(tgpsaigon.et) T7, 09/03/2013 - 15:30
Đức Giáo Tông Biển Đức XVI
WGPSG – Sau năm 1975, trên báo chí, thấy xuất
hiện một số cách gọi vị đứng đầu Giáo Hội hoàn vũ là Giáo Chủ hay Đức Giáo Chủ,
mà không gọi như trước là Đức Giáo Hoàng hay Đức Giáo Tông. Về phía Giáo Hội
thì cũng chỉ xưng Đức Thánh Cha. Chúng ta thử tìm hiểu xem cách gọi nào tốt
hơn.
1. Các danh xưng của vị thủ lãnh tối cao của
Giáo Hội hoàn vũ (Caput Universalis Ecclesiae, Supreme leader
of the Church).
Theo thứ tự được ghi trong Niên Giám Giáo
Hoàng 2007 như sau[1]:
(1). Giám mục Rôma (Episcopus Romanus, Bishop
of Rome).
(2). Vị Đại diện Chúa Kitô (Vicarius Christi,
Vicar of Christ).
(3). Đấng kế vị Thánh Phêrô, Thủ lãnh các tông
đồ (Successor principis apostolorum, Successor of the Prince of the Apostles).
(4). Thượng Giáo Chủ của toàn thể Giáo Hội
(Summus Pontifex Ecclesiae Universalis, Supreme Pontiff of the Universal
Church) hay vắn tắt là Thượng Giáo Chủ (Đại Trưởng Tế, Đức Giáo Hoàng )
(Pontifex Maximus, Maximus Pontiff ).
(5). Giáo Trưởng nước Ý (Primas Italiae,
Primate of Italy).
(6). Tổng giám mục và tổng giáo chủ (Đại giám
mục) Giáo tỉnh Rôma (Archiepiscopus et metropolitanus provinciae ecclesiasticae
Romanae, Archbishop and Metropolitan, từ hai chữ meter: “mẹ” và polis: “thành
phố” of the Roman Province).
(7). Quốc vương nước Vatican (Princeps sui
iuris civitatis Vaticanae, Sovereign of the State of the Vatican City).
(8). Tôi tớ các tôi tớ của Thiên Chúa (Servus
Servorum Dei, Servant of the Servants of God).
Ngoài ra, Giáo Luật (x. Can 331) còn ghi những
danh xưng như[2]:
(9). Đức Giáo Hoàng Rôma (Romanus Pontifex,
The Roman Pontiff).
(10). Thủ lãnh của Giám Mục đoàn (Caput
collegii, Head of the college of Bishops).
(11). Chủ chăn của toàn thể Giáo Hội trên trần
gian (Universae Ecclesiae his in terris Pastor, Pastor of the universal Church
on earth).
Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã bỏ danh xưng
Thượng phụ Giáo Chủ Tây Phương (Patriarcha Occidentis, Patriarch of the West)
ra khỏi Niên Giám Giáo Hoàng từ năm 2006.
2. Hai danh xưng thường được sử dụng là Papa và Maximus Pontifex.
2.1 Papa (Pope, do bởi chữ Hy Lạp pappas nghĩa là
“cha”), tiếng thân mật của con cái gọi cha mình hay của người vợ gọi người
chồng. Ban đầu papa cũng được dùng để gọi các vị tư tế. Từ thế kỷ III (kh.
250), dùng để gọi các vị giám mục ở Tiểu Á và Alexandria. Bên Tây Phương, danh
xưng này được dành cho vị giám mục Rôma từ thời Thánh Giáo Hoàng Lêô Cả
(440-461), và từ năm 1073, Papa trở thành danh xưng riêng của các vị giáo
hoàng.
Trong tiếng Việt, Papa ngày xưa dịch là “đức
thánh baba”, sau này dịch là đức thánh cha. Danh xưng này không có trong các bảng liệt
kê chính thức, nhưng lại được sử dụng nhiều nhất, thường xuất hiện dưới dạng
viết tắt là “PP” (viết tắt của chữ “Papa”) sau danh hiệu hoặc chữ ký
của các vị giáo hoàng trong các văn kiện mang dấu ấn của các ngài. Ví dụ:
“Benedictus PP. XVI”.
2.2 Maximus Pontifex (Pontiff Maximus)
Maximus nghĩa đen là vĩ đại; pontifex (Lt.
pons = cây cầu + facere = làm, xây dựng), nghĩa đen là người thiết lập chiếc
cầu.
