Tân Phúc-Âm-hoá hay Tân-Phúc-Âm hoá?
(Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ)
1.
“Tân Phúc Âm hoá”: vấn đề mang tính thời sự
Dưới nhan đề:
“Vatican đang nỗ lực khuếch trương ‘Tân Phúc Âm hoá’”, John L. Allen Jr.,
chuyên gia nghiên cứu kỳ cựu về Vatican của tờ National Catholic Reporter và cũng
là phóng viên của đài truyền hình CNN, trong bài viết ngày 04/03/11, ông nói:
“Trong một triều đại giáo
tông mà đôi khi bị buộc tội là thiếu hướng hành chính, toàn bộ
Bằng mọi cách có
thể, Đức Bênêđictô đã cho thấy rằng ngài đang quan tâm đến việc “tân Phúc Âm
hoá”, hiểu một cách rộng rãi là đánh thức tinh thần truyền giáo trong Giáo Hội,
như là một ưu tiên tột đỉnh. Ví dụ: Mặc dù nổi tiếng là luôn có ác cảm với các
bộ máy quan liêu, nhưng gần đây ĐTC Bênêđictô XVI đã phải thành lập ngay tại
Vatican một cơ quan hoàn toàn mới để xúc tiến dự án, Hội Đồng Giáo Tông Cổ Vũ
Việc Tân Phúc Âm Hoá. Ngài đã bổ nhiệm một chức sắc người Ý, kỳ cựu và đầy
quyền lực, là Đức Tổng Giám Mục Rino Fisichella, đứng đầu Hội Đồng này, và một
danh sách thành viên Hội Đồng gồm các vị giáo sĩ cao cấp trong Giáo Hội Công
Giáo từ khắp nơi trên thế giới, trong đó có Đức Hồng Y Christoph Schönborn của
Vienna, ĐHY Angelo Scola của Venice, ĐHY George Pell của Sydney, và Đức Tổng
Giám Mục Timothy Dolan của New York.
ĐTC Bênêđictô cũng
đã dành cho Thượng Hội Đồng Giám Mục - một cuộc họp của các giám mục từ khắp
nơi trên thế giới sẽ diễn ra từ ngày 07-28/10/2012 - sắp tới, một chủ đề “Tân
Phúc Âm hoá để thông truyền đức tin Kitô giáo”[1]mà
Bản đề cương (Lineamenta) của Thượng Hội Đồng đã được trình bày trong cuộc họp
báo sáng nay tại Vatican.”[2].
Tự Sắc Porta Fidei công bố khai mạc năm Đức
Tin ngày 11/10/2012 cũng nhắc đến tân Phúc Âm hoá[3]. Hơn thế nữa, trong Sứ
điệp dài 4 trang giấy khổ Letter, Hội nghị toàn thể lần thứ X của Liên Hội Đồng
Giám Mục Á Châu đã dành cả 2 trang để nói về một số chiều kích cơ bản của“nền linh đạo tân Phúc
Âm hoá”.
Vài sự kiện nêu trên
cho thấy tầm quan trọng của vấn đề tân Phúc Âm hoá đối với Giáo Hội hiện nay
như thế nào.
Tân Phúc Âm hoá
tiếng Anh là New Evangelization, nhưng có người lại không thể hiểu được tại sao
tiếng Việt dịch là “tân Phúc Âm hoá”, có người còn cho rằng nói như thế là rối
đạo. Vậy chúng ta thử tìm hiểu New Evangelization có nghĩa gì, và nên dịch như
thế nào trong tiếng Việt.
2.
Evanglization: Phúc Âm hoá
Chữ này phát xuất từ
động từ Evangelise (truyền giảng Phúc Âm) và Evangelise có nguồn gốc từ danh từ
Evangel (Phúc Âm).
Chúng tôi đã có dịp
bàn tới hai thuật từ Phúc Âm và Phúc Âm hoá trong hai bài “Evangelium” và
“Missio” đăng trong nguyệt san Bài giảng Chúa nhật[4] và
đăng lại trong quyển “Tìm hiểu từ vựng Công Giáo”[5].
