Thánh hoá, làm phép
Một cha già hiền lành, các em
nhỏ rất thích chơi với ngài, có cả những em ngoại đạo. Một hôm các em đang chơi
trong phòng ngài, một giáo dân đến xin ngài làm phép chuỗi, nghe vậy, em ngoại
đạo lập tức hỏi ngài: “Cha có phép à?”. Một lần tôi đi dự lễ đặt viên đá
đầu tiên, người giới thiệu nói: “Vị chủ lễ sẽ làm phép viên đá đầu tiên, rồi
thánh hoá khu nhà ở”. Vị chủ lễ làm cùng một việc, nhưng nơi thì gọi là
thánh hoá, nơi khác lại gọi là làm phép. Vậy ‘thánh hoá’ và ‘làm phép’
có khác nhau không?
1. Thánh, hoá, làm,
phép
1.1. Nghĩa của thánh
Thánh có 2 chữ: 聖(圣), 清(còn đọc là thanh), trong trường hợp này là chữ 聖 [1], có nghĩa là thuộc về Đấng Tối Cao [2].
Tính từ “thánh” trong tiếng
Hipri (quados) theo nghĩa đen là “phân rẽ”, vì nó bắt nguồn từ động từ mang
nghĩa “tách biệt” hay “tách ra”, được dùng để miêu tả những nơi đặc biệt (Nơi
Thánh và Nơi Chí Thánh trong Đền thờ), những vật đặc biệt (trang phục của
Aaron, ngày Sabát), và những người đặc biệt (thầy tư tế và Lêvi) được biệt
riêng ra cách đặc biệt hay được làm nên thánh dành cho Chúa. Như thế, sự thánh
khiết của Thiên Chúa chỉ về sự tách biệt của Chúa khỏi mọi sự bất khiết.
1.2. Nghĩa của hoá
Hoá có 2 chữ hoá: 化, 貨 (货), trong thuật từ thánh hoá, là chữ化 và có nghĩa là đổi, biến đổi, giúp đổi, thay đổi [3].
1.3. Nghĩa của làm
Làm (chữ Nôm: 濫), nghĩa là (đt.) (1) Hoạt động, thực
hành: Việc không ai làm; Nói mà không làm; Làm giàu; Làm công; Làm reo (nghỉ
làm để phản đối). (2) Biến chế, chế tạo ra: Làm nhà; Làm hộp quẹt; Làm nước
mắm; Chia làm hai. (3) Chuyên chú về một nghề gì: Làm thầy; Làm thợ. (4) Ở địa
vị nào: Làm cha mẹ; Làm con; Làm dâu. (5) Gây nên, dựng nên: Làm loạn; Làm ân
chuốc oán. (6) Có thái độ, tỏ thái độ: Làm bộ; Làm duyên; Làm dữ; Làm khách.
(7) Xui khiến, gây phản ứng: Làm cho sợ; Làm cho điêu đứng. (8) Sửa soạn thức
ăn: Làm cỗ; Làm gà; Làm bếp. (9) Ăn: Làm cả con gà.
1.4. Nghĩa của phép
Phép (chữ Nôm: 法), nghĩa là : (dt.) (1) Luật lệ hay trật tự phải theo: Phép nước; Phép làng; Lễ phép; Phép vua thua lệ làng
(Tục ngữ); Nhập gia phải cứ phép nhà ta đây (Nguyễn Du). (2) Quyền trên cho làm
việc gì: Xin phép; Cho phép; Được phép. (3) Cách thức dùng để làm việc gì: Phép
cất rượu; Phép lấy căn bậc hai; Phép cho con bú. (4) Phương thuật riêng (mà
người ta cho rằng của thần tiên và những bậc tu luyện đắc đạo): Làm phép; Phù
phép; Phép phù thuỷ; Phép tiên; Phép mầu. (5) Bí tích hoặc Á Bí tích trong Công
giáo: Phép rửa ; Sách các phép (De Benedictionis); Ăn mày các phép.
Theo Công giáo, phép có 3 nghĩa:
(1) Phép (potens): Phép tắc, quyền năng, quyền lực, năng quyền, sức lực, sức mạnh. Ví
dụ: Đức Nữ có tài có phép (Kinh cầu Đức Bà); Thánh Antôn hay làm phép lạ; Đức
Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất (Kinh Tin Kính); Chúa là
Đấng phép tắc và lòng lành vô cùng (Kinh Cậy).
(2) Phép
(benedictio): Phép lành, chúc lành, chúc phúc.
Từ ngữ benediction trong La ngữ
hợp bởi bene (tốt lành) và dictio hay dicere (nói) có nghĩa là nói lời lành,
hay nói về sự tốt lành, thường được dịch sang tiếng Việt là chúc lành
(benedicere), chúc tụng (benedictio) hay phép lành.