Trong thời đế quốc Rôma ngoại giáo, từ này chỉ
tước hiệu của tư tế, sau đó là tước hiệu của nhà vua. Kể từ thế kỷ V, tước hiệu
này dành cho các vị giám mục, nhưng trong truyền thống Kitô Giáo thường dùng để
chỉ Đức Giáo Hoàng.
Hoàng đế Augustus trong trang phục của vị
“Pontifex Maximus”
Chữ "Hoàng"
3. Ý nghĩa của các từ giáo, hoàng, tông, chủ
3.1. Giáo, có những chữ Hán này: 教, 校, 挍, 窖, 覺, 較, 酵, 餃. Ở đây là chữ 教, có nghĩa: (dt.) (1) Người làm nghề
dạy học: Cô giáo. (2) Hệ thống các giáo lý giảng về quan hệ giữa người và Đấng
Tạo Hoá: Tôn
giáo. (3) Kitô Giáo: Đoàn kết lương giáo. (đt.)
(4) Dạy cách thức: Hỗ giáo hỗ học (dạy lẫn nhau và học lẫn nhau). (5) Bảo: Thỉnh giáo.
Nghĩa Nôm: (dt.) (1) Khí giới thời xưa nhọn
cán dài: Giáo
mác. (2) Hệ thống các thanh vật liệu bắc lên cao: Thợ nề trên tầng giáo.
(đt.)
(3) Quấy cho nhuyễn, cho đặc lại: Giáo bột làm bánh. (4) Hát giới thiệu
trò diễn sắp trình bày: Câu giáo trò. (5) Nói gần nói xa về việc định làm: Có gì cứ nói, làm gì
phải giáo trước.
3.2. Hoàng, có những chữ Hán này: 皇, 黃, 簧, 潢, 磺, 蟥, 癀, 鱑, 凰, 偟, 徨, 篁, 喤, 蝗, 煌, 惶, 隍, 遑, 鰉, 鍠. Trong thuật từ giáo hoàng là chữ 皇.
Chữ 皇 thay đổi nhiều theo thời gian, không đơn
thuần như người ta lầm tưởng là bộ 白 (bạch) và chữ 王 (vương). Theo cuốn “Tìm Về Cội Nguồn Chữ Hán”
của Lý Lạc Nghị: Hoàng là chữ gốc của 煌 (hoàng, như huy hoàng). Phần dưới chữ vốn
là chân đèn; ba nét sổ phía trên là ánh đèn sáng. Đến Tiểu triện
thì phần trên viết nhầm thành自(tự), đến Lệ
thư lại biến thành白(bạch).
Còn theo cuốn Quốc Ngữ Hoạt Dụng Từ Điển thì
chữ hoàng tuy bộ白 (bạch), nhưng kết cấu thì thuộc “hội ý”. trên mặt trời toả ánh sáng chói
lọi, mặt trời mọc lên khỏi mặt đất thì sáng rực, diễn nghĩa cho chữ 白(bạch), phần trên của chữ 皇 (Hoàng). Có các nghĩa sau: (dt.)
(1) Họ Hoàng. (2) Vua: Hoàng đế. (2) Trời: Hoàng thiên. (3) Đạo Giáo (của Lão Tử)
tôn vị thần chính yếu của họ là Hoàng (4) Thời kỳ quân chủ gọi cha của hoàng đế
là hoàng: Thái
thượng hoàng (Thái thượng có nghĩa là rất tôn kính, vì không can dự
quốc sự nên không xưng là đế). (5) Người con tôn kính người cha đã qua đời cũng
gọi là hoàng: Hoàng
khảo. (đt.) (6) Cứu giúp vua. (7) Mở rộng. (tt.)
(8) Lớn, vĩ đại. (9) Trang nghiêm. (10) Rực rỡ. (11) Mỹ thiện. (12) Quang minh.
Hoàng và vương đều có nghĩa là “vua” và “vĩ
đại”, nhưng có khác biệt, theo thói quen thì nói hoàng thiên mà không
nói vương
thiên, dùng quốc vương mà không dùng quốc hoàng.