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP. đã tầm nguyên và phân tích về hai thuật từ Evangelizatio
và Missio rất công phu trong bài đăng trong bản tin Hiệp Thông số 73[6]. Vì vậy ở đây, chúng tôi chỉ xin nhắc lại mấy ý chính:
2.1. Evangelium(A: Evangel; P: Évangile) được dịch là Phúc Âm hay Tin Mừng, nhưng theo
chúng tôi, thuật từ Phúc Âm có nội dung phong phú và sâu sắc hơn, bao hàm mọi
điều thiện hảo mà con người mơ ước theo triết lý Đông phương và như vậy có tính
hội nhập văn hoá cao hơn.
2.2. Thuật từ Evangelizatio xuất hiện từ
thế kỷ XIX và được du nhập vào thần học Công Giáo vào thế kỷ XX, đặc biệt từ
Công Đồng Vaticanô II[7]. ĐTC Phaolô VI sử dụng từ này
với hai nội dung chính là truyền bá Phúc Âm (hoạt động truyền giáo cho lương
dân) và Phúc Âm hoá (hoạt động tông đồ cho giáo dân)[8].
Evangelizatio (Anh:
Evangelization; Pháp: Évangélisation) là "đem Phúc Âm đến cho tất cả mọi tầng lớp
nhân loại, để rồi, nhờ ảnh hưởng của Phúc Âm, biến đổi nhân loại từ bên trong
và làm cho nhân loại nên mới" (EN 18). Đưa Phúc Âm vào lòng
người, vào cách suy nghĩ, cách hành động của con người, vào các lãnh vực hoạt
động như xã hội, văn hoá, chính trị, kinh tế... Nói cách khác là đem các giá
trị Phúc Âm thấm nhuần vào trong các thực tại trần thế như men ở trong bột. Vì
vậy, nếu hiểu cách tổng quát Evangelizatio được thực hiện vừa bằng lời nói, vừa
bằng chứng tá đời sống cũng như bằng những hoạt động để biến đổi mọi sự cho hợp
với tinh thần Phúc Âm.
2.3. Evangelizatio thường được dịch là (việc, cuộc, công cuộc) Phúc Âm
hoá, truyền bá Phúc Âm, truyền giảng Phúc Âm, loan báo Tin Mừng, rao giảng Tin
Mừng, việc truyền giáo... Tuy nhiên, theo chúng tôi, các từ truyền bá, truyền
giảng, rao giảng, loan báo, loan truyền... không có ý nghĩa tổng quát như chữ
“hoá” trong từ Phúc
Âm hoá. Là một nguyên vị tiềm tàng[9] giữ
vai trò hậu tố từ, "hoá" tạo ý nghĩa là: biến đổi, làm cho thấm nhuần
hoặc làm cho trở thành... Do đó, so với các cụm từ truyền bá Phúc Âm,
truyền giảng Phúc Âm hay loan báo Tin Mừng, rao giảng Tin Mừng.... thì thuật từ
Phúc Âm hoá
vừa ngắn gọn, lại có nội dung bao quát, phong phú và diễn tả ý niệm
Evangelizatio thích hợp hơn.
2.4. Về mặt từ ngữ, chúng ta có thể định nghĩa: Phúc Âm hoá là làm
cho thấm nhuần tinh thần Phúc Âm. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã cung
cấp một định nghĩa khác: “Phúc Âm hoá, nghĩa là loan báo Ðức Kitô bằng đời sống chứng tá và lời
nói” (Số 905).
3. Nghĩa các chữ
tân, phúc, âm, hoá
3.1. Nghĩa của tân
Tân có 12 chữ Hán: 新, 濱(滨), 津, 賓(宾), 薪, 辛, 鋅(锌), 檳(槟), 莘, 繽(缤), 獱, 蠙, trong trường hợp này là chữ新. Tân 新là chữ gốc
của chữ 薪tân (nghĩa là: củi đuốc, tiền lương).
Chữ do辛tân và 斤cân tạo thành. Trong giáp cốt văn, tân
chỉ âm, và cân là cái rìu.