Trong Thánh Kinh, phép lành
trước hết là hành động của Thiên Chúa, Ðấng nói, muốn và làm điều tốt lành cho
chúng ta. Ðối với Thiên Chúa, lời nói và việc làm đồng nhất với nhau (cùng một
động từ dâbâr trong tiếng Hípri). Phép lành của Thiên Chúa khởi đầu bằng công
cuộc sáng tạo nhờ Ngôi Lời (x. Ga 1,1-3; St 1,3.6.9tt); phép lành đó đạt tới
mức thành toàn trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, chịu chết và sống lại vì
chúng ta (x. Ep 1,3). Ðáp lại phúc lành của Thiên Chúa không ngừng ban cho
chúng ta qua Ðức Kitô và trong Chúa Thánh Thần, chúng ta cũng phải dùng chính
những lời hay ý đẹp của mình để chúc tụng Thiên Chúa, tức là tạ ơn Thiên Chúa
về tất cả những ơn lành của Chúa. Mầu nhiệm phụng vụ được kết cấu bởi sự trao
đổi giữa phúc lành của Thiên Chúa và lời chúc tụng của chúng ta trong Ðức Kitô.
Trong phụng vụ, phép lành được
chia làm 2 loại:
* Các phép lành khẩn cầu
(benedictio invocativa), là các phép lành chỉ bao gồm lời cầu xin những ân ban
và sự che chở của Thiên Chúa. Ví dụ: Các phép lành trên con người như: phép
lành cuối Thánh Lễ, người bệnh, trẻ em, thai nhi...; trên đồ vật như: nước, lá,
tro, nến, ảnh tượng, tràng hạt, các dụng cụ làm việc, xe, quan tài...; trên nơi
chốn như: bữa ăn, nhà mới, trường học, bệnh viện, nghĩa trang...; kể cả phép
lành trên vật nuôi như chó, mèo,...
* Các phép lành cấu tạo
(benedictio constitutiva) là các phép lành phát sinh cùng một công hiệu là dành
vào việc thánh, sau khi ‘làm phép’ thì các vật ấy không được dùng vào việc khác
nữa. Ví dụ: làm phép nhà thờ, làm phép nhà nguyện và nhà nguyện tư, làm phép
bàn thờ, dầu dự tòng (OC: Oleum Catechumenorum), dầu bệnh nhân (OI: Oleum
infirmorum), chén thánh, khăn bàn thờ, nghĩa trang…
Nói tóm lại, theo Thánh Kinh và
phụng vụ, phép lành là chúc sự lành cho một người hay một vật, mà trên hết là
để ca tụng Thiên Chúa và ngợi khen công việc tốt đẹp của Chúa. “Mọi phép
lành đều là lời ca ngợi Thiên Chúa và cầu xin Chúa ban ơn” (GLCG 1671).
Vì vậy khi nói: “Xin cha ban
phép lành cho con”, thì hiểu cho đúng là: “Xin cha dâng lời ca ngợi
Thiên Chúa và cầu xin Chúa ban ơn lành cho con”.
(3) Phép (rite,
caeremoni): Nghi thức (Bí tích hay Á Bí tích)
Trong ngôn ngữ thông thường, từ
‘phép’ còn được dùng để chỉ các nghi thức Bí tích hay Á Bí tích. Ví dụ: Việc cử
hành các nghi thức Bí tích Rửa Tội, Thêm Sức... cũng được gọi là ban phép (hay
làm phép) Rửa Tội, Thêm Sức...[4]; Việc thánh hiến (consacretio) Bánh Rượu được
gọi là truyền phép.
Việc thánh hiến (consacretio)
Dầu Thánh; việc cung hiến (dedicatio) thánh đường, bàn thờ...; việc cử hành các
nghi thức chúc lành (benedictio) nhà nguyện, hội trường, ảnh tượng, tràng
hạt,... tất cả đều được gọi là làm phép.
2. Thánh hoá, làm
phép
2.1. Thánh hoá
(Latinh: sanctificare,
sanctificatio; Anh: Sanctify, sanctification; Pháp: Se sanctifier,
sanctification) Làm cho trở nên thánh.
Theo nguyên nghĩa, thánh hoá là
tách riêng ra cho một mục đích đặc biệt, đó là làm nên thánh hoặc trở nên
thiêng liêng. Vì vậy, thánh hoá ngụ ý một tình trạng hoặc một tiến trình được
biệt riêng ra để được nên thánh khiết.