3.3. Tông, có nhiều chữ Hán: 宗, 椶, 朡, 柡, 淙, 鬃, 騌, 鬉, 騣. Trong trường hợp này là chữ 宗. Chữ này theo phiên thiết là 作 (tác) 東 (đông), lấy phụ âm “T” của chữ “tác” nối với vần “ông” của chữ “đông”, nên
phải đọc là tông. Chữ này trước triều Nguyễn vẫn đọc là tông, sau
vì kiêng tên huý vua Thiệu Trị mới đọc là tôn, như vậy thuật từ nào có liên quan
đến chữ này đều đọc là tôn, như: tôn giáo, nhưng lại nói tông đường.
Tông
hay tôn
có những nghĩa sau đây: (dt.) (1) Họ Tông. (2) Dòng họ: Đồng tông.
(3) Tổ tiên: Liệt
tông. (4) Người được mọi người noi theo: Nhất đại thi tông (nhà thơ
giỏi nhất đương thời). (5) Trưởng tử. (6) Nhóm theo cùng một thuyết: Chính tông;
Tông giáo
(chủ thuyết dạy lối phải tin tưởng và hành động: religion). (7) Danh hiệu của
vua. (đt.)
(8) Kính trọng. (9) Căn bản. (10) Miếu thờ tổ tiên. (11) Từ giúp đếm: Sự, món,
vu (lượng từ), “điều”: Nhất tông tâm sự. (12) Tôn sùng. (tt.)
(13) Cùng họ với nhau. (14) Chủ yếu: Tôn chỉ.
Nghĩa Nôm: Giống nòi qua các thế hệ: Con nhà tông: không
giống lông cũng giống cánh; Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống; Thài lài mọc
cạnh bờ sông, tuy rằng xanh tốt vẫn tông thài lài; Yêu ai yêu cả đường đi; ghét
ai ghét cả tông chi họ hàng.
3.4. Chủ, có mấy chữ Hán: 主, 拄, 麈, 宔, 踽, 偊, 劚. Ở đây là chữ 主, là chữ gốc của 炷 (chú: bấc đèn). Giáp cốt văn nói là hình một bó đuốc. Thời cổ xưa, ngọn
lửa là rất quý, thường do tộc trưởng bảo quản, vì thế cũng dùng để chỉ người
thủ lãnh. Sau đó nghĩa mở rộng thành quân chủ, chủ nhân, chủ trì[3]…
主 (chủ) có nghĩa: (dt.) (1) Lửa trong đèn. (2) Người đương sự. (3) Chủ
trương. (4) Căn bản. (5) Tín đồ tôn giáo xưng vị thần của họ. (6) Bài vị của kẻ
chết. (7) Chủ yếu. (8) Người chủ: Chủ nhân. (9) Người có quyền. (10)
Người có quyền sở hữu: Địa chủ. (11) Vua chúa: Quân chủ. (12) Người bị hại: Khổ chủ. (đt.)
(13) Chủ trương. (14) Chịu trách nhiệm chính: Chủ nhiệm. (15) Thống trị. (tt.)
(16) Quan trọng nhất: Chủ lực. (17) Thuộc về mình: Chủ quan.
4. Nghĩa các thuật từ giáo hoàng, giáo tông, giáo chủ
4.1. Giáo hoàng (教皇): Giáo là tôn giáo; hoàng là vua.
Có người giải thích chữ “hoàng” nghĩa là
“lớn”, chúng ta nên hiểu hoàng trong thuật từ này hoàn toàn không có nghĩa là lớn gì cả,
vì khi hoàng là tĩnh từ mới có nghĩa là lớn, trong thuật từ giáo hoàng
thì hoàng không phải là tĩnh từ.
Theo từ ngữ, chỉ có thể giải nghĩa giáo hoàng
là vị vua
của đạo mà thôi. Tuy nhiên, khi chúng ta xưng vị lãnh đạo của Giáo Hội là vua thì
không thích hợp cho lắm. Chúng ta không phủ nhận có vị vua rất tốt, như vua của
Thái Lan rất được dân chúng kính trọng. Nhưng khi chúng ta xưng vị lãnh đạo của
tôn giáo của chúng ta là giáo hoàng, thì có vẻ còn mang nặng tư tưởng phong kiến và
chính trị.
4.2. Giáo tông (教宗): nghĩa là người
đứng đầu Giáo Hội.
Ngoài ra, tất cả những gì thuộc về giáo tông
đều mang chữ tông
và có cùng một hệ thống với những từ như: Tông thư, Tông huấn, Tông sắc, Tông
Toà..., nhưng không thể nói Hoàng thư, Hoàng huấn, Hoàng sắc, Hoàng Tòa...