Tân nghĩa là (dt.) (1)
Mới: Thôi trần
xuất tân (trừ cái cũ đi, đem cái mới ra). (2) Họ Tân. (3) Quốc hiệu
của Vương Mãng sau khi cướp ngôi nhà Hán (năm 8-22). (đt.) (4)
Thay đổi cho mới: Nhật tân hựu tân (ngày càng đổi mới). (tt.) (5)
Những cái mới: Tân
y (áo mới). (6) Những gì mới xuất hiện: Tân sinh nhi (con mới sinh ra).
(7) Những người hay vật thuộc về thời gian mới cưới: Tân phòng
(phòng cưới). (pht.) (8) Mới bất đầu: Tân tả (mới viết).
Nghĩa Nôm: (dt.) (1) Xử nữ: Gái tân. (2) Màng trinh: Còn tân.
3.2. Nghĩa của phúc
Phúc có 9 chữ Hán: 福, 腹, 復(复), 覆, 輹, 輻(辐), 蝮, 愊, 鍑, ở đây là
chữ福. Trong bài “Evangelium” tôi có phân tích chữ này, nay xin trích
lại: “Theo Lục thư[10], chữ phúc (福) thuộc “hình thinh”. Viết bộ
thị (示còn đọc kỳ) và thinh
bức(畐bị), có nghĩa phù hộ, là thần ban điều lành giúp con người, nên viết bộ thị(示) và dùng bức (畐) với âm bị, có nghĩa là mãn
(nghĩa làcó
đầy đủ, không gì không thuận lợi là phúc), tức là: trời đất ban
xuống những điều tốt lành để thoả mãn nguyện vọng của con người, nên dùng thinh
畐. Thuyết Văn dùng chữ phúc với nghĩa là bị (bị là mọi việc đều
thuận lợi). Chữ phúc (福) đọc âm “phúc”, có nghĩa là mình xin cho được nhiều phúc.”Chữ福 (phúc) nghĩa là (dt.) (1) Những sự tốt lành, Kinh
Thi chia ra năm phúc : - Giàu 富, - Yên lành 安寧,- Thọ 壽, - Có đức tốt 攸好德, - Vui hết tuổi trời 考終命. (2) Điều may: Phúc Âm (tin lành). (3) Thịt phần tế. (4) Rượu tế còn thừa.
(5) Họ Phúc. (đt.) (6) Thần bảo hộ, giúp: Phúc hựu. (7) Bộ điệu người nữ
ngày xưa chào bằng cách chắp tay đặt ở eo: Đạo vạn phúc (Kính chào). (tt.) May
mắn: Phúc
tướng (tướng may mắn).
3.3. Nghĩa của âm
Âm có 11 chữ Hán: 音, 暗, 陰(阴), 隂, 侌, 瘖, 喑, 蔭, 廕, 荫, 愔, trong mục
từ Tân Phúc Âm hoá, Âm là chữ 音, tôi đã từng phân tích chữ này[11]: “Âm (音) trong từ phúc âm (福音) có nghĩa làtiếng, tin, thuộc loại “chỉ
sự”. Viết chữ ngôn (言, lời ) ngậm
dấu ngang (—)
là cái dấu để tạo chữ, không phải là chữ nhất (一), quy định dấu ngắn thì đặt ở trên dấu
ngang, dấu dài đặt ở dưới. Như vậy chữngôn (言)phần dưới có chữkhẩu (口),chữkhẩu
ngậm dấu ngang(—). Thinh do tâm sinh ra, biểu lộ ra ngoài là âm, tức là
cái hợp thinh mà được nhịp nhàng hoà hợp với các thinh để thành văn, thì gọi là
âm.
Chữ 音(âm) nghĩa là: (dt.) (1)
Tiếng phát ra bởi vật thể bị chấn động, do không khi làm môi giới mà truyền đi:
Tạp âm
(tiếng tạp). (2) Giọng điệu: Hương âm (giọng quê). (3) Tiếng đọc của chữ: Chú âm
(tiếng ghi). (4) Tin tức, thư từ: Âm tín. (5) Tiếng kính trọng kẻ khác: Đức âm. (6)
Họ Âm.