Với 4 lần xuất hiện trong Tân
Ước, thuật từ thánh hoá có từ nguyên trong Hy văn hagiasmos, nghĩa là “thánh
hoá” bắt nguồn từ hagios, nghĩa là “thánh khiết” hoặc “thiêng liêng”.
Trước tiên, chúng ta cần làm rõ
các thuật ngữ.
Trong thế giới La Mã cổ đại, bất
cứ vật gì đã được dâng để cúng các vị thần (đồng ruộng, súc vật,...) thì gọi là
consecrate (thánh hiến), và những vật có liên quan mật thiết với việc cúng bái
(đền thờ, bàn thờ...) thì họ gọi là dedicate (cung hiến). Tuy nhiên, hai thuật
từ này thường thấy sử dụng lẫn lộn, và cả hai đều có thể được dùng để chỉ những
người hay vật đã từng được dâng cho thần linh mà tính cách linh thánh vẫn còn
mãi mãi.
Giáo Hội phân biệt thánh hiến
với làm phép, dù cả hai đều có liên quan đến người và đồ vật. Tuy nhiên, trong
sách Pontificale Romanum trước đây không có phân biệt gì nhiều giữa “cung hiến”
và “thánh hiến” cũng như giữa “thánh hiến” và “làm phép” (trọng thể hay đơn
giản). Việc “làm phép” một nhà thờ cũng được gọi một cách phổ biến là “cung
hiến”, và có lẽ sự hiểu lầm này có nguồn gốc từ việc hiểu không đúng các thuật
ngữ như đã nói trên.
Do đó, Sách Pontificale Romanum
hiện nay nói đến các Nghi thức Truyền chức (thánh hiến) giám mục và Nghi thức
Chúc phong (làm phép) viện phụ, làm phép đá góc và thánh hiến nhà thờ hoặc bàn
thờ.
Trong sách Nghi thức Giám mục
(Caeremoniale Episcoporum, editio typica 1984, Vatican Press) hiện nay không
còn nói đến việc thánh hiến nhà thờ nữa, mà có phân biệt rõ giữa việc cung hiến
và việc làm phép một nhà thờ. Những nghi thức khác cũng vậy. Hiện nay, các sách
phụng vụ nói là “truyền chức giám mục”, chứ không nói là “thánh hiến giám mục”
như những sách phụng vụ cũ. Nghi thức làm phép nhà thờ vẫn còn. Nếu vì lý do
chính đáng một nhà thờ mới không thể được cung hiến thì ít nhất nhà thờ đó phải
được làm phép trước khi sử dụng. Ngoài ra, các nhà nguyện tư, nguyện đường, hội
trường hay nhà sinh hoạt trong giáo xứ, những nơi mà việc cử hành phụng vụ chỉ
là tạm thời, những nơi ấy cần được làm phép hơn là cung hiến. Nghi thức làm
phép này được thực hiện bởi giám mục giáo phận hoặc một linh mục được uỷ nhiệm
đặc biệt. Vì vậy, chỉ các toà nhà được xây dựng để phục vụ vĩnh viễn cho việc
phụng tự thì mới có thể được chính thức cung hiến.
Trong cả ba trường hợp (thánh
hiến, cung hiến và làm phép), người hay đồ vật, từ một tình trạng chung, phàm
tục, đến một tình trạng mới, và trở thành các đối tượng hoặc các dụng cụ được
Thiên Chúa bảo vệ, người ta thường gọi đó là việc “thánh hoá” hay ‘làm phép”
theo nghĩa rộng.
Cần phân biệt sự khác nhau giữa
thánh hiến và làm phép có thể kể ra như sau:
- Trong nghi thức thánh hiến thì
trang nghiêm và phức tạp hơn nghi thức làm phép.
- Thừa tác viên thông thường của
nghi thức thánh hiến là một giám mục, trong khi thừa tác viên thông thường của
nghi thức làm phép là một linh mục.
- Nghi thức thánh hiến sử dụng
dầu thánh còn nghi thức làm phép sử dụng nước thánh.
- Việc thánh hiến nâng người hay
vật lên một tình trạng mới có tính vĩnh viễn, và không bao giờ cử hành nghi lễ
ấy nữa, còn việc làm phép thì không như vậy.
- Ân sủng đi liền với việc thánh
hiến thì dồi dào hơn và hiệu quả hơn so với việc làm phép.
- Tội phạm đến người hay vật đã
được thánh hiến thì gọi là phạm thánh, trong khi tội phạm đến người hay vật đã
được làm phép thì không như vậy.