được. Tuy người ta cũng gọi các uỷ ban của Toà Thánh là uỷ ban giáo hoàng, như
Uỷ ban Giáo Hoàng về Di sản Văn hóa của Giáo Hội, Uỷ ban Giáo Hoàng về Thánh
Kinh..., nhưng những thuật từ này chúng ta có thể thay thế bằng thuật từ giáo
tông một cách dễ dàng, như: Uỷ ban Giáo Tông về Thánh Kinh...
4.3. Giáo chủ (教主): nếu phân tích từng chữ có nhiều nghĩa,
nhưng thuật từ giáo
chủ có nghĩa là “người sở hữu tôn giáo đó”, tức là: người sáng
lập một tôn giáo[4], ví dụ: Thích Ca Mâu Ni là giáo
chủ của đạo Phật.
Trong tiếng Việt, thấy có người dịch một số từ
liên quan đến từ “giáo chủ” như:
- Maximus Pontifex: đức giáo chủ;
- Patriarch: thượng phụ giáo chủ;
- Metropolitan: trưởng giáo chủ;
- Primate (Giám mục hàng đầu, thứ nhất): giáo
chủ;
- Cardinal: thường dịch là hồng y, nhưng có
khi cũng dịch là hồng y giáo chủ...!
Như vậy, từ “giáo chủ” được gán hoặc ghép cho
các tước hiệu vừa kể có thực chính xác không?
5. Nhận xét
Có một điều rất lạ, trong khi người Hoa Công
Giáo trên toàn thế giới đều xưng vị lãnh đạo của chúng ta là giáo tông,
thì chính quyền Trung Quốc lại gọi là giáo hoàng. Trong khi nhóm “yêu nước”
thì xưng là giáo
tông, còn Giáo Hội “thầm lặng” cũng chia thành hai nhóm, các giáo
sĩ thì xưng là giáo
tông, còn giáo dân lại gọi là giáo hoàng. Chính quyền Trung Quốc gọi
giáo hoàng
với ý mỉa mai, xem ngài như di sản của chế độ phong kiến và vua của nước
Vatican. Còn giáo dân của Giáo Hội “trầm lặng” thì tôn ngài như vị lãnh đạo
đáng kính giống như vị vua thời xưa. Những cảm nghĩ này đều có tính chủ quan.
Giáo Hội tại Việt Nam từ xưa đã dùng thuật từ giáo hoàng,
sau dùng giáo
tông, nhưng không hiểu vì lí do gì mà không dùng giáo tông nữa mà
trở lại dùng giáo
hoàng. Sau này, có một số người dùng từ giáo chủ.
Kết
Tuy thuật từ giáo hoàng đã được sử dụng phổ
biến như thế thì khó mà thay đổi. Nhưng xét về mặt từ ngữ thì không thích hợp
cho lắm. Tất cả những danh xưng dành cho vị lãnh đạo của Giáo Hội trong tiếng
La Tinh hay Hippri đều không có từ nào ám chỉ ngài là vị hoàng đế cả.Chúng ta
cần suy nghĩ có nên dùng thuật từ Giáo Tông? Vì thuật từ Giáo Tông
ngoài nghĩa người đứng đầu, còn mang tính cách tông truyền nữa, cho nên thuật
từ Giáo Tông
thích hợp với vai trò vị lãnh đạo của Giáo Hội hơn cả.
[1] Các danh xưng trong tiếng Việt, chúng tôi lấy theo bản dịch Giáo Luật của
UBĐT, HĐGM/VN.
span lang=VI style='font-size:11.0pt;font-family:Verdana;
mso-bidi-font-family:Tahoma;color:navy;mso-ansi-language:VI'>[2] http://en.wikipedia.org/wiki/Papal-Current
và http://en.wikipedia.org/wiki/Pontifex_Maximus
[3] Lý Lạc Nghị, Tìm Về Cội Nguồn Chữ Hán,
NXB Thế Giới, Hà Nội, 1997.
[4] Hán Ngữ Từ Điển, NXB Thương Vụ,
Hồng Kông, 1968. Phan Văn Các (chủ biên), Từ Điển Hán Việt, Viện Ngôn Ngữ Học,
NXB TP. Hồ Chí Minh, 2001.