3.4. Nghĩa của hoá
Hoá có 2 chữ Hán: 化, 貨(货), chữ cần
bàn là chữ 化. Hoá (化) có hai hình người, một đứng thẳng, một đứng lộn xuống dưới, giống
diễn viên đang làm xiếc hoặc biểu diễn ảo thuật, chỉ nghĩa “biến hoá”. Có những
nghĩa mở rộng như “Tạo Hoá”, “tử vong”, và “hoà tan”.
Hoá có nghĩa là (dt.) (1)
Giáo dục: Giáo
hoá. (2) Tập tục: Phong hoá. (3) Trời đất hay số mệnh: Tạo Hoá. (4)
Lễ, nhạc, chế độ: Văn hoá. (5) Lấy ân nghĩa mà dạy: Đức hoá. (đt.) (6)
Thay đổi: Thiên
biến vạn hoá. (7) Trời đất sinh thành vạn vật: Hoá dục. (8)
Chết: Vật hoá.
(9) Dần dần ít đi, có rồi lại không còn: Tiêu hoá. (10) Thiêu huỷ: Hoả hoá.
(10) Ăn xin: Hoá
duyên. (11) Đặt sau danh từ hay tĩnh từ, để chuyển biến trạng
thái hay tính chất của vật: (i) thay đổi tính chất: ảo hoá, Âu hoá, ẩn dụ
hoá, bần cùng hoá, bình thường hoá, biệt hoá, cá biệt hoá, cá tính hoá, cải
hoá, cảm hoá, công hữu hoá, công nghiệp hoá, cơ khí hoá, cụ thể hoá, chính quy
hoá, chính thức hoá, chuẩn hoá, chuẩn mực hoá, dân chủ hoá, dị hoá, đa dạng
hoá, điện khí hoá, đồng bộ hoá, đồng hoá, đơn giản hoá, hiện đại hoá, hợp thức
hoá, khái quát hoá, lý tưởng hoá, nhân cách hoá, phàm tục hoá, phân hoá, phức
tạp hoá, tập thể hoá, thần bí hoá, tổng quát hoá, tuyệt đối hoá, tư bản hoá, tự
động hoá... (ii) làm cho trở thành:cốt hoá (hoá xương), dẻo hoá, điện hoá, lưu
hoá, nhũ hoá, nhựa hoá, ion hoá, oxy hoá, khí hoá, từ hoá, xà phòng hoá, mã
hoá...
Trong từ Phúc Âm
hoá, hoá có vai trò hậu tố từ, nghĩa là làm cho thấm nhuần.
Nghĩa Nôm: Goá: Hoá vợ.
4.New
Evangelization: Tân-Phúc-Âm hoá?
4.1. Tân Phúc Âm -
Đức tin loại gì đây?
Có người thắc mắc:
"Nói đến
Đức Tin Công Giáo mà nói đến “tân phúc âm, tân tin mừng” là nói đến đức tin
loại gì đây?" - Chúng tôi thử vào Google để tìm kiếm cụm từ
"tân phúc âm" và "tân tin mừng", thì không thấy chỗ nào nói
Tân Phúc Âm hay Tân Tin Mừng mà chỉ có Tân Phúc Âm hoá hay Tân Tin Mừng hoá mà
thôi!
Thiết nghĩ: Người
Công Giáo, dù là tân tòng, cũng hiểu rằng Hội Thánh Công Giáo là "duy
nhất", và vì duy nhất trong đức tin nên không có chuyện "Tân Phúc
Âm" hay "Tân Tin Mừng"[12]. Thực ra chữ
"Tân Phúc Âm" cũng đã có người sử dụng rồi. Tự điển của Lm. Vũ Kim
Chính[13]dùng chữ này để dịch chữ
Neo-Evangelism, danh xưng của một giáo phái Tin Lành[14].
