhan của Hội thánh là người hiền
thê của Chúa. Xin Chúa thương xót các con cái là tội nhân, và hãy
đón nhận quyết tâm của chúng con là truy tầm và cỗ võ chân lý trong vẻ dịu dàng
của tình yêu, bởi vì biết rằng chân lý chỉ có thể áp đặt bằng chính sức mạnh
của chân lý”.
16 Xc. Summa
Theologica, II-II, q.10, a.8
17 R. Cantalamessa, Bài
giảng mùa chay cho giáo triều Rôma, ngày 15/4/2011.
18 Xem thêm Sách Giáo
lý Hội thánh Công giáo, số 1965-1974, về “Luật Mới hay Luật Tin mừng”.
19 “qui praesidet in
caritate”, St. Ignatius Ant, Epistula ad Romanos, praefatio.
20 Được nhắc đến trong
thông điệp Caritas in veritate số 6.
21 Iustititia
commutativa, distributiva, legalis; caritas socialis; solidarietas: xem sách
Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 2411; 1939. Sách Giáo lý cũng nói đến việc giúp
đỡ người nghèo như một nghĩa vụ chứ không do lòng hảo tâm (số 2446).
22 Hội đồng Tòa Thánh
về Công lý và Hòa bình, Tóm lược Học thuyết xã hội Công giáo, (nguyên bản
Compendio della dottrina sociale della Chiesa), 2003, số 580-583. Trước đó,
tương quan giữa bác ái và công bình đã được đề cập ở các số 206-208.
23 Thánh Augustinô đã
viết: duy có sự thật mới thắng; nhưng sự thật thắng bằng tình yêu (“Non
vincit nisi veritas; victoria autem veritatis caritas” Sermones, 358,1: PL 39,
1586).
(daminhvn.net)
Thứ hai, 14 Tháng 5 2012 11:32