J.A. Hardon [5] giải thích: Lần
thánh hoá đầu tiên là lúc ta được rửa tội; qua Phép Rửa ấy, Chúa Thánh Thần ban
cho ta tình yêu của Thiên Chúa (x. Rm 5,5). Mọi người mới chịu Phép Rửa Tội đều
là thánh, vì kể từ khi được rửa tội, Thiên chúa Ba Ngôi bắt đầu đến ngự trong
lòng họ, khiến họ trở nên đẹp lòng Chúa. Lần thánh hoá thứ hai là một quá trình
kéo dài suốt đời: Một người sống trong tình trạng ân sủng càng ngày càng được
ơn Chúa và giống Chúa hơn nhờ luôn trung thành sống theo sự soi sáng của Chúa.
Lần thánh hoá thứ ba là khi con người bước vào thiên đàng, hoàn toàn và mãi mãi
kết hợp với Chúa trong khi hưởng phúc kiến.
2.2. Làm phép
Làm phép là một thuật từ có từ
rất lâu đời trong Giáo hội Công giáo ở Việt
Trong quyển tự vị viết tay của
Đức cha Bá Đa Lộc (1772) [6] và Từ điển Taberd (1838) [7], ta thấy đã có chữ: “濫法 = Làm phép = Dare benedictionem”, tức là “ban phép lành” (to give
a blessing). Trong Tự Vị Latinh
Theo Paulus Của [9] (1895), làm
phép là “làm ra phép gì, làm cho ra hiệu nghiệm gì” (trang 532) hay “làm theo
lễ phép, vái van, cầu khẩn, cho được việc gì” (trang 809). Còn Làm phép lành là
“chúc lành” (trang 809).
Từ điển của Cha Gouin (1957),
làm phép: Administrer un sacrement (cử hành một bí tích); bénir (chúc lành);
donner l’absoute (ban phép giải tội: give the absolution). Làm phép lành: Bénir
(chúc lành). [10]
3. Kết luận
Thuật từ thánh hoá và làm phép
có thể dùng chung cho con người và đồ vật, vì có điểm giống nhau, có khi thay
đổi nhau được. Ví dụ, Thánh lễ làm phép (= thánh hoá) dầu; Nghi thức làm phép
(= thánh hoá) dầu; Đức Giám mục đã làm phép (= consecre, thánh hiến) dầu thánh.
Nhưng cũng có khác biệt, thánh hoá là thánh hiến, có tính trang trọng hơn, làm
phép lại có nghĩa là cử hành, như người ta có thể nói, linh mục làm phép rửa
tội (= linh mục cử hành rửa tội), mà không nói linh mục thánh hoá rửa tội.
------------------
[1] Xem thêm “Bài Giảng Chúa
Nhật” của Tổng Giáo phận TP.HCM, số 05/2007.
[2] Không nên chỉ giải nghĩa
thuộc về Thiên Chúa, làm như vậy thì thu hẹp ý nghĩa của chữ. Vì Tin Lành,
Chính Thống và Hồi giáo không bao giờ gọi Đấng Tối Cao là Thiên Chúa. Xem thêm:
“Bài Giảng Chúa Nhật” của Tổng Giáo phận TP.HCM, số 05/2006.
[3] Xem thêm: “Bài Giảng Chúa
Nhật” của Tổng Giáo phận TP.HCM, số 06/2011.
[4] Sấm Truyền Mới ghi: “H. Ai
đặng làm phép Thêm Sức? - T. Các hàng Giám Mục đặng làm mà thôi; H. Ai đặng làm
phép Rửa Tội ? - T. Các hàng linh mục đặng làm mà thôi; song khi thế gấp, thì
mọi người dầu mà kẻ ngoại làm theo ý Hội Thánh thì cũng đặng”.
[5] John A. Hardon, S.J., POCKET
CATHOLIC DICTIONARY, Image Books,
[6] Pierre J.B Pigneaux de
Béhaine, VOCABULARIUM ANAMITICO-LATINUM (TỪ VỰNG AN NAM-LATIN thường gọi là TỰ
VỊ VIỆT LA),
[7] Jean-Baptiste Louis Taberd,
DICTIONNARIUM ANAMITICO-LATINUM (
[8] Julien Thiriet, DICTIONARIUM
LATINO-ANNAMITICUM (TỰ VỊ LATINH
[9] Huỳnh Tịnh Paulus Của, ĐẠI
NAM QUẤC ÂM TỰ VỊ, Rey, Curiol & Cie, Sài Gòn, 1895, NXB. Khai Trí, Sài
Gòn, 1974.
[10] Eugène Gouin, MEP,
DICTIONNAIRE VIETNAMIEN CHINOIS FRANÇAIS, D’Extrême Orient, Sài Gòn, 1957.
(emty.org Cập nhật: 03/09/2012 -
14:21:38)