Cho nên, nếu hiểu Tân Phúc Âm là một giáo phái, thì "Tân Phúc Âm hoá"
(nếu có) sẽ có nghĩa là "làm cho trở thành tín đồ Tân Phúc Âm". Nhưng
trong thực tế, anh em Tin Lành dịch từ Neo-Evangelism là "Phong trào Tin
Lành Hiện đại", chứ không sử dụng từ Tân Phúc Âm.
4.2. Cũng tại thiếu
cái dấu...
Tôi nhớ khi cha già
Phaolô Nguyễn Huỳnh Điểu - cha sở Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn - từ trần, một cha
khẩn cấp báo tin cho bạn bè của ngài bên
Có lẽ ở đây cũng
tương tự, từ ghép Tân Phúc Âm hoá có hai cách hiểu về trật tự cấu tạo của nó:
Trước năm 1975, tại
miền
Đã có người đề nghị
Quốc Hội cho dạy lại Hán Nôm trong trường học, điều này hoàn toàn không thực
tế. Để giải quyết vấn để, chúng ta chỉ cần phục hồi dấu gạch nối trong những
trường hợp nói trên, vấn đề sẽ được giải quyết dễ dàng hơn.
5. New
Evangelization: Tân Phúc-Âm-hoá
5.1. “New Evangelization” là tên gọi được dành cho kế hoạch của Hội
Thánh muốn thể hiện một cách mới mẻ sứ mệnh cơ bản của Hội Thánh, căn tính và
lý do hiện hữu của Hội Thánh[15]. Để có thể hiểu chính
xác nguồn gốc và nội dung của thuật từ này, thiết tưởng không gì bằng đọc tác
phẩm mới xuất bản của Đức TGMRino Fisichella, vị chủ tịch đầu tiên của Hội Đồng
Giáo Tông Cổ Vũ Việc Tân Phúc Âm Hoá[16]: "The New
Evangelization- Responding to The Challenge of Indifference" hoặc bài của
Đức Ông Giuse Đinh Đức Đạo và Lm. Giuse Phan Tấn Thành trong Bản tin Hiệp Thông
nói trên[17]. Dưới đây chúng tôi chỉ lưu ý vắn tắt về
nội dung và nhận xét về những cách phiên dịch của từ New Evangelization trong
tiếng Việt mà thôi.
5.2. Năm 1983, tại Haiti, khi nói chuyện với Hội Đồng Giám Mục Châu Mỹ
La Tinh về tầm quan trọng của công cuộc Phúc Âm hoá tại các nước này, ĐTC Gioan
Phaolô II nói: “Việc
kỷ niệm nửa thiên niên kỷ Phúc Âm hoá sẽ có đầy đủ ý nghĩa của nó nếu chư huynh
trong tư cách giám mục biết dấn thân cùng với hàng linh mục và giáo dân của
mình, một dấn thân không phải để tái Phúc Âm hoá mà là để tân Phúc Âm hoá.
Nó sẽ mới trong nhiệt tâm, mới trong phương pháp và mới trong cách
truyền đạt của nó. Về phương diện này, cho phép tôi uỷ thác nơi chư huynh,
gói ghém trong ít lời, các khía cạnh đối với tôi xem ra là căn bản nhất đối với
việc tân Phúc Âm hoá”[18]
Như vậy, tân Phúc Âm hoá
nghĩa là ta công bố Phúc Âm với một nhiệt tâm mới, một ngôn ngữ
mới, một ngôn ngữ dễ hiểu trong ngữ cảnh văn hoá dị biệt, và một phương pháp
mới có khả năng thông truyền ý nghĩa sâu sắc nhất của sứ điệp, ý nghĩa bất
biến của nó. Về mặt từ ngữ, chúng ta có thể giải thích: Tân Phúc Âm hoálà
việc (hay cuộc, công cuộc) Phúc Âm hoá mới. Mới, không phải ở bản chất hay nội
dung của Phúc Âm, mà là "mới trong sự nhiệt thành, trong phương pháp và
trong lối diễn tả"[19].
Hiện nay, bên cạnh
"tân Phúc Âm hoá",
thuật từ “New Evangelization” còn được dịch là: tái truyền giảng Tin Mừng [20], cách tân truyền giảng Tin Mừng [21], việc tân truyền bá Phúc Âm hoá [22], cuộc loan báo Tin mừng mới [23].
6.
Re-Evangelization: Tái Phúc Âm hoá
Chữ tái trong
tiếng Việt (cũng như iterata trong La ngữ và tiếp đầu ngữ Re- trong
tiếng Anh, Pháp) có nghĩa là lặp lại, trở lại lần nữa, nhưng (1) Nó có thể chỉ việc lặp
lại một hành động, như trong trường hợp tái diễn một vỡ kịch (re-enacting); (2)
Nó cũng có thể diễn tả việc trở về với giai đoạn trước đó, như tái thủ đắc(re-acquiring);
(3) Nó cũng có nghĩa đem lại một giá trị mới cho một hành động có trước
như tái sinh
(re-generation)... Nếu hiểu chữ tái theo nghĩa thứ 3 này, thì "tái
Phúc Âm hoá" sẽ bao hàm ý tưởng về một sự thay đổi, đổi mới trong nội dung
của hành động "Phúc Âm hoá". Có thể đó là lý do mà ĐTC Gioan Phaolô
II từ sau thông điệp Redemptoris Missio (1990) đã không sử dụng thuật từ
Re-Evangelization nữa, và Đức TGM Rino Fisichella, chủ tịch Hội Đồng Giáo Tông
Cổ Vũ Việc Tân Phúc Âm Hoá, khuyên chúng ta nên tránh kiểu nói này.[24]
7. Renewed
Evangelization: Cách tân truyền giảng Phúc Âm
Trong tiếng Anh có
những kiểu nói: The
Proclamation of Salvation, The Proclamation of the Gospel, The Preaching of the
Gospel... hay Renewed Evangelization, Renewed Integral Evangelization, The Renewed
Mission of the Church... là những cách diễn tả ý niệm
Evangelization hoặc New Evangelization ở mặt nào đó, không toàn diện và nhất là
không thể thay thế cho những thuật từ này[25]. Cũng
thế, trong tiếng Việt cũng có những kiểu nói: Loan truyền Ơn cứu độ, rao giảng Tin Mừng,
truyền bá Phúc Âm... hay cách tân việc truyền giảng Tin Mừng, canh tân Phúc
Âm hoá toàn diện, canh tân sứ mạng của Hội Thánh... Chúng tôi thiết
nghĩ có thể sử dụng trong những hoàn cảnh để trình bày, diễn giải... chứ không
thể dùng như những thuật từ chuyên môn định danh cho ý niệm Evangelization hoặc
New Evangelization.
Theo giáo sư Hoàng
Xuân Hãn[26], tác giả bộ "Danh từ Khoa học"và
rất nhiều công trình khoa học có giá trị lớn để làm mẫu mực cho việc giáo dục
và quốc học nước ta, để tạo một danh từ chuyên môn cần phải tuân thủ tám điều
kiện và ba phương sách như sau: Năm điều kiện về nội dung: (1) Mỗi ý
phải có một danh từ để gọi; (2) Danh từ ấy phải riêng về ý ấy; (3) Một ý đừng
có nhiều danh từ; (4) Danh từ phải làm cho dễ nhớ đến ý; (5) Danh từ trong các
môn phải thành một toàn thể duy nhất và liên lạc. Ba điều kiện về hình thức:
Danh từ (6) phải gọn; (7) phải có âm hưởng Việt
Giáo sư Hãn còn
viết: "Nói
thế không phải rằng ta đặt một chữ nào cũng phải theo cho đủ các điều kiện trên
kia. Những điều kiện trên có khi nó thành ra mâu thuẫn, nên trong sự định đoạt,
ta lại xem cách nào tiện hơn mà chọn. (...) Nói tóm lại, một danh từ
khoa học cốt có những đức tính sau đây: đủ rành mạch, dễ nhớ, gọn. Chớ cách đặt
thì không duy nhất được. Thế cũng không ngại gì, quí hồ tiếng đặt có âm hưởng
Việt
Các linh mục tiền
bối trong Ban giáo sư Trường Thần học Bùi Chu khi xưa cũng đã đồng ý tuân thủ
những điều kiện và phương sách này khi biên soạn quyển "Danh từ Thần Học
và Triết Học". Nhờ đó Hội Thánh tại Việt
Vì vậy, trên phương
diện học thuật, chúng tôi nhận thấy cụm từ "tân Phúc Âm hoá" có thể
dùng như một thuật từ để định danh cho ý niệm "New Evangelization".
Còn các cách dịch: việc tân truyền bá Phúc Âm hoá, cuộc loan báo Tin mừng mới, cách tân
truyền giảng Tin Mừng, tái truyền giảng Tin Mừng... mang tính định
nghĩa hơn là định danh.
8. Kết luận
Việt
Để tiếp tục đóng góp
vào bộ thuật ngữ quý báu này, chúng ta cần cẩn trọng khi chọn lựa từ ngữ để
dịch những khái niệm mới trong các khoa ngành của Hội Thánh.
[1] “Nova evangelizatio ad christianam
fidem tradendam - The New Evangelization for the Transmission of the Christian
Faith”.
[2] John L. Allen Jr.:
[3] Tự sắc Porta Fidei, số 4, 7.
[4] Bài Giảng Chúa Nhật, TGM GP. TP.HCM, Số 3/2006 và 10/2009.
[5] Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ, TÌM HIỂU TỪ VỰNG CÔNG GIÁO, 2012, tr.
19-25; 298-315.
[6] Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP., “LOAN BÁO TIN MỪNG, TÁI LOAN BÁO
TIN MỪNG, LOAN BÁO TIN MỪNG CÁCH MỚI MẺ: NHỮNG BÀI HỌC LỊCH SỬ” - Hiệp Thông,
Số 73, tháng 11&12 năm 2012, tr. 52-79.
[7] Các văn kiện của Công Đồng Vaticanô II đã sử dụng danh từ
Evangelizatio 31 lần, đặc biệt trong Sắc Lệnh Truyền Giáo 21 lần. Tuy bản dịch
tiếng Việt của Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X (Đà Lạt, 1970) dịch là “truyền
bá Phúc Âm” nhưng cũng đã thấy có vài nơi sử dụng thuật từ “Phúc Âm hoá” (tr.
348, 796).
[8] xem Tông huấn EVANGELII NUNTIANDI, số 18.
[9] Nguyên vị tiềm tàng là những yếu tố gốc Hán có ý nghĩa phản ánh
gián tiếp hiện thực. Theo cách nói của Gs. Hồ Lê: CẤU TẠO TỪ TIẾNG VIỆT HIỆN
ĐẠI, Nxb KHXH, TP.HCM, 2003, tr.154.
[10] Sáu quy tắc tạo nên chữ Hán gọi là Lục thư: (1) Tượng hình. (2)
Chỉ sự. (3) Hội ý. (4) Hình thinh. (5) Chuyển chú. (6) Giả tá.
[11] Bài Giảng Chúa Nhật, tháng 3/2006, Bài “Phúc Âm và Tin Mừng”, tr.
93.
[12] Nếu đặt vấn đề: Đối với người lương thì sao? - Thưa, thì phải tìm
hiểu mới biết được. Vì đã là thuật từ thì dù thuộc ngành nào, bộ môn nào, thì
cũng phải “học nhi tri chi”. Tương tự như các thuật từ “Mẹ Thiên Chúa” hay “bất
khả ngộ” vv...
[13] Lm. Vũ Kim Chính, SJ., TỰ ÐIỂN THẦN HỌC TÍN LÝ ANH VIỆT, Đài loan,
1999.
[14] Neo-Evangelism: Một phong trào có từ năm 1940, phát nguồn từ Phái
Phúc Âm (Evangelicals: Phong trào Tin Lành), với các đặc điểm là tập trung vào
nỗ lực truyền bá Phúc Âm, trải nghiệm qui đạo, lời chứng về đức tin cá nhân, và
có quan điểm truyền thống về Thánh Kinh. Phái này tin rằng Phúc Âm cần phải
được tái khẳng định và tái công bố trong một cung cách mới. Vì vậy, xuất hiện
thuật ngữ Neo - mới hoặc được làm cho mới. Danh xưng Neo-Evangelism do Harold
Ockenga đặt ra năm 1947, mà anh em Tin Lành Việt Nam dịch là “Phong trào Tin
Lành Hiện đại”, để phân biệt với giáo phái Căn Bản (Fundamentalists: Phong trào
Nền Tảng) mới được hình thành vào đầu thế kỷ 20. Ngày nay, với ảnh hưởng rộng
lớn trong cộng đồng Tin Lành, Phái Tân Phúc Âm được xem là đồng nghĩa với Phái
Phúc Âm, đại diện cho những Kitô hữu liên kết đức tin của mình với các giá trị
truyền thống của Giáo Hội tiên khởi.
[15] Đề cương (Lineamenta) của THĐGM Lần thứ XIII, số 10.
[16] Archbishop Rino Fisichella: THE NEW EVANGELIZATION- RESPONDING TO
THE CHALLENGE OF INDIFFERENCE, Gracewing Publishing, 2012.
[17] Xem bài của Đức Ông Giuse Đinh Đức Đạo (tr. 29-51) và Lm. Giuse
Phan Tấn Thành (tr. 52-79) trong Hiệp Thông, Số 73, tháng 11&12 năm 2012.
[18] John Paul II, Address to CELAM (Opening Address of the Sixth
General Assembly of CELAM, 9 March 1983, Port-au-Prince, Haiti), L’Osservatore
Romano English Edition 16/780 (18 April 1983), no. 9.
[19] Insegnamenti di Giovanni Paolo II, VI, 1 (1983), Editrice
Vaticana, 1983, p.698.
[20] Lm. G. Trần Đức Anh, OP. : SỨ ĐIỆP THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC lần
thứ XIII Gởi CỘNG ĐỒNG DÂN CHÚA (http://gpbanmethuot.vn); ĐTC MỜI GỌI CÁC TÍN
HỮU TÁI TRUYỀN GIẢNG TIN MỪNG
(http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20111017/12964) hay VAI TRÒ CỦA BÍ TÍCH
HOÀ GIẢI TRONG VIỆC TÁI TRUYỀN GIẢNG TIN MỪNG
(http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20120310/15017); đối chiếu với: POPE:
CONFESSION A KEY PART OF EVANGELIZATION
(http://www.zenit.org/article-34434?l=english)
[21] Lm. Px. Nguyễn Hùng Oánh: TÂN PHÚC ÂM HOÁ: CÁCH NÓI NGUY HẠI CHO
ĐỨC TIN??? (http://titocovn.com/article/20121208/36320)
[22] http://www.thoidiemmaria.net/TDM2010/MucVuTruyenGiao/TanPhucAmHoa.htm,
xem: TÂN PHÚC ÂM HOÁ.
[23] Sr, Therese Tran, MTG-DL: CÔNG CUỘC LOAN
BÁO TIN MỪNG MỚI - XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH TÌNH THƯƠNG, xem:
http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/PhucAmHoa/GiaoHoiAChau/TaiLieu/01new_Evangelization.htm;
FX. Trần Kim Ngọc, OP.: LOAN BÁO TIN MỪNG? xem:
http://www.daminhvn.net/trang-chu/3050-suc-manh-nao-de-loan-bao-tin-mung.html
[24] Archbishop Rino Fisichella,
http://americamagazine.org/issue/100/new-evangelization.
[25] Msgr. Manny Gabriel: THE PURSUIT OF THE BEC DIRECTION IN THE
ARCHDIOCESE OF MANILA: IN SEARCH OF SHARED FRAMEWORK: "New
Evangelization" is not just "renewed evangelization", or
"integral evangelization" or both "renewed, integral evangelization".
(Xem: http://frpicx. tripod.com/refl-gabriel.htm)
[26] Hoàng Xuân Hãn, DANH TỪ KHOA HỌC, Vĩnh Bảo, Sài Gòn, 1948.